05/02/2018, 12:18

Phân tích bài thơ Viếng Lăng Bác của Viễn Phương – Bài tập làm văn số 7 lớp 9

Phân tích bài thơ Viếng Lăng Bác của Viễn Phương – Bài tập làm văn số 7 lớp 9 5 (100%) 1 đánh giá Xem nhanh nội dung1 Em hãy phân tích bài thơ Viếng Lăng Bác của Viễn Phương – Bài làm 1 2 Em hãy phân tích bài thơ Viếng Lăng Bác của Viễn Phương – Bài làm 2 3 Em hãy phân tích bài ...

Phân tích bài thơ Viếng Lăng Bác của Viễn Phương – Bài tập làm văn số 7 lớp 9 5 (100%) 1 đánh giá Xem nhanh nội dung1 Em hãy phân tích bài thơ Viếng Lăng Bác của Viễn Phương – Bài làm 1 2 Em hãy phân tích bài thơ Viếng Lăng Bác của Viễn Phương – Bài làm 2 3 Em hãy phân tích bài thơ Viếng Lăng Bác của Viễn Phương – Bài làm 3 4 Em hãy phân tích bài thơ Viếng Lăng Bác của Viễn Phương – Bài làm 4 Em hãy phân tích bài thơ Viếng Lăng Bác của Viễn Phương – Bài làm 1 Viễn Phương là một nhà thơ có tiếng, quê ở An Giang. Ông là một trong những cây bút có mặt sớm nhất trong lực lượng văn nghệ giải phóng ở miền nam từ thời kì chống Mĩ cứu nước. Ông đã cho ra đời nhiều bài thơ hay nhưng đặc sắc nhất là bài “viếng lăng Bác”. Bài thơ được sáng tác trong thời gian sau khi cuộc kháng chiếc chống mĩ kết thúc thắng lợi, dất nước thống nhất, lăng Bác cũng vừa khánh thành,Viễn Phương vinh dự ra thăm miền bắc, vào lăng viếng bác. Với niềm xúc động sâu sắc và lòng thành kính của mình, nhà thơ đã cho ra đời bài thơ “ viếng lăng Bác” và được in trong tập thơ”Như mây mùa xuân”. Ở khổ thơ đầu, nội dung chính là cảm xúc của tác giả trước cảnh vật ngoải lăng Bác. “Con ở miền nam ra thăm lăng bác Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng.” Khi tác giả từ miền Nam ra Hà Nội thăm bác, ông đã có một lời giới thiệu thật gọn” Con ở miền Nam ra thăm lăng bác”, Viễn Phương đã thể hiện lòng thành kính của mình đối với Bác qua từ” con” và địa danh nơi t/g sinh sống”niềm nam”lại càng làm nổi bật sự xúc động dạt dào của nhà thơ. Miền Nam-nơi chiến trường xưa, nơi Bác mong muốn vào thăm khi nước nhà thống nhất. Thế nhưng điều đó chưa kịp thực hiện thì Bác đã mãi mãi đi xa. Để bây giờ, t/g- người con của miền Nam lại phải lên thăm lại người cha giả kính yêu. t/g đã rất cẩn trọng trong việc dùng từ ngữ của mình”thăm lăng bác”, trong lòng nhà thơ vẫn luôn sống mãi với cuộc đời và với công lao của Người dành cho đất nước và dân chúng. Khi t/g bước vào trong khuôn viên lăng, cảnh đầu tiên t/g thấy chính là cây tre”đã thấy trong sương hàng tre bát ngát”. Tre nhiều và bạt ngàn khiến cho t/g phải ngạc nhiên mà cất tiếng kêu “Ôi!”. Hàng tre thẳng tắp, xanh bóng lại uy nghiêm và nghiêm trang, ko lung lay khi bão táp mưa sa:. Tre tượng trưng cho DT , đất nước VN kiên trì, bất khuất, bền bỉ và dũng cảm. Hàng tre bao quanh lăng bác như đang canh giữ giấc ngủ cho Bác. Chỉ trong vòng 4 câu thơ thôi mà t/g đã thể hiện niềm xúc động sâu sắc của mình qua những từ ngữ thật giàu tính biểu cảm và sử dụng những nghệ thuật thật đặc sắc như tượng trưng, ẩn dụ. Khổ thơ hai thể hiện cảm xúc của t/g trước dòng người vào lăng viếng bác. “Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân”. Nhà thơ dùng hình ảnh” mặt trời đi qua trên lăng” để mở đầu cho cảm xúc của mình. “ mặt trời” dường như đã quá quen thuộc đối với chúng ta, nhưng hình ảnh này được nhắc đến trong thơ của Viễn Phương lại sinh động hơn nhiều qua động tác “đi, thấy”. T/g đã thành công trong việc sử dụng nghệ thuật nhân hóa thật độc đáo. “Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ”. “ mặt trời trong lăng” là một hình ảnh ẩn dụ đẹp chỉ Bác.Ở câu thơ này nhà thơ đã ca ngợi công lao của bác và bày tỏ niềm tự hào, sự tôn kính đối với Bác. “ngày ngày dóng người đi trong thương nhớ”. Điệp ngữ “ngày ngày”, chỉ sự liên hoàn , từ ngày này sang ngày khác, thời gian nối tiếp trôi. “Dòng người đi trong thương nhớ Kết tràng hoa dâng 79 mùa xuân” Là một hình ảnh tả thực, dòng người đến viếng Bác đông, trông như những tràng hoa. Không những vậy, nhà thơ còn kết hợp với hình ảnh ẩn dụ , tượng trưng để thể hiện lòng biết ơn của nhân dân VN nói chung và nhân dân TG nói riêng.”bảy mươi chín mùa xuân” là hình ảnh hoán dụ về tuổi thọ của bác. Hai cặp câu cuối đã thể hiện thật rõ ràng sự tôn kính của nhân dân VN đối với Bác qua điệp ngữ liên hoàn, hình ảnh ẩn dụ và tả thực xen với hình ảnh nhân hóa thật độc đáo của Viễn Phương. Khổ ba thể hiện cảm xúc và suy nghĩ của t/g khi vào viếng lăng bác. “Bác nằm trong giấc ngủ bình yên Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền Vẫn biết trời xanh là mãi mãi Mà sao nghe nhói ở trong tim”. Khi t/g bước vào lăng t/g đã thấy” bác nằm trong giấc ngủ bình yên”, ông tưởng như Bác đang ngủ, một giấc ngủ bình yên, thanh thản. nhà thơ đã liên tưởng ánh đèn quanh Bác là ánh sáng của trăng. Dường như nhà thơ rất am hiểu về Bác thì phải, vì lúc sinh thời Bác đã từng xem trăng là người bạn tri kỉ, vui buồn có nhau và Người đã sáng tác rất nhiều bài thơ về trăng. Cho nên, khi nhìn thấy ánh sáng đèn thì t/g liền nghĩ ngay đến ánh trăng. Nhà thơ đã giúp cho trăng và bác lại trở thành bạn tri kỉ. lí trí của t/g bây giờ rất rõ là bác đã mất thế nhưng ông vẫn phải thốt lên rằng: ”Vẫn biết trời xanh là mãi mãi. Mà sao nghe nhói ở trong tim” “trời xanh” là một ẩn dụ đẹp chỉ bác hồ, nhà thơ luôn cho rằng Bác ko bao giờ mất, Bác chỉ đang ngủ thôi, bác mãi truồng tồn, vĩnh cửu trong lòng nhân dân VN và nhất là t/g. nhưng sự thật vẫn là sự thật, cho dù đó là diều quá đau lòng. Bác đã mãi mai đi xa, bác đang ngủ một giấc ngủ thiên thu và t/g thậ sự qua đau lòng khi biết điều này và cảm thấy đau lòng khi biết điều này và cảm thấy đau nhói ở trong tim. Khổ thơ đã diễn tả sự đau đớn của t/g khi thấy Bác đã qua đời qua những nghệ thuật đặc sắc. Khổ bốn thể hiện tâm trạng của t/g khi sắp phải rời xa lăng bác. “Mai về miền nam thương trào nước mắt Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này”. Đang ở trong lăng viếng bác mà t/g đã nghĩ đến “ mai về miền nam”, tâm trạng luyền tiếc, ngậm ngùi, ko muốn rời xa lăng bác. Lòng ông đau như cắt, nước mắt trào ra khi nhà thơ nghĩ đến điều đó. Nên t/g có một ước nguyện là làm con chim để hót cho Bác nghe. Nhưng t/g sợ con chim rồi cũng sẽ bay đi mất, nên t/g lại muốn làm đóa hoa để tỏa ngát hương thơm, làm đẹp cho lăng.Nhưng bông hoa rồi cũng sẽ tàn, nên t/g đã ước muốn mình làm cây tre bên lăng Bác, để bảo vệ lăng và đóng góp phần nhỏ bé của mình- người con hiếu thảo- cho người cha già kính yêu và càng được làm rõ qua diệp từ “muốn làm”, nhà thơ khao khát được bên bác, những hình ảnh ẩn dụ một lần nữa lại bổ sung thêm nghĩa trung hiếu của t/g đối với Bác Hồ. Tóm lại, bài thơ là một đặc sắc nghệ thuật của nhà thơ Viễn Phương, ko những thành công trong việc kết hợp thật độc đáo giàu các biện pháp tu từ mà bài thơ còn có giọng điệu trang trọng và tha thiết, ngôn ngữ bình dị, mà cô đúc, mà ko phải ai cũng có thể sáng tạo như thế được, và đó chỉ có thề là Viễn Phương. Em hãy phân tích bài thơ Viếng Lăng Bác của Viễn Phương – Bài làm 2 Viễn Phương ( 1928-2005) là một cây bút suất hiện sớm nhất của lực lượng văn học giải phóng Việt Nam. Thơ của ông nhẹ nhàng giàu cảm xúc. Viếng Lăng Bác là một sáng tác đặc sắc của ông, được viết tháng 4/1976. Khi ông ra viêng Lăng. Bài thơ có nhiều đặc sắc về nghệ thuật giọng điệu tha thiết, gợi cảm. Ngôn ngữ binfhd ị, bài thơ thể hiện lòng thành kính của tác giả và cũng như người dân Việt Nam với bác. Lần đầu tiên nhà thơ được ra bắc viếng Bác. Lên một cảm xúc dâng trào “Con ở miền nam ra thăm lăng bác” Câu thơ mở đầu như một thông báo nhưng không chỉ có thế. Trong câu thơ mộc mạc chân tình ấy đã hàm chứa xúc động bồi hồi của một người con từ miền nam marnhd dất bác ra đi chưa về. mảnh đất luôn làm cho trái tim bác thương nhớ mong chờ nhà thơ xưng con nhà thơ thể hiện sự thân thương, gần gữi và mọi người bằng tiếng bác thân quen.Lời xưng hô đó thể hiện sự kính trọng của nhà thơ với Bác. Bên cạnh đó tác giả dùng thừ thăm ngụ ý nói giảm. Thăm nơi bác ở, thăm chỗ bác nằm. Bác như còn sống trong lòng nhân dân Việt Nam gợi sự thân mật gần gũi. Hình ảnh đầu tiên tác giảm cảm nahanj là hình ảnh hàng tre bát ngát trong sớm bên lăng bác. Trước hết đây là hình ảnh thực, hình ảnh hàng tre quen thuộc của làng quê của đất nước Việt Nam bỗng trở lên dài rộng hơn, bát ngát hơn trong làn sương buổi sớm và từ đó nhà thơ suy nghĩ và liên tưởng. “ Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng” Hình ảnh hàng tre là hình ảnh biểu tượng cho con người Việt Nam bất khuất kiên cường. Hàm ý bão táp mưa xa nhằm chỉ khó khăn mà nhân dân ta đã vượt qua trong thời kì dựng nước và giữ nước. Đứng thẳng hàng là tinh thần đoàn kết đấu tranh chiến đấu anh dũng vì độc tập tự do của dân tộc Việt Nam. Vậy từ hình ảnh hàng tre mà nghĩ tới đất nước con người Việt Nam là suy nghĩ rất tự nhiên loogic Cây Tre- Việt Nam- Hồ Chí Minh- có quan hệ nội tại thống nhất gắn bó và thân thiết đã trở thành hình tượng quen thuộc với người dân việt nam và thế giới. “Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng Thấy một mặt trời tỏng lăng rất đỏ Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân” Nhệ bước vào trong lăng, nối tiếp bao nhiêu dòng người bước vào lăng. Nhà thơ đang theo dõi dòng người vào lăng viếng bác. Mở đầu cho đoạn thơ ngày ngày diễn tả thời gain nối tiếp . Hiện tượng đã trở thành quy luật bình thường đều đặn trong cuộc sống. người dân Việt Nam xếp hàng vào lăng viếng bác. Hình ảnh mặt trời ở câu thơ diễn tả hình ảnh mặt trời của thiên nhiên đất trời. rực rỡ vĩnh hằng là mặt trời tỏa ánh sáng ấm và năng lượng cho vũ trụ. Còn mặt trời trong lăng là ẩn dụ chỉ bác Hồ. Nói lên sự vĩ đại của bác như mặt trời cách mạng đem lại sự thay đổi cho dân tộc. Hai hình ảnh luôn sánh đôi soi chiếu tỏa sáng cho nhau và mãi trường tồn. Khổ thơ còn sử dụng một hình ảnh đẹp, tỏa sáng, hình ảnh dòng người xếp hàng chầm chậm, thành kính vào lăng viếng bác. Kết tràng hoa đi trong thương nhớ dâng bảy chín mùa xuân. Tuổi đời của bác hình ảnh ẩn dụ đó diễn tả tình cảm nhớ thương và tôn kính của nhà thơ và nhân dân đối với bác. Diễn tả cảm xúc sót thương và suy nghĩ của tác giả khi vào trong lăng. Khung cảnh và khaongr không yên tĩnh như cả thời gian và không khí quanh lăng bác. Đã được nhà thơ diễn tả bằng hai câu thơ giản dị. “Bác nằm trong giấc ngủ bình yên Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền” Câu thơ diễn tả thật tinh tế chính xác sự yên tĩnh trang nghiêm và ánh sáng dịu nhẹ trong trẻo không gian trong lăng bác. Hình ảnh vầng trăng dịu hiền của con người. Người nằm trong đó giấc ngủ bình yên, thanh thản dưới ánh trăng không phải là một sự ra đi. Đồng thời hình ảnh vầng trăng hiền dịu gợi nghĩ tới tâm hồn cao đẹp sáng trong của Bác. Và những vần thơ tràn đầy ánh trăng của bác. Tâm trạng xúc động của tác giả được biểu hiện bằng hình ảnh ẩn dụ sâu xa. “ Vẫn biết trời xnah là mãi mãi Mà sao nghe nhói ở trong tim” Hình ảnh vàng trăng tượng trưng cho sự vĩnh ái vô tận và sự nghiệp Hồ Chí Minh. Người đã hóa thân thành thiên nhiên, đất nước, dân tộc. Dù vẫn tin như thế nhưng không thể không đau sót vì sự ra đi của người. Nỗi đau sót đã được nhà thơ biểu hiện rất cụ thể trực tiếp mà sao nghe nói ở trong tim. Ý chỉ biết rõ điều đó nhưng vẫn đau buồn. bác đã đi xa thật rồi! Đó là mâu thuẫn giữa lí trí và thực tế. mâu thuẫn đó càng thấy được sự gần gũi tha thiết. Chuyến hành hương về nguồn chấm dứt tâm chí nhà thơ vẫn lưu luyến khong nguôi. Không muốn xa rời lăng Bác. “ Mai về miền Nam thương trào nước mắt Muốn làm con chim hót quanh lăng bác Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây Muốn làm cây tre trung hiếu trốn này.” Đó là tình cảm rất thực không chỉ nhà thơ mà bất cứ ai cũng có chung cảm xúc như vậy. Mắt trào lệ là một cảm xúc mãnh liệt. Chính vì cảm xúc nhớ thương vô hạn đó thấy được tình yêu của nhà thơ, của đất nước với bác. Bài thơ là nỗi lòng của tác giả , cũng lời những lời nói yêu thương thay cho cả nước gửi tới bác. Bác đã đi xa, nhưng hình ảnh , sự nghiệp và tình yêu thương của bác để lại luôn đẹp. Sự tôn trọng thành kính đối với chốn linh thiêng, nơi bác nằm là nơi mà cả dân tộc việc nam luôn hương tới dù bất cứ nơi nào của đất nước. Bác Hồ mãi sống và trường tồn với dân tộc Việt Nam. Em hãy phân tích bài thơ Viếng Lăng Bác của Viễn Phương – Bài làm 3 Chủ tịch Hồ Chí Minh là người con ưu tú của dâc tộc, vị lãnh tụ vĩ đạo của đất nước và là vị cha già hiền từ của mọi người dân Việt Nam. Với cái tên gọi “Bác” thân thương và gần gũi,Bác của chúng ta luôn là hiện thân của những điều cao đẹp nhất và mạnh mẽ nhất. Giờ đây tuy Bác đã đi xa chỉ còn lăng Bác là nơi thiêng liêng nhất lưu giữ bóng dáng Bác lúc sinh thời, là nơi chiêm ngưỡng và bày tỏ lòng thành kính của nhân dân cả nước. Nhà thơ Viễn Phương, một người con của miền đất Nam bộ khi được vinh dự ra thăm lăng Bác đã sáng tác bài “Viếng Lăng Bác”. Một bài thơ đã thể hiện niềm cảm xúc dạt dào được dồn nén kết tinh không chỉ từ lòng thương nhớ Bác của riêng tác giả mà còn là cả sự tôn kính của những đồng bào miền Nam. Đã có nhiều nhà thơ, nhà văn viết về Bác một cách rất đỗi nồng nàn và sâu lắng như Tố Hữu , Xuân Diệu… nhưng “Viếng Lăng Bác” của Viễn Phương lại gợi cho chúng ta niềm cảm xúc sâu xa nhất. Ngay từ khi mở đầu bài thơ, tác giả đã bộc lộ niềm xúc động dạt dào: Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác Tuy lời thơ mộc mạc, giản dị nhưng nó lại chứa đựng, lời tâm tình ngọt ngào, tha thiết bao trùm lên cảm xúc của nhà thơ. Từ xưng hô “Con….Bác” là cách gọi thân thương của đồng bào miền Nam đối với Bác, nó thể hiện sự ngậm ngùi và lòng thành kính của tác giả . Đặc biệt, nó đã thể hiện tình cảm của người con ở xa với nỗi nhớ thương ấp ủ bấy lâu nay đang bắt đầu trào dâng, thổn thức khi ra thăm lăng Bác. Từ cảm xúc chủ đạo của câu thơ đầu, ta lại nhận thấy yếu tố thực và ảo trong những câu sau: Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam Bão táp mưa sa đứng thẳng hang Tác giả đã khéo léo chọn hình ảnh cây tre làm cái nhìn đầu tiên khi thăm lăng Bác. Hình ảnh này đã quá thân thuộc và gần gũi với quê hương, đất nước, đã in sâu vào tiềm thức của tác giả. Đây là hình ảnh ẩn dụ gây ấn tượng mạnh, nó còn là biểu tượng của những đức tính cao quý hiện diện trong một dân tộc kiên cường bất khuất. Giống như những câu thơ của Nguyễn Duy: Thân gầy guộc,lá mong manh Mà sao nên lũy nên thành tre ơi! Thêm vào đó, hình ảnh cây tre đã làm cho tác giả cảm thấy thương xót lẫn tự hào. Thương xót vì tre phải chịu đựng bão táp, mưa sa; tự hào vì tre vẫn thẳng hàng, không nghiêng ngửa. Đây là một sự liên tưởng độc đáo: từ sương sa liên tưởng đến bão táp , mưa gió và tác giả đã chấp nối hình ảnh cây tre, Việt Nam và Hồ Chí Minh lại thành một. Ta thấy đặc sắc của khổ thơ này là mạch cảm xúc cứ trào dâng mãnh liệt theo từng cung bậc” , sắc thái khác nhau . Khi kể lể, lúc xao xuyến, trầm tư gợi nên một cảm xúc sâu lắng. Ở đây, tác giả đã sử dụng nhịp hai hoặc bốn với giọng điệu tha thiết khiến người đọc bị lôi cuốn mãnh liệt hơn. Khổ thơ hai bao trùm lên là không khí thực và ảo, với nhiều hình ảnh ẩn dụ và tượng trưng , liên tưởng sâu sắc, rộng rãi: Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ “Mặt trời trên lăng” là hình ảnh thực – là mặt trời của trái đất , là nguồn sáng rực rỡ và vĩnh hằng nhất thế gian. “Mặt trời trong lăng rất đỏ” làm ta nhớ đến trái tim nhiệt huyết, chân thành, yêu nước thương dân của Bác. Tác giả đã so sánh cái trường tồn, vĩnh hằng của mặt trời với cái vĩ đại , sự bất diệt của Bác, đó quả là một sự so sánh độc đáo, giàu sáng tạo, xuất thần, thoát sáo chưa hề có. Cùng với hình ảnh ẩn dụ “mặt trời trong lăng” là hình ảnh của “tràng hoa” khiến người đọc phải hình dung là chính mình đang hòa vào dòng người thương nhớ Bác để tô thắm thêm những mùa xuân tuyệt vời Bác đã trọn hiến dâng cho đất nước: Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ Kết tràng hoa dâng bảy mươi chin mùa xuân Dường như không phải mọi người đến viếng một thi hài mà là đến thăm một cuộc đời bảy mươi chín mùa xuân đã hoàn toàn hy sinh cho nước cho dân. Hình ảnh ẩn dụ “tràng hoa” là sự so sánh dòng người xếp hang vào thăm lăng Bác, nhưng tràng hoa dài bất tận. Đây thật sự là một so sánh hết sức sinh động , tự nhiên và thuần nhuyễn. Điều này còn được thể hiện qua điệp từ “ngày ngày” được lặp lại hai lần diễn tả một thời gian hầu như là vĩnh cửu, dài vô tận, nó cũng là tượng trưng cho nỗi long khôn nguôi nhớ Bác của đồng bào miền Nam. Khổ thứ ba là cảm xúc trào dâng mãnh liệt, diễn tả cảm xúc khi bước vào nơi ngự trị của sự im lặng , trang nghiêm, của sự yên nghỉ đời đời. Những câu thơ mới chân thực và mơ mộng biết bao! Bác nằm trong giấc ngủ bình yên Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền. Với các hình ảnh ẩn dụ độc đáo, tác giả đã bộc lộ cảm xúc dạt dào của mình và tình cảm thân thương, gần gũi đối với Bác. Cuộc đời của Bác như “mặt trời”, giấc ngủ của Bác như “vầng trăng”-“vầng trăng” mang ánh sáng dịu nhẹ soi đường chỉ lối cho đất nước tiến đến một tương lai tốt đẹp hơn. Dẫu rằng Bác đã trở nên bất tử , đã hòa nhập vào thiên nhiên cao rộng, vĩnh hằng nhưng vẫn không che giấu được sự thương xót , nuối tiếc từ một sự thật hết sức đau lòng là Bác đã ra đi vĩnh viễn: Vẫn biết trời xanh là mãi mãi Mà sao nghe nhói ở trong tim Hình ảnh “trời xanh” cũng càng khẳng định rằng Bác thật sự đã ra đi mãi mãi. Lời thơ dẫn dắt người đọc vào thực tế ấy như mũi kim đâm “nhói” vào tim, gợi sự đau lòng, nuối tiếc và nỗi xót xa trào dâng mãnh liệt trong lòng tác giả , câu thơ như một tiếng khóc nghẹn ngào. Sự mâu thuẫn ấy đã góp phần tạo nên kịch tính cho cả bài thơ , làm cho bài thơ đầy cảm xúc và cũng tràn đầy nước mắt. Nhưng hình ảnh ẩn dụ sáng tạo, độc đáo như “vầng trăng”, “trời xanh” cũng tạo nên cái hay và đặc sắc của bài thơ. Khổ cuối cùng vẫn liền mạch cảm xúc dạt dào của những khổ trước cộng thêm sự luyến tiếc đang trào dâng trong tim tác giả. Tuy vẫn còn đứng bên Bác, nhà thơ đã bịn rịn nhớ đến phút sắp chia xa: Mai về miền Nam thương trào nước mắt Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này. Không phải rưng rưng, rơm rớm mà là “trào”, chứng tỏ một cảm xúc , tình yêu thương mãnh liệt đối với Bác mới thiết tha, sâu lắng làm sao. Ở đây, tác giả không sử dụng một biện pháp nghệ thuật tu từ gì cả, nó xuất phát từ tận đáy lòng của tác giả nhưng vẫn khiến chúng ta xúc động với những câu thơ vô cùng giản dị ấy. Nỗi đau như dồn nén giữa tâm hồn làm nảy sinh bao ước muốn: muốn làm con chim hót quanh lăng để chúng vui tươi, nhí nhảnh; muốn làm đóa hoa tỏa làn hương như thực, như hư; muốn làm cây tre bầu bạn với Bác mỗi ngày, canh từng giấc ngủ cho Bác. Tất cả những ước muốn ấy chắc hẳn cùng chung một mục đích là muốn làm vơi nổi vắng vẻ, yên ắng trong lăng. Điệp từ “muốn làm” lặp đi lặp lại ba lần chẳng những thể hiện được ước nguyện của tác giả, mong ước chung của đồng bào miền Nam mà còn tạo nên một nghệ thuật đặc sắc cho bài thơ. Ở đây, hình ảnh cây tre lại xuất hiện khép lại bài thơ một cách khéo léo nhưng vẫn rất tự nhiên, không gò bó. “Viếng lăng Bác” của Viễn Phương là bài thơ giàu hình ảnh, giàu chất suy tưởng và lãng mạn trữ tình. Trong bốn khổ thơ, khổ nào cũng đầy ấp ẩn dụ , những ẩn dụ đẹp và trang nhã thể hiện lòng thành kính đối với Bác và nâng cao tâm hồn của nhà thơ. Hơn nữa, bằng sự luyến láy từ ngữ, âm điệu phong phú, lời thơ mộc mạc và giản dị đã làm cho bài thơ tràn đầy cảm xúc một cách sâu lắng. Chính vì vậy, bài thơ đã sớm được phổ nhạc và trở thành bài hát hết sức truyền cảm, giọng điệu êm ái, nhẹ nhàng , trở nên quen thuộc đối với tất cả chúng ta Em hãy phân tích bài thơ Viếng Lăng Bác của Viễn Phương – Bài làm 4 Bao giờ cũng thế, một tác phẩm đặc sắc phải bao gồm cái đặc sắc và thành công về cả hai mặt nội dung và nghệ thuật. Tác phẩm ấy như một nguồn nước giếng trong, khơi mãi vẫn không hết cái ngọt ngào, lắng sâu của tình yêu con người, vẫn không cạn nguồn sức mạnh truyền vào trong cuộc sống. Bài thơ “Viếng lăng Bác” của Viễn Phương là một tác phẩm như thế. Được sáng tác vào năm 1976, bài thơ mang đậm chất trữ tình này đã ghi lại tình cảm sâu lăng, thành kính cảu nhà thơ khi hoà vào dòng người viếng lăng Bác. Bài thơ cũng là tiếng nói, là nỗi niềm tâm sự của nhận dân Nambộ và nhân dân cả nước dành cho Bác. Mở đầu bài thơ là cảm xúc của tác giả khi vừa bước chân vào lăng. Nhà thơ xưng “con” và gọi “Bác”; lời thơ giản dị, mộc mạc mà chát chức bao tình cảm gần gũi, thân thương, kính trọng chủ tịch Hồ Chí Minh của ông. Điều đó càng cho thấy Bác là một con nguời rất hoà đồng và gần gũi. Chính vậy nhà thơ Tố hữ có viết “Người là Cha, là Bác, là Anh”. Chi tiết thơ “Con ở miền Nam” còn mang một sắc thái đầy xúc độgn. Khúc ruột miền Namlà miền đất xa xôi mà Bác không nguôi ngóng chờ, cho đến những ngày trước luc lâm chung thì trái tim ngươờ vẫn luôn huớng về mìen Nam ruột thịt. Nơi đó có biết bao đồng bào ta đang ngày đêm chiến đấu và anh dũng hy sinh vì một nàgy mai nước nhà thống nhất. Nhưng…Bác đã không chờ được đến ngày đó. Người đã ra đi mãi mãi vào cõi vĩnh hằng để lại muôn vàn niềm thương tiếc cho nhân dân ta. Câu thơ đầu gọn như một lời thông báo nhưng lại chứa chan bao tình cảm xúc độgn, bồi hồi của tác giả đối với vị cha già kính yêu của dân tộc. Và trong cái mênh mang sương mù của mọt ngày mùa thu Hà Nội, qua con mắt thi nhân của Viễn Phương, ta chợt tìm thấy một “hàng tre” Việt Nam. Đến với Bác, đến với hàng tre, ta như đến với quê hương làng mạc, đến với mái nhà tranh âm vang lời ru của bà, của mẹ; đén với Bác là đến với dân tộc mình, thế mới đẹp làm sao! Hình ảnh nhân hoá hàng tre “bão táp mưa sa đứng thẳng hàng” còn là biểu tượng bất diệt của con người VN kiên cường, bất khuất biền bỉ. Màu xanh của tre chính là màu xanh của sức sốg VN, màu xanh của hy vnọg, hạnh phúc và hoà bình. Đây quả là một tứ thơ độc đáo, giàu ý nghĩa tượng trưng: “Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát Ôi hàng tre xanh xanh Việt Nam Bão táp mưa sa đứng thẳng hàg” Và nhà thơ phải kính yêu Bác lắm mới viết được những hình ảnh ẩn dụ tài tình này: “Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ” Cũng là “mặt trời” nhưng “mặt trời” ở câu thơ thứ nhất là mặt trời của thiên nhiên vũ trụ, ngày ngày tỏ sáng, đem sự sống cho muôn loài, vạn vật, nó cũng có lúc quạnh quẽo, u ám. Còn “mặt trời” của nhận dân VN. “mặt trời” trong lăng thì vẫn luôn chiếu ánh sáng vĩnh hằng, đỏ mãi. Bác chính là vầng mặt trời hồng toả tia sáng soi rọi con đừơng giúp dân tộc ta thoát khỏi kiếp đời nô lệ, là sức mạnh giúp nhân dân ta chèo lái con thuyền cách mạng cập bến vinh quang, đi đến bờ thắng lợi. Dù rằng đã ra đi mãi mãi nhưng Bác vẫn luôn bất tử, tư tưởng HCM vẫn luôn trường tồn, soi đường dẫn lối cho dân tộc ta đứng lên. Hoà nhịp với gần trăm triệu bàn chân VN, hàng triệu bàn chân lao độgn trên thế giới, Viễn Phương bùi ngùi xúc động bước vào lăng: “Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân” Hình ảnh dòng người vào lăng viếng Bác được tác giả ví như nhưng trànghoa dâng lên người. “Bảy mươi chín” tràng hoa, ấy là bày mươi chín màu xuân, bày mươi chín năm cống hiến, hy sinh hết mình của Bác đối với dân tộc và nhân dân ta. Và quả thật, Bác chính là mùa xuân, và mùa xuân ấy đã làm cho cuộc đời người dân VN nở hoa. Điệp ngữ “ngày ngày” đứng mỗi ý thơ giữ vị trí “nhãn tự”, vừa thể hiện một qui luật trình tự của dòng người vào lăng viếng Bác, lại vừa thể hiện một qui luật tự nhiên của tạo hoá. Đứng trước sự vĩ đại, to lớn của Bác, ta cũng vô thức bị dòng thơ cuốn và trong lăng lúc nào không hay: “Bác nằm trong giấc ngủ bình yên Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền Vãn biết trời xanh là mãi mãi Mà sao nghe nhói ở trong tim” Bác đang nằm đây, ngay trước mắt nhà thơ, hiền hậu, nhân từ như một vầng trăng “dịu hiền”, mát mẻ mà vãn trong sáng rạng ngời.Ta có cảm giác như Bác vẫn chưa đi xa, vẫn chưa rời khỏi thế gian này mà Người đang ngủ đấy thôi. Lí trí thì nói bác đang ngủ, nghĩa là Bác vẫn còn sống mãi với đất nước, với dân tộc ta như trời xanh còn mãi trên đầu. Mỗi ngày ngẩng đầu nhìn ta lại thấy trời xanh, lại thấy Bác. Bác không bao giờ mất, Bác sống mãi cùng dân tộc ta, trong mỗi cuộc đời, trong mỗi sự việc mà chúng ta làm vì độc lập tự do, vì chủ nghĩa xã hội. Ta biết thế, ta nghĩ thế nhưng sao tim ta vẫn “đau nhói”, mắt ta vẫn trào dâng khi nhận ra rằng: Bác đã không còn nữa! Khổ thơ thứ hai và ba là một chuỗi các hình ảnh vũ trụ: mặt trời, vầng trăng, trời xanh lồng vào nhau như để ca ngời tầm vóc lớn lao của Bác; đồng thời thể hiện lòng tôn kíh vô hạn của tác giả, của nhân dân đối với vị cha già kính yêu của dân tộc. Bài thơ bắt đầu bằng sự kiện “Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác” và cũng kết thúc bằng chi tiết “Mai về miền Nam”. Đây là giờ phút sắp chia tay với Bác, tâm trạgn nhà thơ tràn đầy niềm cảm thương xen lẫn bùi ngùi, lưu luyến. Điều đó được thể hiện qua hình ảnh cuờng điệu: “Thương trào nước mắt” : “Mai về miền Nam thương trào nước mắt Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác Muốn làm đóa hoa toả hương đâu đây Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này” Tình thương xót nén giữa tam hồn đã làm nảy sinh bao ước muốn: “muốn là con chin” để dâng lên tiếng hót vui, “muốn là đoá hoa” dâng hương thơm ngát, “muốn làm cây tre trung hiếu” canh gác chi giấc ngủ yên lành của Bác. Nhịp điệu khổ thơ lúc này dồn dập với điệp ngữ “muốn làm” nhắc lại đến ba lần và các hình ảnh liên tiếp xuất hiện như một dòng khát khao mãnh liệt của nhà thơ muốn được gần Bác mãi mãi. Bằng tất cả tình cảm chan thành, Viễn Phương đã làm “Viếng lăng Bác” trở thành một bản tình ca bất tận để lại ấn tượgn sâu sắc cho bao người dân Việt Nam. Bài thơ hay không chỉ vì các nghệ thuật, kĩ sảo độc đáo mà quan trọgn hơn, đó là sự kết hợp nhuẫn nhị giữa cái “tâm” của một nguời con yêu nước và cái “tài” của người nghệ sĩ. Rất nhiều năm tháng đã đi qua nhưng mỗi thế hệ đọclại “Viếng lăng Bác” đều đón nhận vào tâm hồn mình một ánh sáng tư tưởng, tình cảm của nhà thơ và đồng thời cũng thấm nhuần vẻ đẹp trong suốt, lấp lánh toả ra từ chính cuộc đời, trí tuệ và trái tim Bác Hồ. Từ khóa tìm kiếm:bài tập thơ viếng lăng bác Bài viết liên quanPhân tích bài thơ Mùa xuân nho nhỏ của Thanh Hải – Bài tập làm văn số 7 lớp 9Cảm nhận của em về bài thơ Sang thu của Hữu Thỉnh – Bài tập làm văn số 7 lớp 9Phân tích bài thơ Nói với con của Y Phương – Bài tập làm văn số 7 lớp 9Đề luyện thi đại học môn Sinh học số 5Bài tập trắc nghiệm Địa lý lớp 10 Bài 32 (tiếp theo)Bài tập trắc nghiệm Vật lý lớp 12: Chương 7 (phần 2)Kể lại một truyện đã biết (truyền thuyết, cổ tích) bằng lời văn của em – Bài tập làm văn số 1 lớp 6Tôi thấy mình đã khôn lớn – Bài tập làm văn số 1 lớp 8

Xem nhanh nội dung

Em hãy phân tích bài thơ Viếng Lăng Bác của Viễn Phương – Bài làm 1

Viễn Phương là một nhà thơ có tiếng, quê ở An Giang. Ông là một trong những cây bút có mặt sớm nhất trong lực lượng văn nghệ giải phóng ở miền nam từ thời kì chống Mĩ cứu nước. Ông đã cho ra đời nhiều bài thơ hay nhưng đặc sắc nhất là bài “viếng lăng Bác”.

Bài thơ được sáng tác trong thời gian sau khi cuộc kháng chiếc chống mĩ kết thúc thắng lợi, dất nước thống nhất, lăng Bác cũng vừa khánh thành,Viễn Phương vinh dự ra thăm miền bắc, vào lăng viếng bác. Với niềm xúc động sâu sắc và lòng thành kính của mình, nhà thơ đã cho ra đời bài thơ “ viếng lăng Bác” và được in trong tập thơ”Như mây mùa xuân”.

Ở khổ thơ đầu, nội dung chính là cảm xúc của tác giả trước cảnh vật ngoải lăng Bác.

“Con ở miền nam ra thăm lăng bác

Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát

Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam

Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng.”

Khi tác giả từ miền Nam ra Hà Nội thăm bác, ông đã có một lời giới thiệu thật gọn” Con ở miền Nam ra thăm lăng bác”, Viễn Phương đã thể hiện lòng thành kính của mình đối với Bác qua từ” con” và địa danh nơi t/g sinh sống”niềm nam”lại càng làm nổi bật sự xúc động dạt dào của nhà thơ. Miền Nam-nơi chiến trường xưa, nơi Bác mong muốn vào thăm khi nước nhà thống nhất. Thế nhưng điều đó chưa kịp thực hiện thì Bác đã mãi mãi đi xa. Để bây giờ, t/g- người con của miền Nam lại phải lên thăm lại người cha giả kính yêu. t/g đã rất cẩn trọng trong việc dùng từ ngữ của mình”thăm lăng bác”, trong lòng nhà thơ vẫn luôn sống mãi với cuộc đời và với công lao của Người dành cho đất nước và dân chúng. Khi t/g bước vào trong khuôn viên lăng, cảnh đầu tiên t/g thấy chính là cây tre”đã thấy trong sương hàng tre bát ngát”. Tre nhiều và bạt ngàn khiến cho t/g phải ngạc nhiên mà cất tiếng kêu “Ôi!”. Hàng tre thẳng tắp, xanh bóng lại uy nghiêm và nghiêm trang, ko lung lay khi bão táp mưa sa:. Tre tượng trưng cho DT , đất nước VN kiên trì, bất khuất, bền bỉ và dũng cảm. Hàng tre bao quanh lăng bác như đang canh giữ giấc ngủ cho Bác. Chỉ trong vòng 4 câu thơ thôi mà t/g đã thể hiện niềm xúc động sâu sắc của mình qua những từ ngữ thật giàu tính biểu cảm và sử dụng những nghệ thuật thật đặc sắc như tượng trưng, ẩn dụ.

Khổ thơ hai thể hiện cảm xúc của t/g trước dòng người vào lăng viếng bác.

“Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng

Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ

Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ

Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân”.

Nhà thơ dùng hình ảnh” mặt trời đi qua trên lăng” để mở đầu cho cảm xúc của mình. “ mặt trời” dường như đã quá quen thuộc đối với chúng ta, nhưng hình ảnh này được nhắc đến trong thơ của Viễn Phương lại sinh động hơn nhiều qua động tác “đi, thấy”. T/g đã thành công trong việc sử dụng nghệ thuật nhân hóa thật độc đáo. “Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ”. “ mặt trời trong lăng” là một hình ảnh ẩn dụ đẹp chỉ Bác.Ở câu thơ này nhà thơ đã ca ngợi công lao của bác và bày tỏ niềm tự hào, sự tôn kính đối với Bác. “ngày ngày dóng người đi trong thương nhớ”. Điệp ngữ “ngày ngày”, chỉ sự liên hoàn , từ ngày này sang ngày khác, thời gian nối tiếp trôi.

“Dòng người đi trong thương nhớ

Kết tràng hoa dâng 79 mùa xuân”

Là một hình ảnh tả thực, dòng người đến viếng Bác đông, trông như những tràng hoa. Không những vậy, nhà thơ còn kết hợp với hình ảnh ẩn dụ , tượng trưng để thể hiện lòng biết ơn của nhân dân VN nói chung và nhân dân TG nói riêng.”bảy mươi chín mùa xuân” là hình ảnh hoán dụ về tuổi thọ của bác. Hai cặp câu cuối đã thể hiện thật rõ ràng sự tôn kính của nhân dân VN đối với Bác qua điệp ngữ liên hoàn, hình ảnh ẩn dụ và tả thực xen với hình ảnh nhân hóa thật độc đáo của Viễn Phương.

Khổ ba thể hiện cảm xúc và suy nghĩ của t/g khi vào viếng lăng bác.

“Bác nằm trong giấc ngủ bình yên

Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền

Vẫn biết trời xanh là mãi mãi

Mà sao nghe nhói ở trong tim”.

Khi t/g bước vào lăng t/g đã thấy” bác nằm trong giấc ngủ bình yên”, ông tưởng như Bác đang ngủ, một giấc ngủ bình yên, thanh thản. nhà thơ đã liên tưởng ánh đèn quanh Bác là ánh sáng của trăng. Dường như nhà thơ rất am hiểu về Bác thì phải, vì lúc sinh thời Bác đã từng xem trăng là người bạn tri kỉ, vui buồn có nhau và Người đã sáng tác rất nhiều bài thơ về trăng. Cho nên, khi nhìn thấy ánh sáng đèn thì t/g liền nghĩ ngay đến ánh trăng. Nhà thơ đã giúp cho trăng và bác lại trở thành bạn tri kỉ. lí trí của t/g bây giờ rất rõ là bác đã mất thế nhưng ông vẫn phải thốt lên rằng:

”Vẫn biết trời xanh là mãi mãi.

Mà sao nghe nhói ở trong tim”

“trời xanh” là một ẩn dụ đẹp chỉ bác hồ, nhà thơ luôn  cho rằng Bác ko bao giờ mất, Bác chỉ đang ngủ thôi, bác mãi truồng tồn, vĩnh cửu trong lòng nhân dân VN và nhất là t/g. nhưng sự thật vẫn là sự thật, cho dù đó là diều quá đau lòng. Bác đã mãi mai đi xa, bác đang ngủ một giấc ngủ thiên thu  và t/g thậ sự qua đau lòng khi biết điều này và cảm thấy đau lòng khi biết điều này và cảm thấy đau nhói ở trong tim. Khổ thơ đã diễn tả sự đau đớn của t/g khi thấy Bác đã qua đời qua những nghệ thuật đặc sắc.

Khổ bốn thể hiện tâm trạng của t/g khi sắp phải rời xa lăng bác.

“Mai về miền nam thương trào nước mắt

Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác

Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây

Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này”.

Đang ở trong lăng viếng bác mà t/g đã nghĩ đến “ mai về miền nam”, tâm trạng luyền tiếc, ngậm ngùi, ko muốn rời xa lăng bác. Lòng ông đau như cắt, nước mắt trào ra khi nhà thơ nghĩ đến điều đó. Nên t/g có một ước nguyện là làm con chim để hót cho Bác nghe. Nhưng t/g sợ con chim rồi cũng sẽ bay đi mất, nên t/g lại muốn làm đóa hoa  để tỏa ngát hương thơm, làm đẹp cho lăng.Nhưng bông hoa rồi cũng sẽ tàn, nên t/g đã ước muốn mình làm cây tre bên lăng Bác, để bảo vệ lăng và đóng góp phần nhỏ bé của mình- người con hiếu thảo- cho người cha già kính yêu và càng được làm rõ qua diệp từ “muốn làm”, nhà thơ khao khát được bên bác, những hình ảnh ẩn dụ một lần nữa lại bổ sung thêm nghĩa trung hiếu của t/g đối với Bác Hồ.

Tóm lại, bài thơ là một đặc sắc nghệ thuật của nhà thơ Viễn Phương, ko những thành công trong việc kết hợp thật độc đáo giàu các biện pháp tu từ mà bài thơ còn có giọng điệu trang trọng và tha thiết, ngôn ngữ bình dị, mà cô đúc, mà ko phải ai cũng có thể sáng tạo như thế được, và đó chỉ có thề là Viễn Phương.

Em hãy phân tích bài thơ Viếng Lăng Bác của Viễn Phương – Bài làm 2

Viễn Phương ( 1928-2005) là một cây bút suất hiện sớm nhất của lực lượng văn học giải phóng Việt Nam. Thơ của ông nhẹ nhàng giàu cảm xúc. Viếng Lăng Bác là một sáng tác đặc sắc của ông, được viết tháng 4/1976. Khi ông ra viêng Lăng. Bài thơ có nhiều đặc sắc về nghệ thuật giọng điệu tha thiết, gợi cảm. Ngôn ngữ binfhd ị, bài thơ thể hiện lòng thành kính của tác giả và cũng như người dân Việt Nam với bác.

Lần đầu tiên nhà thơ được ra bắc viếng Bác. Lên một cảm xúc dâng trào

“Con ở miền nam ra thăm lăng bác”

 Câu thơ mở đầu như một thông báo nhưng không chỉ có thế. Trong câu thơ mộc mạc chân tình ấy đã hàm chứa xúc động bồi hồi của một người con từ miền nam marnhd dất bác ra đi chưa về. mảnh đất luôn làm cho trái tim bác thương nhớ mong chờ nhà thơ xưng con nhà thơ thể hiện sự thân thương, gần gữi và mọi người  bằng tiếng bác thân quen.Lời xưng hô đó thể hiện sự kính trọng của nhà thơ với Bác. Bên cạnh đó tác giả dùng thừ thăm ngụ ý nói giảm. Thăm nơi bác ở, thăm chỗ bác nằm. Bác như còn sống trong lòng nhân dân Việt Nam gợi sự thân mật gần gũi.

Hình ảnh đầu tiên tác giảm cảm nahanj là hình ảnh hàng tre bát ngát trong sớm bên lăng bác. Trước hết đây là hình ảnh thực, hình ảnh hàng tre quen thuộc của làng quê của đất nước Việt Nam bỗng trở lên dài rộng hơn, bát ngát hơn trong làn sương buổi sớm và từ đó nhà thơ suy nghĩ và liên tưởng.

“ Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng”

Hình ảnh hàng tre là hình ảnh biểu tượng cho con người Việt Nam bất khuất kiên cường. Hàm ý bão táp mưa xa nhằm chỉ khó khăn mà nhân dân ta đã vượt qua trong thời kì dựng nước và giữ nước. Đứng thẳng hàng là tinh thần đoàn kết đấu tranh chiến đấu anh dũng vì độc tập tự do của dân tộc Việt Nam. Vậy từ hình ảnh hàng tre mà nghĩ tới đất nước con người Việt Nam là suy nghĩ rất tự nhiên loogic Cây Tre- Việt Nam- Hồ Chí Minh- có quan hệ nội tại thống nhất gắn bó và thân thiết đã trở thành hình tượng quen thuộc với người dân việt nam và thế giới.

“Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời tỏng lăng rất đỏ
Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân”

Nhệ bước vào trong lăng, nối tiếp bao nhiêu dòng người bước vào lăng. Nhà thơ đang theo dõi dòng người vào lăng viếng bác.

Mở đầu cho đoạn thơ ngày ngày diễn tả thời gain nối tiếp . Hiện tượng đã trở thành quy luật bình thường đều đặn trong cuộc sống. người dân Việt Nam xếp hàng vào lăng viếng bác. Hình ảnh mặt trời ở câu thơ diễn tả hình ảnh mặt trời của thiên nhiên đất trời. rực rỡ vĩnh hằng là mặt trời tỏa ánh sáng ấm và năng lượng cho vũ trụ. Còn mặt trời trong lăng là ẩn dụ chỉ bác Hồ. Nói lên sự vĩ đại của bác như mặt trời cách mạng đem lại sự thay đổi cho dân tộc. Hai hình ảnh luôn sánh đôi soi chiếu tỏa sáng cho nhau và mãi trường tồn. Khổ thơ còn sử dụng một hình ảnh đẹp, tỏa sáng, hình ảnh dòng người xếp hàng chầm chậm, thành kính vào lăng viếng bác. Kết tràng hoa đi trong thương nhớ dâng bảy chín mùa xuân. Tuổi đời của bác hình ảnh ẩn dụ đó diễn tả tình cảm nhớ thương và tôn kính của nhà thơ và nhân dân đối với bác.

Diễn tả cảm xúc sót thương và suy nghĩ của tác giả khi vào trong lăng. Khung cảnh và khaongr không yên tĩnh như cả thời gian và không khí quanh lăng bác. Đã được nhà thơ diễn tả bằng hai câu thơ giản dị.

“Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền”

Câu thơ diễn tả thật tinh tế chính xác sự yên tĩnh trang nghiêm và ánh sáng dịu nhẹ trong trẻo không gian trong lăng bác. Hình ảnh vầng trăng dịu hiền của con người. Người nằm trong đó giấc ngủ bình yên, thanh thản dưới ánh trăng không phải là một sự ra đi. Đồng thời hình ảnh vầng trăng hiền dịu gợi nghĩ tới tâm hồn cao đẹp sáng trong của Bác. Và những vần thơ tràn đầy ánh trăng của bác. Tâm trạng xúc động của tác giả được biểu hiện bằng hình ảnh ẩn dụ sâu xa.

“ Vẫn biết trời xnah là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim”

 Hình ảnh vàng trăng tượng trưng cho sự vĩnh ái vô tận và sự nghiệp Hồ Chí Minh. Người đã hóa thân thành thiên nhiên, đất nước, dân tộc. Dù vẫn tin như thế nhưng không thể không đau sót vì sự ra đi của người. Nỗi đau sót đã được nhà thơ biểu hiện rất cụ thể trực tiếp mà sao nghe nói ở trong tim. Ý chỉ biết rõ điều đó nhưng vẫn đau buồn. bác đã đi xa thật rồi! Đó là mâu thuẫn giữa lí trí và thực tế. mâu thuẫn đó càng thấy được sự gần gũi tha thiết.

Chuyến hành hương về nguồn chấm dứt tâm chí nhà thơ vẫn lưu luyến khong nguôi. Không muốn xa rời lăng Bác.

“ Mai về miền Nam thương trào nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng bác
Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu trốn này.”

Đó là tình cảm rất thực không chỉ nhà thơ mà bất cứ ai cũng có chung cảm xúc như vậy. Mắt trào lệ là một cảm xúc mãnh liệt. Chính vì cảm xúc nhớ thương vô hạn đó thấy được tình yêu của nhà thơ, của đất nước với bác.

Bài thơ là nỗi lòng của tác giả , cũng lời những lời nói yêu thương thay cho cả nước gửi tới bác. Bác đã đi xa, nhưng hình ảnh , sự nghiệp và tình yêu thương của bác để lại luôn đẹp. Sự tôn trọng thành kính đối với chốn linh thiêng, nơi bác nằm là nơi mà cả dân tộc việc nam luôn hương tới dù bất cứ nơi nào của đất nước. Bác Hồ mãi sống và trường tồn với dân tộc Việt Nam.

Em hãy phân tích bài thơ Viếng Lăng Bác của Viễn Phương – Bài làm 3

Chủ tịch Hồ Chí Minh là người con ưu tú của dâc tộc, vị lãnh tụ vĩ đạo của đất nước và là vị cha già hiền từ của mọi người dân Việt Nam. Với cái tên gọi “Bác” thân thương và gần gũi,Bác của chúng ta luôn là hiện thân của những điều cao đẹp nhất và mạnh mẽ nhất. Giờ đây tuy Bác đã đi xa chỉ còn lăng Bác là nơi thiêng liêng nhất lưu giữ bóng dáng Bác lúc sinh thời, là nơi chiêm ngưỡng và bày tỏ lòng thành kính của nhân dân cả nước. Nhà thơ Viễn Phương, một người con của miền đất Nam bộ khi được vinh dự ra thăm lăng Bác đã sáng tác bài “Viếng Lăng Bác”. Một bài thơ đã thể hiện niềm cảm xúc dạt dào được dồn nén kết tinh không chỉ từ lòng thương nhớ Bác của riêng tác giả mà còn là cả sự tôn kính của những đồng bào miền Nam.

Đã có nhiều nhà thơ, nhà văn viết về Bác một cách rất đỗi nồng nàn và sâu lắng như Tố Hữu , Xuân Diệu… nhưng “Viếng Lăng Bác” của Viễn Phương lại gợi cho chúng ta niềm cảm xúc sâu xa nhất. Ngay từ khi mở đầu bài thơ, tác giả đã bộc lộ niềm xúc động dạt dào:

Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác

Tuy lời thơ mộc mạc, giản dị nhưng nó lại chứa đựng, lời tâm tình ngọt ngào, tha thiết bao trùm lên cảm xúc của nhà thơ. Từ xưng hô “Con….Bác” là cách gọi thân thương của đồng bào miền Nam đối với Bác, nó thể hiện sự ngậm ngùi và lòng thành kính của tác giả . Đặc biệt, nó đã thể hiện tình cảm của người con ở xa với nỗi nhớ thương ấp ủ bấy lâu nay đang bắt đầu trào dâng, thổn thức khi ra thăm lăng Bác. Từ cảm xúc chủ đạo của câu thơ đầu, ta lại nhận thấy yếu tố thực và ảo trong những câu sau:

Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hang

Tác giả đã khéo léo chọn hình ảnh cây tre làm cái nhìn đầu tiên khi thăm lăng Bác. Hình ảnh này đã quá thân thuộc và gần gũi với quê hương, đất nước, đã in sâu vào tiềm thức của tác giả. Đây là hình ảnh ẩn dụ gây ấn tượng mạnh, nó còn là biểu tượng của những đức tính cao quý hiện diện trong một dân tộc kiên cường bất khuất. Giống như những câu thơ của Nguyễn Duy:

Thân gầy guộc,lá mong manh
Mà sao nên lũy nên thành tre ơi!

Thêm vào đó, hình ảnh cây tre đã làm cho tác giả cảm thấy thương xót lẫn tự hào. Thương xót vì tre phải chịu đựng bão táp, mưa sa; tự hào vì tre vẫn thẳng hàng, không nghiêng ngửa. Đây là một sự liên tưởng độc đáo: từ sương sa liên tưởng đến bão táp , mưa gió và tác giả đã chấp nối hình ảnh cây tre, Việt Nam và Hồ Chí Minh lại thành một. Ta thấy đặc sắc của khổ thơ này là mạch cảm xúc cứ trào dâng mãnh liệt theo từng cung bậc” , sắc thái khác nhau . Khi kể lể, lúc xao xuyến, trầm tư gợi nên một cảm xúc sâu lắng. Ở đây, tác giả đã sử dụng nhịp hai hoặc bốn với giọng điệu tha thiết khiến người đọc bị lôi cuốn mãnh liệt hơn.

Khổ thơ hai bao trùm lên là không khí thực và ảo, với nhiều hình ảnh ẩn dụ và tượng trưng , liên tưởng sâu sắc, rộng rãi:

Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ

“Mặt trời trên lăng” là hình ảnh thực – là mặt trời của trái đất , là nguồn sáng rực rỡ và vĩnh hằng nhất thế gian. “Mặt trời trong lăng rất đỏ” làm ta nhớ đến trái tim nhiệt huyết, chân thành, yêu nước thương dân của Bác. Tác giả đã so sánh cái trường tồn, vĩnh hằng của mặt trời với cái vĩ đại , sự bất diệt của Bác, đó quả là một sự so sánh độc đáo, giàu sáng tạo, xuất thần, thoát sáo chưa hề có. Cùng với hình ảnh ẩn dụ “mặt trời trong lăng” là hình ảnh của “tràng hoa” khiến người đọc phải hình dung là chính mình đang hòa vào dòng người thương nhớ Bác để tô thắm thêm những mùa xuân tuyệt vời Bác đã trọn hiến dâng cho đất nước:

Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chin mùa xuân

Dường như không phải mọi người đến viếng một thi hài mà là đến thăm một cuộc đời bảy mươi chín mùa xuân đã hoàn toàn hy sinh cho nước cho dân. Hình ảnh ẩn dụ “tràng hoa” là sự so sánh dòng người xếp hang vào thăm lăng Bác, nhưng tràng hoa dài bất tận. Đây thật sự là một so sánh hết sức sinh động , tự nhiên và thuần nhuyễn. Điều này còn được thể hiện qua điệp từ “ngày ngày” được lặp lại hai lần diễn tả một thời gian hầu như là vĩnh cửu, dài vô tận, nó cũng là tượng trưng cho nỗi long khôn nguôi nhớ Bác của đồng bào miền Nam.

Khổ thứ ba là cảm xúc trào dâng mãnh liệt, diễn tả cảm xúc khi bước vào nơi ngự trị của sự im lặng , trang nghiêm, của sự yên nghỉ đời đời. Những câu thơ mới chân thực và mơ mộng biết bao!

Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền.

Với các hình ảnh ẩn dụ độc đáo, tác giả đã bộc lộ cảm xúc dạt dào của mình và tình cảm thân thương, gần gũi đối với Bác. Cuộc đời của Bác như “mặt trời”, giấc ngủ của Bác như “vầng trăng”-“vầng trăng” mang ánh sáng dịu nhẹ soi đường chỉ lối cho đất nước tiến đến một tương lai tốt đẹp hơn. Dẫu rằng Bác đã trở nên bất tử , đã hòa nhập vào thiên nhiên cao rộng, vĩnh hằng nhưng vẫn không che giấu được sự thương xót , nuối tiếc từ một sự thật hết sức đau lòng là Bác đã ra đi vĩnh viễn:

Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim

Hình ảnh “trời xanh” cũng càng khẳng định rằng Bác thật sự đã ra đi mãi mãi. Lời thơ dẫn dắt người đọc vào thực tế ấy như mũi kim đâm “nhói” vào tim, gợi sự đau lòng, nuối tiếc và nỗi xót xa trào dâng mãnh liệt trong lòng tác giả , câu thơ như một tiếng khóc nghẹn ngào. Sự mâu thuẫn ấy đã góp phần tạo nên kịch tính cho cả bài thơ , làm cho bài thơ đầy cảm xúc và cũng tràn đầy nước mắt. Nhưng hình ảnh ẩn dụ sáng tạo, độc đáo như “vầng trăng”, “trời xanh” cũng tạo nên cái hay và đặc sắc của bài thơ.

Khổ cuối cùng vẫn liền mạch cảm xúc dạt dào của những khổ trước cộng thêm sự luyến tiếc đang trào dâng trong tim tác giả. Tuy vẫn còn đứng bên Bác, nhà thơ đã bịn rịn nhớ đến phút sắp chia xa:

Mai về miền Nam thương trào nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này.

Không phải rưng rưng, rơm rớm mà là “trào”, chứng tỏ một cảm xúc , tình yêu thương mãnh liệt đối với Bác mới thiết tha, sâu lắng làm sao. Ở đây, tác giả không sử dụng một biện pháp nghệ thuật tu từ gì cả, nó xuất phát từ tận đáy lòng của tác giả nhưng vẫn khiến chúng ta xúc động với những câu thơ vô cùng giản dị ấy. Nỗi đau như dồn nén giữa tâm hồn làm nảy sinh bao ước muốn: muốn làm con chim hót quanh lăng để chúng vui tươi, nhí nhảnh; muốn làm đóa hoa tỏa làn hương như thực, như hư; muốn làm cây tre bầu bạn với Bác mỗi ngày, canh từng giấc ngủ cho Bác. Tất cả những ước muốn ấy chắc hẳn cùng chung một mục đích là muốn làm vơi nổi vắng vẻ, yên ắng trong lăng. Điệp từ “muốn làm” lặp đi lặp lại ba lần chẳng những thể hiện được ước nguyện của tác giả, mong ước chung của đồng bào miền Nam mà còn tạo nên một nghệ thuật đặc sắc cho bài thơ. Ở đây, hình ảnh cây tre lại xuất hiện khép lại bài thơ một cách khéo léo nhưng vẫn rất tự nhiên, không gò bó.

“Viếng lăng Bác” của Viễn Phương là bài thơ giàu hình ảnh, giàu chất suy tưởng và lãng mạn trữ tình. Trong bốn khổ thơ, khổ nào cũng đầy ấp ẩn dụ , những ẩn dụ đẹp và trang nhã thể hiện lòng thành kính đối với Bác và nâng cao tâm hồn của nhà thơ. Hơn nữa, bằng sự luyến láy từ ngữ, âm điệu phong phú, lời thơ mộc mạc và giản dị đã làm cho bài thơ tràn đầy cảm xúc một cách sâu lắng. Chính vì vậy, bài thơ đã sớm được phổ nhạc và trở thành bài hát hết sức truyền cảm, giọng điệu êm ái, nhẹ nhàng , trở nên quen thuộc đối với tất cả chúng ta

Em hãy phân tích bài thơ Viếng Lăng Bác của Viễn Phương – Bài làm 4

Bao giờ cũng thế, một tác phẩm đặc sắc phải bao gồm cái đặc sắc và thành công về cả hai mặt nội dung và nghệ thuật. Tác phẩm ấy như một nguồn nước giếng trong, khơi mãi vẫn không hết cái ngọt ngào, lắng sâu của tình yêu con người, vẫn không cạn nguồn sức mạnh truyền vào trong cuộc sống.

Bài thơ “Viếng lăng Bác” của Viễn Phương là một tác phẩm như thế. Được sáng tác vào năm 1976, bài thơ mang đậm chất trữ tình này đã ghi lại tình cảm sâu lăng, thành kính cảu nhà thơ

0