05/02/2018, 12:18

Phân tích bài thơ Mùa xuân nho nhỏ của Thanh Hải – Bài tập làm văn số 7 lớp 9

Đánh giá bài viết Xem nhanh nội dung1 Phân tích bài thơ Mùa xuân nho nhỏ của Thanh Hải – Bài làm 1 2 Phân tích bài thơ Mùa xuân nho nhỏ của Thanh Hải – Bài làm 2 3 Phân tích bài thơ Mùa xuân nho nhỏ của Thanh Hải – Bài làm 3 4 Phân tích bài thơ Mùa xuân nho nhỏ của Thanh Hải ...

Đánh giá bài viết Xem nhanh nội dung1 Phân tích bài thơ Mùa xuân nho nhỏ của Thanh Hải – Bài làm 1 2 Phân tích bài thơ Mùa xuân nho nhỏ của Thanh Hải – Bài làm 2 3 Phân tích bài thơ Mùa xuân nho nhỏ của Thanh Hải – Bài làm 3 4 Phân tích bài thơ Mùa xuân nho nhỏ của Thanh Hải – Bài làm 4 Phân tích bài thơ Mùa xuân nho nhỏ của Thanh Hải – Bài làm 1 Thanh Hải là nhà thơ trưởng thành trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ của dân tộc. Thơ của Thanh Hải luôn trong sáng, mượt mà, giàu nhạc điệu và trữ tình tha thiết. Bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” là một trong những bài thơ tiêu biểu nhất của Thanh Hải, viết về mùa xuân với tất cả những tình cảm thiết tha, nồng hậu, nhà thơ đã mang đến một bức tranh mùa xuân đầy độc đáo, ấn tượng. Mùa xuân là mùa của thiên nhiên thắm tươi, mùa của vạn vật nảy nở. Trong sự cảm nhận của Thanh Hải, mùa xuân không chỉ được gợi ra bởi màu sắc mà còn đầy đủ cả âm thanh và chuyển động: “Mọc giữa dòng sông xanh Một bông hoa tím biếc Ôi con chim chiền chiện Hót chi mà vang trời” Ở đây, nhà thơ đã sử dụng biện pháp đảo trật tự ngữ pháp, đưa từ “mọc” lên đầu câu diễn tả được sự chuyển động đầy nhẹ nhàng, tinh tế của vạn vật trên dòng sông “xanh”. Cách đảo ngữ này không chỉ tạo cho người đọc ấn tượng bất ngờ, mới lạ mà còn khiến cho hình ảnh sự vật trở lên sống động như đang diễn ra trước mặt. Gợi liên tưởng như bông hoa “tím biếc” kia đang từ từ mọc lên, xòe nở trên dòng sông xanh, đó là vẻ đẹp dịu nhẹ thanh mát làm say đắm lòng người. Không chỉ là hình ảnh, màu sắc. Mùa xuân còn rộn ràng bởi tiếng chim “chiền chiện”, tiếng chim đã đánh động cả không gian,làm cho không khí mùa xuân trở lên rộn ràng náo nức. “Giọt long lanh rơi” gợi cho ta liên tưởng về những giọt sương mua xuân long lanh đọng trên những kẽ lá. “Tôi hứng” là ước muốn của nhà thơ khi muốn thâu nhận tất cả vẻ đẹp mới mẻ,tinh khôi, trong sáng của thiên nhiên đất trời. Từ mùa xuân của đất trời, Thanh Hải đã bộc lộ cảm xúc trước mùa xuân của đất nước: “Mùa xuân người cầm súng Lộc trải dài trên lưng Mùa xuân người ra đồng Lộc trải dài nương mạ Tất cả như hối hả Tất cả như xôn xao” Ở đây, nhà thơ đã xây dựng song song hai hình ảnh, đó là hình ảnh người lính cầm súng hành quân, tức là thực hiện nhiệm vụ chiến đấu bảo vệ Tổ quốc “người cầm súng” và hình ảnh người nông dân trong hoạt động canh gia sản xuất “người ra đồng”. Những hình ảnh này gợi ra hình ảnh đất nước trong những năm 80 của thế kỉ hai mươi với hai nhiệm vụ cao cả: sẵn sàng chiến đấu bảo vệ tổ quốc và sản xuất, xây dựng đất nước. Nhà thơ đã điệp hai lần từ “lộc”, gắn nó với hình ảnh người chiến sĩ và người nông dân lao động như để khẳng định, chính họ đã góp phần mang lại mùa xuân bình yên, no ấm cho mọi người. Sức sống mùa xuân còn được cảm nhận bằng nhịp điệu thơ hối hả, khẩn trương, náo nức qua các từ ngữ biểu cảm trực tiếp như: “hối hả”, “xôn xao”. “Đất nước bốn ngàn năm Vất vả và gian lao Đất nước như vì sao Cứ đi lên phía trước” Tác giả đã rất khéo léo “khoe” ra truyền thống lịch sử lâu đời “đất nước bốn ngàn năm” trong niềm tự hào và vui sướng. Trong quá trình xây dựng đất nước ấy dẫu cơ những “vất vả”, dẫu có những “gian lao” thì đất nước như vì sao dẫn đường, chiếu sáng và vẫn mãnh mẽ phát triển “đi lên phía trước”. Ở câu thơ tiếp theo, nhà thơ đã đột ngột thay đổi cách xưng hô từ “tôi” sang “ta” tạo ra sự hài hòa giữa cá nhân nhà thơ với mọi người, với cộng đồng, đất nước: “Ta làm con chim hót Ta làm một cành hoa Ta nhập vào hòa ca Một nốt trầm xao xuyến” Điệp từ “ta” và điệp ngữ “ta làm” đặt ở đầu hai câu thơ liên tiếp đã tô đậm được tâm nguyện của nhà thơ Thanh Hải khi muốn dâng hiến trọn vẹn cho đất nước. Nhà thơ muốn làm “chim hót”, “cành hoa” để mang âm thanh, sắc màu tô đậm cho đời. Một tâm nguyện thật cao đẹp, chân thành. Nhà thơ muốn “hòa mình” vào những khúc ca thăng trầm của đất nước, muốn làm một “nốt trầm” lặng lẽ. Có lẽ đó chính là ước muốn dâng hiến song cũng thể hiện sự hòa nhịp lặng sâu và rất khiêm tốn. “Một mùa xuân nho nhỏ Lặng lẽ dâng cho đời Dù là tuổi hai mươi Dù là khi tóc bạc” Ở đây, nhà thơ đã sử dụng cách nói hoán dụ cụ thể để bộc lộ tâm hồn tự nguyện dâng hiến của tác giả cho đất nước. “Tuổi 20” là cách nói hoán dụ chỉ những năm tháng tuổi trẻ căng đầy nhựa sống, nhiều hoài bão, ước mơ. “Tóc bạc” lại là hoán dụ chỉ năm tháng tuổi trẻ đã qua đi, con người đã ở dốc bên kia của cuộc đời. Thông qua hai hoán dụ chỉ thời gian, nhà thơ thể hiện sự tự tin, bất chấp thời gian, tuổi tác. Ta hiểu: ước muốn cống hiến của Thanh Hải là ước nguyện suốt đời của nhà thơ. “Mùa xuân ta xin hát Câu Nam ai, Nam bình Nước non ngàn dặm mình Nước non ngàn dặm tình Nhịp phách tiền đất Huế..” Điệp ngữ “nước non ngàn dặm” láy đi láy lại như phổ nhạc vào bài thơ. Không chỉ mở ra không gian, hai câu thơ còn mở ra cảm xúc: tự hào về giang sơn gấm vóc, tự hào về lối sống tình nghĩa của ông cha Như vậy, bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” của nhà thơ Thanh Hải không chỉ vẽ ra một bức tranh mùa xuân tuyệt sắc, mà còn cho người đọc cảm nhận được ước muốn dâng hiến chân thành, cao đẹp của nhà thơ, nhà thơ muốn hòa cái “mùa xuân” nhỏ của mình vào “mùa xuân” lớn của đất nước. Tấm lòng ấy, ước nguyện ấy thật đáng trân trọng. Phân tích bài thơ Mùa xuân nho nhỏ của Thanh Hải – Bài làm 2 Thanh Hải là một người chuyên sáng tác thơ. Ông có rất nhiều bài thơ hay và tôi thích nhất là bài thơ "Mùa xuân nho nhỏ" của ông. Bài thơ "Mùa xuân nho nhỏ" được sáng tác vào năm 1980 khi ông còn nằm trên giường bệnh, bài thơ "mùa xuân nho nhỏ" là tiếng lòng tha thiết gắn bó với cuộc đời thể hiện ước nguyện chân thành của nhà thơ được cống hiến cho đất nước. "Mọc giữa dòng sông xanh. …. Nhịp phách tiền đất Huế". Vậy thông qua bài thơ "Mùa xuân nho nhỏ" Thanh Hải đã muốn gửi gắm đến chúng ta những suy nghĩ gì? Thật vậy, bài thơ "Mùa xuân nho nhỏ" là một bài thơ hay. Mở đầu bài thơ là bức tranh mùa xuân của thiên nhiên được phác họa bằng vài nét chấm phá: "Mọc giữa dòng sông xanh Một bông hoa tím biếc Ơi! con chim chiền chiện Hót chi mà vang trời Từng giọt long lanh rơi Tôi đưa tay tôi hứng". Với những hình ảnh nho nhỏ, thân quen, bình dị, nhà thơ đã vẽ nên bức tranh thật đẹp. Chỉ bằng vài nét phác họa, tác giả đã vẽ ra một không gian của mùa xuân, rộng lớn với dòng sông mặt đất, bầu trời bao la với sắc màu tươi thắm, với những âm thanh vang vọng của mùa xuân mơ mộng, đậm đà phong vị xứ Huế. Bức tranh mùa xuân ở đây chỉ toàn là màu sắc dịu nhẹ một màu xanh biêng biếc của dòng sông quê, một màu tím ngát của cánh hoa mong manh đang mọc giữa dòng sông ấy. Nghệ thuật đảo ngữ giữa hai câu thơ làm nổi bật hình ảnh của sắc hoa màu tím. Màu tím gợi lên một sắc xuân dịu dàng, đằm thắm. Màu tím là màu đặc trưng của Huế. Bức tranh xuân bỗng rộn rã hơn lên bởi tiếng hót của chim chiền chiện. "Chiền chiện" là một loài chim hót vào mùa xuân. Từ cảm thán "ơi!" là tiếng gọi trìu mến, thân thương của nhà thơ. Mấy tiếng "hót chi mà…." như một lời trách yêu nghe thât dịu dàng và duyên dáng. Bản nhạc của con chim chiền chiện như vang động cả đất trời, tràn ngập khắp không gian, làm bừng lên một niềm vui bất diệt. Chỉ bằng vài nét phác họa đơn sơ: với một dòng sông, một bông hoa, một tiếng chim, một màu xanh, một sắc tím, Thanh Hải đã hoàn chỉnh bức tranh xuân của quê hương mình thật nhẹ nhàng và quyến rũ lạ thường. "Giọt long lanh" ở đây có thể là giọt sương sớm của mùa xuân, có thể là những giọt mưa xuân phơ phất hoặc có thể nói là những giọt âm thanh của tiếng chim chiền chiện đang đọng lại trong không gian rồi từ từ rơi xuống cho nhà thơ xòe hứng bằng đôi tay trân trọng của mình. Chỉ có sáu câu thơ mà có đủ cả âm thanh, màu sắc, dòng sông, bông hoa, tiếng chim, bầu trời cao lồng lộng. Cảnh mùa xuân mở ra một không gian phóng khoáng nhưng lại dịu dàng, tươi mát, một không gian rất Huế. Trong không khí mùa xuân rộn ràng và tưng bừng, tác giả nhắc đến người cầm súng và người ra đồng, họ là hai lực lượng tiêu biểu nhất cho đất nước, làm hai nhiệm vụ quan trọng nhất đó là sản xuất và chiến đấu: "Mùa xuân người cấm súng Lộc dắt đầy trên lưng Mùa xuân người ra đồng Lộc chảy dài nương mạ Tất cả như hối hả Tất cả như xôn xao". Ngày xuân, người ta đi hái lộc, "lộc" theo nghĩa hẹp là chồi non, nghĩa rộng là sự may mắn. Lộc của người lính là lá ngụy trang trên lưng. Lộc của người nông dân là nương mạ xanh rờn. Cặp câu thơ đối xứng nhịp nhàng, kết hợp với điệp ngữ "mùa xuân" và điệp từ "lộc" được láy đi láy lại nhiều lần, làm cho không khí xây dựng và bảo vệ đất nước như càng khẩn trương, gấp gáp hơn. Và không khí háo hức sôi nổi ấy được miêu tả bằng các từ "hối hả, xôn xao" như càng tăng thêm sức gợi tả. Sau đó, nhà thơ nghĩ về mùa xuân của đất nước: "Đất nước bốn nghìn năm Vất vả và gian lao Đất nước như vì sao Cứ đi lên phía trước". Viết về đất nước, nhà thơ chỉ viết có bốn câu thơ nhưng bốn câu thơ đó thật tự hào. Tự hào về quá khứ oai hùng và khẳng định về một tương lai tươi sáng của quê hương mình. Từ ngữ giản dị "bốn nghìn năm" giống như nhà thơ đang kể chuyện tâm tình về đề tài lịch sử. Mấy ngàn năm nước Việt ta đã trải qua biết bao gian lao, vất vả – kể từ lúc vua Hùng dựng nước rồi đến lúc nhân dân ta cùng nhau giữ lấy nước. Ta cũng bắt gặp lòng tự hào ấy trong nhiều tác phẩm văn học. Đối lập với hai câu thơ nói về quá khứ là hai câu thơ ca ngợi tương lai. Tại sao nhà thơ không dùng từ "vẫn" hay từ "sẽ" mà nhà thơ lại dùng từ "cứ". "Cứ đi lên phía trước" chỉ sự tử tế đi lên một cách hiên ngang, mạnh mẽ không có một sức mạnh nào ngăn cản được. Với nghệ thuật so sánh "đất nước như vì sao", hình ảnh đất nước trở nên gần gũi, gợi cảm. Đất nước đẹp như ánh sao sáng lung linh trên bầu trời cao vời vợi mà chúng ta đang ngẩng cao đầu chiêm ngưỡng. Mở đầu bài thơ, tác giả xưng tôi. Đến cuối bài thơ tác giả lại xưng "ta". Cái "ta" bây giờ vừa mang cái "ta" cá thể của riêng tác giả vừa là cái "ta" chung của chúng ta, của tất cả mọi người. "Ta làm con chim hót Ta làm một cành hoa Ta nhập vào hòa ca Một nốt trầm xao xuyến". Đại từ "ta" mang sắc thái trang trọng, kiêu hãnh, cấu trúc "ta làm", "ta nhập" nghe như lời căn dặn. Nhà thơ đang căn dặn mình và căn dặn chúng ta vì trách nhiệm và nghĩa vụ với quê hương. Trong cái lớn lao chung của mùa xuân xinh đẹp, nhà thơ chỉ góp mình như một tiếng chim, trong giọng hót của muôn chim. Một cành hoa, trong muôn sắc hương hoa, một nốt nhạc trầm khiêm tốn, trong muôn nốt nhạc bản tình ca. Cánh chim, cành hoa rất nhỏ bé, nhưng chim vô tư cống hiến những tiếng hót hay cho đời. Nốt nhạc trầm không đủ tạo nên một bản nhạc hay nhưng nó cũng góp phần tạo nên những cung bậc khác nhau của bản nhạc. Mượn cánh chim trời, đóa hoa thơm, nốt nhạc trầm, để bày tỏ lòng mình. Nhà thơ muốn được góp phần công sức bé nhỏ của mình trong công cuộc xây dựng quê hương. Qua đó, ta thấy được khát vọng sống có ích cho đời của tác giả. Khát vọng đó thể hiện rõ ý thức đúng đắn trong mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội, giữa "tôi" và "chúng ta". Tóm lại, qua những điều chúng ta vừa bàn luận, bài thơ "Mùa xuân nho nhỏ" là tiếng lòng tha thiết, gắn bó với đất nước, với cuộc đời, thể hiện ước nguyện chân thành của nhà thơ được cống hiến cho đất nước, góp một mùa xuân nhỏ của mình vào mùa xuân lớn của dân tộc. Phân tích bài thơ Mùa xuân nho nhỏ của Thanh Hải – Bài làm 3 Mùa xuân là để tài bất tận của thơ ca. Song, cái cảm nhận về mùa xuân của các nhà thơ theo thời gian có nhiều thay đổi. Đối với Mãn Giác Thiền sư, một cao tăng nổi tiếng thời Lý, mùa xuân mang một tính triết lý sâu sắc: “Đừng tưởng xuân tàn hoa rụng hết Đêm qua sân trước một nhành mai” Còn đối với những nhà thơ trước cách mạng, mùa xuân gợi lên một nét sầu cảm: “Tôi có chờ đâu, có đợi đâu, Mang chi xuân đến gợi thêm sầu.” (Chế Lan Viên) Nhưng đối với nhà thơ Thanh Hải, mùa xuân mang một nét đẹp đáng yêu tươi thắm; gợi lên trong lòng người đọc nhiều hình ảnh rạo rực tươi trẻ. Vì thế, mùa xuân trong thơ của TH là biểu tượng cho sức sống mạnh mẽ của quê hương, dân tộc. Tất cả đã được thể hiện rõ nét trong bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ”, một bài thơ đặc sắc được nhà thơ viết không lâu trước khi qua đời. Người xưa có câu: “Thi trung hữu họa”. Thơ ca vẽ nên những bức tranh tuyệt đẹp của cuộc sống. Mở đầu bài thơ, TH đã phác họa nên một bức tranh xuân giản dị mà tươi đẹp: “Mọc giữa dòng sông xanh Một bông hoa tím biếc Ơi con chim chiền chiện Hót chim mà vang trời” “Dòng sông xanh” gợi nhắc hình ảnh những khúc sông uốn lượn của dải đất miền Trung quanh co, đó có thể là dòng sông Hương thơ mộng, một vẻ đẹp lắng đọng của xứ Huế mộng mơ.Trên gam màu xanh lơ của dòng sông thơ mộng, nổi bật lên hình ảnh “một bông hoa tím biếc”. Không có màu vàng rực rỡ của hoa mai, cũng không có màu đỏ thắm của hoa đào, mùa xuân của TH mang một sắc thái bình dị với màu tím biếc của bông hoa lục bình. Đây là một hình ảnh mang đậm bản sắc của cố đô Huế. Không biết tự bao giờ màu tím đã trở thành màu sắc đặc trưng của con người và đất trời xứ Huế. Màu tím biếc gợi nhớ hình ảnh những nữ sinh xứ Huế trong những bộ áo dài màu tím dịu dàng thước tha. Nhà thơ đã sử dụng biện pháp nghệ thuật đảo ngữ, đưa động từ ” mọc” lên đầu câu như một cách để nhấn mạnh vẻ đẹp tươi trẻ, đầy sức sống của mùa xuân thiên nhiên. Trong bức tranh mùa xuân của TH, không chỉ có hình ảnh , mà còn có âm thanh xao xuyến, ngân nha của con chim chiền chiện. Tiếng chim lảnh lót vang lên làm xao động cả đất trời, làm xao xuyến cả tâm hồn thi sĩ nhạy cảm của nhà thơ. Những từ ngữ cảm thán “ơi, hót chi” đã thể hiện rõ nét cảm xúc của nhà thơ. Mùa xuân của thiên nhiên đã đem đến cho nhà thơ một cảm giác ngây ngất. Mùa xuân ấy không có gì khác lạ, vẫn là một mùa xuân rất giản dị trên quê hương xứ Huế của nhà thơ. Nhưng nhà thơ bỗng nhận ra vẻ đẹp lạ kì của mùa xuân, một vẻ đẹp mà bấy lâu nhà thơ không để ý. Phải chăng vì đây là lần cuối cùng được ngắm nhìn mùa xuân quê hương nên nhà thơ cảm thấy mùa xuân ấy đẹp hơn, tươi sáng hơn ? Say sưa, ngây ngất trước vẻ đẹp giản dị và nên thơ của mùa xuân, nhà thơ bồi hồi xúc động: “Từng giọt long lanh rơi Tôi đưa tay tôi hứng: “Giọt long lanh” là giọt mưa xuân, giọt nắng vàng hay giọt sương sớm ? Theo mạch cảm xúc của nhà thơ thì có lẽ đây là giọt âm thanh của tiếng chim ngân vang. Bằng một cảm nhận tinh tế, nhà thơ đã hình tượng hóa tiếng chim thành một sự vật có hình dáng, đây là một sự sáng tạo rất mới mẻ chỉ có thể có được nhờ tâm hồn nhạy cảm của một thi sĩ. Như vậy, chỉ bằng ba nét vẽ: dòng sông xanh, bông hoa tím và tiếng chim ngân vang khắp đất trời, nhà thơ đã phác họa nên một bức tranh xuân tuyệt đẹp trên cố đô Huế. Từ vẻ đẹp thanh khiết của mùa xuân thiên nhiên, nhà thơ liên hệ đến mùa xuân của đất nước, mùa xuân của cách mạng: “Mùa xuân người cầm súng Lộc giắt đầy trên lưng Mùa xuân người ra đồng Lộc trải dài nương mạ” Bốn câu thơ mang cấu trúc song hành thể hiện rõ hai nhiệm vụ của nhân dân: chiến đấu bảo vệ Tổ quốc và sản xuất làm giàu nước nhà. Hai nhiệm vụ ấy đặt nặng lên vai của người chiến sĩ – “người cầm súng” và người nông dân – “người ra đồng”. Nét đặc sắc của đoạn thơ là việc sáng tạo hình ảnh “lộc”. “Lộc” là chồi non, cành biếc; “lộc” còn tượng trưng cho sự may mắn, niềm an lành trong năm mới. Đối với người chiến sĩ, “lộc” là cành lá ngụy trang che mắt quân thù. Đối với người nông dân, “lộc” là những mầm mạ non trải dài trên đồng ruộng bát ngát, báo hiệu một mùa bội thu. Người chiến sĩ chiến đấu bảo vệ Tổ quốc sẽ đem về “lộc” là sự an lành niềm vui, niềm tự hào chiến thắng cho dân tộc. Người nông dân gieo trồng lúa trên đồng ruộng sẽ đem về “lộc” là những hạt gạo trắng ngần, những bát cơm ngon ngọt cho đồng bào cả nước. Cả dân tộc bước vào xuân với khí thế khẩn trương và náo nhiệt: “Tất cả như hối hả Tất cả như xôn xao…” Bằng cách sử dụng từ láy “hối hả-xôn xao” cùng với điệp từ, tác giả đã mang đến cho câu thơ một nét rộn ràng, nhộn nhịp. “Hối hả” nghĩa là vội vả, khẩn trương. “Xôn xao” là có nhiều âm thanh trộn lẫn vào nhau, làm cho náo động. Từ những âm thanh xôn xao và sự hối hả của con người, nhà thơ lại suy tư về sự phát triển của đất nước qua bốn ngàn năm lịch sử: “Đất nước bốn ngàn năm Vất vả và gian lao Đất nước như vì sao Cứ đi lên phía trước” Chặng đường lịch sử của đất nước qua bốn ngàn năm trường tồn đã trải qua biết bao thăng trầm, với bao nhiêu là “vất vả và gian lao”. So sánh đất nước với vì sao sáng, nhà thơ đã thể hiện niềm tự hào đối với đất nước và dân tộc. Sao là nguồn sáng bất diệt, là vẻ đẹp vĩnh hằng trong không gian và thời gian. Ngôi sao sáng đã trở thành vẻ đẹp lộng lẫy trên lá cờ VIệt Nam, trở thành biểu tượng cho vẻ đẹp ngời sáng của con người và đất nước Việt Nam. Đất nước vẫn không ngừng phát triển, vẫn “cứ đi lên phía trước” để sánh vai cùng các cường quốc năm châu trên thế giới. Đoạn thơ thể hiện ý chí vươn lên không ngừng của con người và dân tộc Việt Nam. Trong không khí tưng bừng của đất nước vào xuân, nhà thơ cảm nhận được một mùa xuân tươi trẻ, rạo rực trỗi dậy trong tâm hồn. Đó là mùa xuân của lòng người, mùa xuân của sức sống tươi trẻ, mùa xuân của sự cống hiến và hòa nhập: “Ta làm con chim hót Ta làm một nhành hoa Ta nhập vào hòa ca Một nốt trầm xao xuyến” Nhịp thơ dồn dập và điệp từ “ta làm” diễn tả rõ nét khát vọng cống hiến của nhà thơ. Nhà thơ muốn làm một con chim, muốn làm một nhành hoa thắm trong vườn hoa xuân để dâng tiếng hót tha thiết, để tỏa hương sắc tô điểm cho mùa xuân đất nước. “Nốt trầm” là nốt nhạc tạo nên sự lắng đọng sâu xa trong một bản nhạc. Trong cái không khí tưng bừng của ngày hội mùa xuân, nhà thơ muốn làm một nốt nhạc trầm để góp vào khúc ca xuân của dân tộc một chút vấn vương, xao xuyến. Từ khát vọng hòa nhập, nhà thơ thể hiện rõ hơn khát vọng cống hiến của mình ở những câu thơ tiếp theo: “Một mùa xuân nho nhỏ Lặng lẽ dâng cho đời Dù là tuổi hai mươi Dù là khi tóc bạc” “Mùa xuân nho nhỏ” là cách nói ẩn dụ đầy sáng tạo của nhà thơ. Mỗi con người đều có thể góp một phần công sức của mình như “một mùa xuân nho nhỏ” để tô hương thêm sắc cho quê hương đất nước. “Dâng” là một hành động cống hiến, cho đi mà không dòi hỏi sự đền đáp. Phép đảo ngữ nhằm nhấn mạnh khát vọng cống hiến chân thành của nhà thơ. Nhà thơ muốn góp công sức của mình trong công cuộc xây dựng đất nước nhưng chỉ với một thái độ hết sức khiêm tốn, không khoa trương mà chỉ “lặng lẽ”, âm thầm nhưng lại là toàn tâm toàn ý, như nhà thơ Tố Hữu đã khẳng định: “Lẽ nào cho vay mà không trả Sống là cho đâu chỉ nhân riêng mình.” Điệp từ “dù là” được điệp lại hai lần thể hiện rõ sự tự tin, bất chấp thời gian và tuổi tác của nhà thơ. Qua khổ thơ, nhà thơ đã nhấn mạnh một ý nghĩa hết sức sâu sắc: nhiệm vụ cống hiến xây dựng đất nước là của mọi người và là mãi mãi. Không ai là không có nghĩa vụ xây dựng đất nước, và nghĩa vụ ấy kéo dài cả một đời người, từ tuổi đôi mươi cho đến khi đầu đã điểm bạc theo năm tháng. Đây là lời kêu gọi mọi người cùng chung vai gánh vác công việc xây dựng và phát triển đất nước, để đất nước có thể vững vàng mà tiếp tục “đi lên phía trước”. Khổ thơ cuối là tiếng hát yêu thương nhà thơ ban tặng cho đất nước và dân tộc, như một sự hiến dâng cuối cùng cho quê hương đất nước: “Mùa xuân-ta xin hát Câu Nam ai, Nam bình Nước non ngàn dặm mình Nước non ngàn dặm tình Nhịp phách tiền đất Huế” Trong những ngày cuối cùng của cuộc đời, TH muốn hát lại hai làn điệu dân ca quen thuộc của quê hương xứ Huế. Có lẽ trong những ngày tháng nằm trên giường bệnh, khi bị tử thần rình rập, nhà thơ lại thấy quê hương của mình đẹp hơn, bản sắc quê hương mình cũng đáng tự hào hơn. Đây cũng là cách để nhà thơ thể hiện tình yêu quê hương, nguồn cội. Đoạn thơ cho ta thấy rõ nhà thơ rất yêu mến quê hương thơ mộng của mình, có lẽ cũng từ đó mà nhà thơ có thể mở rộng tình cảm để yêu mến đất nước, mới có thể cống hiến cả cuộc đời cho nước nhà. Bởi lẽ, chỉ có những người biết yêu thương quê hương xóm làng thì mới có thể mở rộng lòng mình để yêu mến đất nước dân tộc. Bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” được viết theo thể thơ năm tiếng, với cấu trúc gồm bảy khổ, mỗi khổ từ bốn đến sáu câu. Những hình ảnh ẩn dụ sáng tạo, biện pháp nhân hóa, điệp ngữ và những từ ngữ tượng hình được sử dụng thành công đã tạo nên nét đặc sắc của bài thơ. Qua đó, ta có thể cảm nhận được cái thi vị trong hồn thơ TH. Tình yêu thiên nhiên, sự xúc động trước vẻ đẹp của mùa xuân thiên nhiên, mùa xuân cách mạng và khát vọng cống hiến đã được TH gửi gắm qua bài thơ “mùa xuân nho nhỏ”. Tuy là tác phẩm được viết không lâu trước khi nhà thơ qua đời nhưng bài thơ vẫn để lại trong lòng bao thế hệ bạn đọc những cảm xúc sâu lắng khó phai mờ. Và, Bài thơ vẫn sẽ tiếp tục trường tồn cùng với những bước đi lên của đất nước, gợi nhắc cho những thế hệ trẻ một cách sống đẹp: góp một “mùa xuân nho nhỏ” của mình vào mùa xuân lớn của dân tộc, để đất nước ta sẽ mãi tươi đẹp như trong tiết xuân. Thế mới biết, cuộc đời của con người thì có hạn những những giá trị tinh thần mà con người để lại cho đời sau thì có giá trí vĩnh hằng. Phân tích bài thơ Mùa xuân nho nhỏ của Thanh Hải – Bài làm 4 Thanh Hải là một nhà thơ được mọi người biết đến như một hiện tượng đặc biệt của thơ ca Việt Nam. Là con người tài hoa, giàu sức sống nghệ thuật và lắng nghe được nhiều âm thanh biến thái của cuộc đời, ngay cả những phút cận kề cái chết Thanh Hải vẫn khát khao sống, làm việc cống hiến cho đời chung. Mùa xuân nho nhỏ chứ không phải là cái gì lớn lao ồn ả nhưng thật tinh tuý, sâu xa lắng động của Thanh Hải để lại cho đời trước lúc ra đi. Những vần thơ nhỏ nhẹ trầm bổng mà ý tứ lắng sâu lạ kỳ. Và không thể thiếu được ở làng thơ xuân nếu ta quên đi một mùa xuân nho nhỏ của một nhà thơ tài hoa, mệnh bạc – Thanh Hải thì quả là thiếu sót. Bài thơ ra đời vào những năm 80 của thế kỉ XX được xem như một lời tâm niệm trẻ trung và đáng trân trọng của nhà thơ để lại cho đời trước lúc đi xa. Mở đầu bài thơ, Thanh Hải đưa ta về với thiên nhiên tạo hoá đất trời. Sau những ngày đông lạnh lẽo, thiên nhiên lại được khoác một tấm áo tươi non, ấm áp của mùa xuân. Đất trời như rộng thêm ra, cao hơn được Thanh Hải phác họa bằng ba nét chấm phá. Một "dòng sông xanh, "bông hoa tím biếc", tiếng chim chiền chiện hót vang trời gợi ra một không gian cao rộng từ mặt đất đến bầu trời với những sắc màu tươi tắn, êm dịu, trong sáng. Những âm thanh vang vọng, tha thiết. Những đường nét đó đã khắc hoạ thành một bức tranh mùa xuân đẹp, yên ả, thanh bình, rạo rực niềm vui và tràn trề sức sống. Đối tượng được nhà thơ miêu tả sâu sắc đó là hình ảnh: Từng giọt long lanh rơi Tôi đưa tay tôi hứng Đây là chi tiết tạo hình và sự chuyển đổi cảm giác tuyệt vời trong thơ ca. "Giọt long lanh" ấy chính là những giọt xuân, mùa xuân đẹp, kì diệu với những sắc màu long lanh. Tác giả đã đưa tay hứng cả mùa xuân đất trời rất đỗi nâng niu, trìu mến, trân trọng và có cảm giác từng giọt xuân lung linh, ấm áp, mát dịu đang thấm vào da thịt, vào lòng người. Tất cả đang được tắm gội trong hương sắc mùa xuân say sưa, ngây ngất, ngọt ngào. Và cảm hứng nhà thơ chuyển dần từ mùa xuân cảnh sắc thiên nhiên đất trời tươi đẹp sang mùa xuân đất nước Cách mạng: Mùa xuân người cầm súng Lộc giắt đầy trên lưng Mùa xuân ng ười ra đồng Lộc trải dài nương mạ Tất cả như hối hả Tất cả như xôn xao… Từ mùa xuân đã được chuyển nghĩa theo cách hiểu thứ hai với hai nhiệm vụ sản xuất, chiến đấu, xây dựng vả bảo vệ trong tư thế đi lên đất nước. Điệp từ "lộc" láy lại đầu câu có nhiều nghĩa khác nhau: "lộc" là chồi non, sức sống, mùa xuân; lộc là do con người mang đến cho mùa xuân, đất nước trong chiến đấu, sản xuất. Con người đi đến đâu mang mùa xuân đến đó, mang chồi non, lộc biếc cho cuộc sống sinh sôi nảy nở. Âm hưởng của câu thơ, nhịp thơ hối hả, khấn trương kết hợp tả thực, tượng trưng liên tưởng từ quá khứ đến hiện tại, tương lai đất nước: Đất nước bốn ngàn năm V ất vả và gian lao Đấ t nước như vì sao C ứ đi lên phía trước. Động từ “cứ” như một mệnh đề thẳng tiến khẳng định bước đi vững chãi, tự tin của dân tộc sau mỗi mùa xuân nhìn lại mình, vững bước đi lên. Từ mùa xuân chung của đất nước và cách mạng Thanh Hải ước nguyện làm một mùa xuân nho nhỏ đóng góp vào cuộc đời chung. Nếu nhịp điệu thơ ở những khổ thơ trên vừa hối hả, vừa khẩn trương, vừa tả thực, vừa tượng trưng hàm chứa nhiều ý nghĩa về mùa xuân của đất nước lớn lao, tự hào thì mùa xuân ở những khổ thơ dưới như sau: Ta làm con chim hót Ta làm một cành hoa Ta nhập vào hoà ca Một nốt trầm xao xuyến lại cất lên một cách nhỏ nhẹ, khiêm tốn nhưng thật tha thiết, cảm động, sâu lắng. “Ta làm” là điệp ngữ vang lên ở đầu các câu thơ như một sự khẳng định những ước nguyện chính đáng, cao đẹp thể hiện tâm hồn khát khao được làm việc, được cống hiến nhiều nhất cho cuộc đời. Hình ảnh đối ứng lặp lại ở đầu bài thơ “con chim”, “cành hoa”, “nốt trầm” là thể hiện mong ước cụ thể của nhà thơ được góp cái gì đó dù nhỏ bé nhưng có ích cho cuộc đời. Là con chim hãy mang lại những âm thanh vang vọng, những tính hót vui say lòng người. Là cành hoa hãy toả ngát hương thơm. Là nốt nhạc, nốt trầm trong bản nhạc nhưng không thể thiếu giàn hợp xướng, trong bản hoà ca tất cả mọi người. Cũng trong khổ thơ này Thanh hải đã chuyển những cái bé nhỏ, riêng tư thành cái “ta” lớn lao, hoà chung mọi người. Giọng thơ nhỏ nhẹ, chân thành không khuôn thước, ồn ào mà ngược lại đằm thắm, lắng động, sâu xa tác động mạnh mẽ vào con tim, khối óc người đọc. Khổ thơ tiếp theo là tiếng lòng cao cả của nhà thơ, của những con người biết hướng tới một mùa xuân đẹp, sống có lý tưởng, mục đích, ước mơ: Một mùa xuân nho nhỏ Lặng lẽ dâng cho đời Dù là tuổi hai mươi Dù là khi tóc bạc ra một lẽ sống cống hiến cho đời chung lặng lẽ, khiêm tốn, sống đẹp, sống có ích âm thầm đóng góp cho mùa xuân chung không kể gì tuổi tác, không kể gì thời gian. Khổ thơ ánh lên và toả sáng vẻ đẹp tâm hồn luôn luôn khát khao vươn tới một cuộc sống tốt đẹp như một mùa xuân vang vọng đất trời để góp phần làm đẹp cho mùa xuân chung của đất nước. Tố Hữu viết: Nếu là con chim chiếc là Con chim phải hót, chiếc lá phải xanh Lẽ nào vay mà không có trả Sống là cho đâu chỉ nhận riêng mình. Thơ xưa và nay thường gắn nhiều định ngữ với mùa xuân nhưng mùa xuân của Thanh Hải nho nhỏ mà không nhỏ chút nào. Nó nói lên được nhiều ý nghĩa hơn cả bởi đó là lời tâm niệm chân thành, sâu lắng nhất của một tâm hồn trước lúc đi xa, giã từ cuộc sống ngàn lần đáng yêu về với cõi vĩnh hằng hư vô. Có phải khi con người ta đến gần cái chết là lúc họ khát khao muốn sống hơn bao giờ hết. Nhưng chúng ta còn khâm phục hơn ở Thanh Hải đó là một tấm lòng rộng mở, thanh thản, cao đẹp, sống có ý nghĩa đến những phút chót cuộc đời. Đúng như mong ước của nhà thơ “mùa xuân nho nhỏ” được phổ nhạc. Bài thơ lại một lần nữa được chắp thêm cánh bay xa góp vào bản hoà ca trong giàn hợp xướng một nốt trầm làm xao xuyến lòng người. Bài viết liên quanCảm nhận của em về bài thơ Sang thu của Hữu Thỉnh – Bài tập làm văn số 7 lớp 9Phân tích bài thơ Viếng Lăng Bác của Viễn Phương – Bài tập làm văn số 7 lớp 9Phân tích bài thơ Nói với con của Y Phương – Bài tập làm văn số 7 lớp 9Bài tập trắc nghiệm Hóa học lớp 12 Bài 24: Thực hành: Tính chất, điều chế kim loại, sự ăn mòn kim loạiThuyết minh về tác giả Nguyễn Du và tác phẩm Truyện Kiều – Bài tập làm văn số 6 lớp 10Bài tập trắc nghiệm Lịch sử lớp 11 Bài 17: Chiến tranh thế giới thứ hai (1939 – 1945) (phần 2)Đề kiểm tra 1 tiết Hóa học lớp 12 số 2 học kì 1 (Phần 1)Bài tập trắc nghiệm Vật lý lớp 12 Tính chất và cấu tạo hạt nhân (phần 1)

Xem nhanh nội dung

Phân tích bài thơ Mùa xuân nho nhỏ của Thanh Hải – Bài làm 1

Thanh Hải là nhà thơ trưởng thành trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ của dân tộc. Thơ của Thanh Hải luôn trong sáng, mượt mà, giàu nhạc điệu và trữ tình tha thiết. Bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” là một trong những bài thơ tiêu biểu nhất của Thanh Hải, viết về mùa xuân với tất cả những tình cảm thiết tha, nồng hậu, nhà thơ đã mang đến một bức tranh mùa xuân đầy độc đáo, ấn tượng.

Mùa xuân là mùa của thiên nhiên thắm tươi, mùa của vạn vật nảy nở. Trong sự cảm nhận của Thanh Hải, mùa xuân không chỉ được gợi ra bởi màu sắc mà còn đầy đủ cả  âm thanh và chuyển động:

“Mọc giữa dòng sông xanh

Một bông hoa tím biếc

Ôi con chim chiền chiện

Hót chi mà vang trời”

Ở đây, nhà thơ đã sử dụng biện pháp đảo trật tự ngữ pháp, đưa từ “mọc” lên đầu câu diễn tả được sự chuyển động đầy nhẹ nhàng, tinh tế của vạn vật trên dòng sông “xanh”.  Cách đảo ngữ này không chỉ tạo cho người đọc ấn tượng bất ngờ, mới lạ mà còn khiến cho hình ảnh sự vật trở lên sống động như đang diễn ra trước mặt. Gợi liên tưởng như bông hoa “tím biếc” kia đang từ từ mọc lên, xòe nở trên dòng sông xanh, đó là vẻ đẹp dịu nhẹ thanh mát làm say đắm lòng người.

Không chỉ là hình ảnh, màu sắc. Mùa xuân còn rộn ràng bởi tiếng chim “chiền chiện”, tiếng chim đã đánh động cả không gian,làm cho không khí mùa xuân trở lên rộn ràng náo nức. “Giọt long lanh rơi” gợi cho ta liên tưởng về những giọt sương mua xuân long lanh đọng trên những kẽ lá.

“Tôi hứng” là ước muốn của nhà thơ khi muốn thâu nhận tất cả vẻ đẹp mới mẻ,tinh khôi, trong sáng của thiên nhiên đất trời. Từ mùa xuân của đất trời, Thanh Hải đã bộc lộ cảm xúc trước mùa xuân của đất nước:

“Mùa xuân người cầm súng

Lộc trải dài trên lưng

Mùa xuân người ra đồng

Lộc trải dài nương mạ

Tất cả như hối hả

Tất cả như xôn xao”

Ở đây, nhà thơ đã xây dựng song song hai hình ảnh, đó là hình ảnh người lính cầm súng hành quân, tức là thực hiện nhiệm vụ chiến đấu bảo vệ Tổ quốc “người cầm súng” và hình ảnh người nông dân trong hoạt động canh gia sản xuất “người ra đồng”. Những hình ảnh này gợi ra hình ảnh đất nước trong những năm 80 của thế kỉ hai mươi với hai nhiệm vụ cao cả: sẵn sàng chiến đấu bảo vệ tổ quốc và sản xuất, xây dựng đất nước. Nhà thơ đã điệp hai lần từ “lộc”, gắn nó với hình ảnh người chiến sĩ và người nông dân lao động như để khẳng định, chính họ đã góp phần mang lại mùa xuân bình yên, no ấm cho mọi người.

Sức sống mùa xuân còn được cảm nhận bằng nhịp điệu thơ hối hả, khẩn trương, náo nức qua các từ ngữ biểu cảm trực tiếp như: “hối hả”, “xôn xao”.

“Đất nước bốn ngàn năm

Vất vả và gian lao

Đất nước như vì sao

Cứ đi lên phía trước”

Tác giả đã rất khéo léo “khoe” ra truyền thống lịch sử lâu đời “đất nước bốn ngàn năm” trong niềm tự hào và vui sướng. Trong quá trình xây dựng đất nước ấy dẫu cơ những “vất vả”, dẫu có những “gian lao” thì đất nước như vì sao dẫn đường, chiếu sáng và vẫn mãnh mẽ phát triển “đi lên phía trước”.

Ở câu thơ tiếp theo, nhà thơ đã đột ngột thay đổi cách xưng hô từ “tôi” sang “ta” tạo ra sự hài hòa giữa cá nhân nhà thơ với mọi người, với cộng đồng, đất nước:

“Ta làm con chim hót

Ta làm một cành hoa

Ta nhập vào hòa ca

Một nốt trầm xao xuyến”

Điệp từ “ta” và điệp ngữ “ta làm” đặt ở đầu hai câu thơ liên tiếp đã tô đậm được tâm nguyện của nhà thơ Thanh Hải khi muốn dâng hiến trọn vẹn cho đất nước. Nhà thơ muốn làm “chim hót”, “cành hoa” để mang âm thanh, sắc màu tô đậm cho đời. Một tâm nguyện thật cao đẹp, chân thành. Nhà thơ muốn “hòa mình” vào những khúc ca thăng trầm của đất nước, muốn làm một “nốt trầm” lặng lẽ. Có lẽ đó chính là ước muốn dâng hiến song cũng thể hiện sự hòa nhịp lặng sâu và rất khiêm tốn.

“Một mùa xuân nho nhỏ

Lặng lẽ dâng cho đời

Dù là tuổi hai mươi

Dù là khi tóc bạc”

Ở đây, nhà thơ đã sử dụng cách nói hoán dụ cụ thể để bộc lộ tâm hồn tự nguyện dâng hiến của tác giả cho đất nước. “Tuổi 20” là cách nói hoán dụ chỉ những năm tháng tuổi trẻ căng đầy nhựa sống, nhiều hoài bão, ước mơ. “Tóc bạc” lại là hoán dụ chỉ năm tháng tuổi trẻ đã qua đi, con người đã ở dốc bên kia của cuộc đời. Thông qua hai hoán dụ chỉ thời gian, nhà thơ thể hiện sự tự tin, bất chấp thời gian, tuổi tác. Ta hiểu: ước muốn cống hiến của Thanh Hải là ước nguyện suốt đời của nhà thơ.

“Mùa xuân ta xin hát

Câu Nam ai, Nam bình

Nước non ngàn dặm mình

Nước non ngàn dặm tình

Nhịp phách tiền đất Huế..”

Điệp ngữ “nước non ngàn dặm” láy đi láy lại như phổ nhạc vào bài thơ. Không chỉ mở ra không gian, hai câu thơ còn mở ra cảm xúc: tự hào về giang sơn gấm vóc, tự hào về lối sống tình nghĩa của ông cha

Như vậy, bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” của nhà thơ Thanh Hải không chỉ vẽ ra một bức tranh mùa xuân tuyệt sắc, mà còn cho người đọc cảm nhận được ước muốn dâng hiến chân thành, cao đẹp của nhà thơ, nhà thơ muốn hòa cái “mùa xuân” nhỏ của mình vào “mùa xuân” lớn của đất nước. Tấm lòng ấy, ước nguyện ấy thật đáng trân trọng.

Phân tích bài thơ Mùa xuân nho nhỏ của Thanh Hải – Bài làm 2

Thanh Hải là một người chuyên sáng tác thơ. Ông có rất nhiều bài thơ hay và tôi thích nhất là bài thơ "Mùa xuân nho nhỏ" của ông. Bài thơ "Mùa xuân nho nhỏ" được sáng tác vào năm 1980 khi ông còn nằm trên giường bệnh, bài thơ "mùa xuân nho nhỏ" là tiếng lòng tha thiết gắn bó với cuộc đời thể hiện ước nguyện chân thành của nhà thơ được cống hiến cho đất nước.

"Mọc giữa dòng sông xanh.
….
Nhịp phách tiền đất Huế".

Vậy thông qua bài thơ "Mùa xuân nho nhỏ" Thanh Hải đã muốn gửi gắm đến chúng ta những suy nghĩ gì?

Thật vậy, bài thơ "Mùa xuân nho nhỏ" là một bài thơ hay. Mở đầu bài thơ là bức tranh mùa xuân của thiên nhiên được phác họa bằng vài nét chấm phá: 

"Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc
Ơi! con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời
Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng".

Với những hình ảnh nho nhỏ, thân quen, bình dị, nhà thơ đã vẽ nên bức tranh thật đẹp. Chỉ bằng vài nét phác họa, tác giả đã vẽ ra một không gian của mùa xuân, rộng lớn với dòng sông mặt đất, bầu trời bao la với sắc màu tươi thắm, với những âm thanh vang vọng của mùa xuân mơ mộng, đậm đà phong vị xứ Huế. Bức tranh mùa xuân ở đây chỉ toàn là màu sắc dịu nhẹ một màu xanh biêng biếc của dòng sông quê, một màu tím ngát của cánh hoa mong manh đang mọc giữa dòng sông ấy. Nghệ thuật đảo ngữ giữa hai câu thơ làm nổi bật hình ảnh của sắc hoa màu tím. Màu tím gợi lên một sắc xuân dịu dàng, đằm thắm. Màu tím là màu đặc trưng của Huế. Bức tranh xuân bỗng rộn rã hơn lên bởi tiếng hót của chim chiền chiện. "Chiền chiện" là một loài chim hót vào mùa xuân. Từ cảm thán "ơi!" là tiếng gọi trìu mến, thân thương của nhà thơ. Mấy tiếng "hót chi mà…." như một lời trách yêu nghe thât dịu dàng và duyên dáng. Bản nhạc của con chim chiền chiện như vang động cả đất trời, tràn ngập khắp không gian, làm bừng lên một niềm vui bất diệt. Chỉ bằng vài nét phác họa đơn sơ: với một dòng sông, một bông hoa, một tiếng chim, một màu xanh, một sắc tím, Thanh Hải đã hoàn chỉnh bức tranh xuân của quê hương mình thật nhẹ nhàng và quyến rũ lạ thường. "Giọt long lanh" ở đây có thể là giọt sương sớm của mùa xuân, có thể là những giọt mưa xuân phơ phất hoặc có thể nói là những giọt âm thanh của tiếng chim chiền chiện đang đọng lại trong không gian rồi từ từ rơi xuống cho nhà thơ xòe hứng bằng đôi tay trân trọng của mình. Chỉ có sáu câu thơ mà có đủ cả âm thanh, màu sắc, dòng sông, bông hoa, tiếng chim, bầu trời cao lồng lộng. Cảnh mùa xuân mở ra một không gian phóng khoáng nhưng lại dịu dàng, tươi mát, một không gian rất Huế. Trong không khí mùa xuân rộn ràng và tưng bừng, tác giả nhắc đến người cầm súng và người ra đồng, họ là hai lực lượng tiêu biểu nhất cho đất nước, làm hai nhiệm vụ quan trọng nhất đó là sản xuất và chiến đấu:

"Mùa xuân người cấm súng
Lộc dắt đầy trên lưng
Mùa xuân người ra đồng
Lộc chảy dài nương mạ
Tất cả như hối hả
Tất cả như xôn xao".

Ngày xuân, người ta đi hái lộc, "lộc" theo nghĩa hẹp là chồi non, nghĩa rộng là sự may mắn. Lộc của người lính là lá ngụy trang trên lưng. Lộc của người nông dân là nương mạ xanh rờn. Cặp câu thơ đối xứng nhịp nhàng, kết hợp với điệp ngữ "mùa xuân" và điệp từ "lộc" được láy đi láy lại nhiều lần, làm cho không khí xây dựng và bảo vệ đất nước như càng khẩn trương, gấp gáp hơn. Và không khí háo hức sôi nổi ấy được miêu tả bằng các từ "hối hả, xôn xao" như càng tăng thêm sức gợi tả.

Sau đó, nhà thơ nghĩ về mùa xuân của đất nước:

"Đất nước bốn nghìn năm
Vất vả và gian lao
Đất nước như vì sao
Cứ đi lên phía trước".

Viết về đất nước, nhà thơ chỉ viết có bốn câu thơ nhưng bốn câu thơ đó thật tự hào. Tự hào về quá khứ oai hùng và khẳng định về một tương lai tươi sáng của quê hương mình. Từ ngữ giản dị "bốn nghìn năm" giống như nhà thơ đang kể chuyện tâm tình về đề tài lịch sử. Mấy ngàn năm nước Việt ta đã trải qua biết bao gian lao, vất vả – kể từ lúc vua Hùng dựng nước rồi đến lúc nhân dân ta cùng nhau giữ lấy nước. Ta cũng bắt gặp lòng tự hào ấy trong nhiều tác phẩm văn học. Đối lập với hai câu thơ nói về quá khứ là hai câu thơ ca ngợi tương lai. Tại sao nhà thơ không dùng từ "vẫn" hay từ "sẽ" mà nhà thơ lại dùng từ "cứ". "Cứ đi lên phía trước" chỉ sự tử tế đi lên một cách hiên ngang, mạnh mẽ không có một sức mạnh nào ngăn cản được. Với nghệ thuật so sánh "đất nước như vì sao", hình ảnh đất nước trở nên gần gũi, gợi cảm. Đất nước đẹp như ánh sao sáng lung linh trên bầu trời cao vời vợi mà chúng ta đang ngẩng cao đầu chiêm ngưỡng.

Mở đầu bài thơ, tác giả xưng tôi. Đến cuối bài thơ tác giả lại xưng "ta". Cái "ta" bây giờ vừa mang cái "ta" cá thể của riêng tác giả vừa là cái "ta" chung của chúng ta, của tất cả mọi người.

"Ta làm con chim hót
Ta làm một cành hoa
Ta nhập vào hòa ca
Một nốt trầm xao xuyến".

Đại từ "ta" mang sắc thái trang trọng, kiêu hãnh, cấu trúc "ta làm", "ta nhập" nghe như lời căn dặn. Nhà thơ đang căn dặn mình và căn dặn chúng ta vì trách nhiệm và nghĩa vụ với quê hương. Trong cái lớn lao chung của mùa xuân xinh đẹp, nhà thơ chỉ góp mình như một tiếng chim, trong giọng hót của muôn chim. Một cành hoa, trong muôn sắc hương hoa, một nốt nhạc trầm khiêm tốn, trong muôn nốt nhạc bản tình ca. Cánh chim, cành hoa rất nhỏ bé, nhưng chim vô tư cống hiến những tiếng hót hay cho đời. Nốt nhạc trầm không đủ tạo nên một bản nhạc hay nhưng nó cũng góp phần tạo nên những cung bậc khác nhau của bản nhạc. Mượn cánh chim trời, đóa hoa thơm, nốt nhạc trầm, để bày tỏ lòng mình. Nhà thơ muốn được góp phần công sức bé nhỏ của mình trong công cuộc xây dựng quê hương. Qua đó, ta thấy được khát vọng sống có ích cho đời của tác giả. Khát vọng đó thể hiện rõ ý thức đúng đắn trong mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội, giữa "tôi" và "chúng ta".

Tóm lại, qua những điều chúng ta vừa bàn luận, bài thơ "Mùa xuân nho nhỏ" là tiếng lòng tha thiết, gắn bó với đất nước, với cuộc đời, thể hiện ước nguyện chân thành của nhà thơ được cống hiến cho đất nước, góp một mùa xuân nhỏ của mình vào mùa xuân lớn của dân tộc.

Phân tích bài thơ Mùa xuân nho nhỏ của Thanh Hải – Bài làm 3

Mùa xuân là để tài bất tận của thơ ca. Song, cái cảm nhận về mùa xuân của các nhà thơ theo thời gian có nhiều thay đổi. Đối với Mãn Giác Thiền sư, một cao tăng nổi tiếng thời Lý, mùa xuân mang một tính triết lý sâu sắc:

“Đừng tưởng xuân tàn hoa rụng hết

Đêm qua sân trước một nhành mai”

Còn đối với những nhà thơ trước cách mạng, mùa xuân gợi lên một nét sầu cảm:

“Tôi có chờ đâu, có đợi đâu,

Mang chi xuân đến gợi thêm sầu.” (Chế Lan Viên)

Nhưng đối với nhà thơ Thanh Hải, mùa xuân mang một nét đẹp đáng yêu tươi thắm; gợi lên trong lòng người đọc nhiều hình ảnh rạo rực tươi trẻ. Vì thế, mùa xuân trong thơ của TH là biểu tượng cho sức sống mạnh mẽ của quê hương, dân tộc. Tất cả đã được thể hiện rõ nét trong bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ”, một bài thơ đặc sắc được nhà thơ viết không lâu trước khi qua đời.

Người xưa có câu: “Thi trung hữu họa”. Thơ ca vẽ nên những bức tranh tuyệt đẹp của cuộc sống. Mở đầu bài thơ, TH đã phác họa nên một bức tranh xuân giản dị mà tươi đẹp:

“Mọc giữa dòng sông xanh

Một bông hoa tím biếc

Ơi con chim chiền chiện

Hót chim mà vang trời”

“Dòng sông xanh” gợi nhắc hình ảnh những khúc sông uốn lượn của dải đất miền Trung quanh co, đó có thể là dòng sông Hương thơ mộng, một vẻ đẹp lắng đọng của xứ Huế mộng mơ.Trên gam màu xanh lơ của dòng sông thơ mộng, nổi bật lên hình ảnh “một bông hoa tím biếc”. Không có màu vàng rực rỡ của hoa mai, cũng không có màu đỏ thắm của hoa đào, mùa xuân của TH mang một sắc thái bình dị với màu tím biếc của bông hoa lục bình. Đây là một hình ảnh mang đậm bản sắc của cố đô Huế. Không biết tự bao giờ màu tím đã trở thành màu sắc đặc trưng của con người và đất trời xứ Huế. Màu tím biếc gợi nhớ hình ảnh những nữ sinh xứ Huế trong những bộ áo dài màu tím  dịu dàng thước tha. Nhà thơ đã sử dụng biện pháp nghệ thuật đảo ngữ, đưa động từ ” mọc” lên đầu câu như một cách để nhấn mạnh vẻ đẹp tươi trẻ, đầy sức sống của mùa xuân thiên nhiên. Trong bức tranh mùa xuân của TH, không chỉ có hình ảnh , mà còn có âm thanh xao xuyến, ngân nha của con chim chiền chiện. Tiếng chim lảnh lót vang lên làm xao động cả đất trời, làm xao xuyến cả tâm hồn thi sĩ nhạy cảm của nhà thơ. Những từ ngữ cảm thán “ơi, hót chi” đã thể hiện rõ nét cảm xúc của nhà thơ. Mùa xuân của thiên nhiên đã đem đến cho nhà thơ một cảm giác ngây ngất. Mùa xuân ấy không có gì khác lạ, vẫn là một mùa xuân rất giản dị trên quê hương xứ Huế của nhà thơ. Nhưng nhà thơ bỗng nhận ra vẻ đẹp lạ kì của mùa xuân, một vẻ đẹp mà bấy lâu nhà thơ không để ý. Phải chăng vì đây là lần cuối cùng được ngắm nhìn mùa xuân quê hương nên nhà thơ cảm thấy mùa xuân ấy đẹp hơn, tươi sáng hơn ?

Say sưa, ngây ngất trước vẻ đẹp giản dị và nên thơ của mùa xuân, nhà thơ bồi hồi xúc động:

“Từng giọt long lanh rơi

Tôi đưa tay tôi hứng:

“Giọt long lanh” là giọt mưa xuân, giọt nắng vàng hay giọt sương sớm ? Theo mạch cảm xúc của nhà thơ thì có lẽ đây là giọt âm thanh của tiếng chim ngân vang. Bằng một cảm nhận tinh tế, nhà thơ đã hình tượng hóa tiếng chim thành một sự vật có hình dáng, đây là một sự sáng tạo rất mới mẻ chỉ có thể có được nhờ tâm hồn nhạy cảm của một thi sĩ. Như vậy, chỉ bằng ba nét vẽ: dòng sông xanh, bông hoa tím và tiếng chim ngân vang khắp đất trời, nhà thơ đã phác họa nên một bức tranh xuân tuyệt đẹp trên cố đô Huế.

Từ vẻ đẹp thanh khiết của mùa xuân thiên nhiên, nhà thơ liên hệ đến mùa xuân của đất nước, mùa xuân của cách mạng:

“Mùa xuân người cầm súng

Lộc giắt đầy trên lưng

Mùa xuân người ra đồng

Lộc trải dài nương mạ”

Bốn câu thơ mang cấu trúc song hành thể hiện rõ hai nhiệm vụ của nhân dân: chiến đấu bảo vệ Tổ quốc và sản xuất làm giàu nước nhà. Hai nhiệm vụ ấy đặt nặng lên vai của người chiến sĩ – “người cầm súng” và người nông dân – “người ra đồng”. Nét đặc sắc của đoạn thơ là việc sáng tạo hình ảnh “lộc”. “Lộc” là chồi non, cành biếc; “lộc” còn tượng trưng cho sự may mắn, niềm an lành trong năm mới. Đối với người chiến sĩ, “lộc” là cành lá ngụy trang che mắt quân thù. Đối với người nông dân, “lộc” là những mầm mạ non trải dài trên đồng ruộng bát ngát, báo hiệu một mùa bội thu. Người chiến sĩ chiến đấu bảo vệ Tổ quốc sẽ đem về “lộc” là sự an lành niềm vui, niềm tự hào chiến thắng cho dân tộc. Người nông dân gieo trồng lúa trên đồng ruộng sẽ đem về “lộc” là những hạt gạo trắng ngần, những bát cơm ngon ngọt cho đồng bào cả nước. Cả dân tộc bước vào xuân với khí thế khẩn trương  và náo nhiệt:

“Tất cả như hối hả

Tất cả như xôn xao…”

Bằng cách sử dụng từ láy “hối hả-xôn xao” cùng với điệp từ, tác giả đã mang đến cho câu thơ một nét rộn ràng, nhộn nhịp. “Hối hả” nghĩa là vội vả, khẩn trương. “Xôn xao” là có nhiều âm thanh trộn lẫn vào nhau, làm cho náo động. Từ những âm thanh xôn xao và sự hối hả của con người, nhà thơ lại suy tư về sự phát triển của đất nước qua bốn ngàn năm lịch sử:

“Đất nước bốn ngàn năm

Vất vả và gian lao

Đất nước như vì sao

Cứ đi lên phía trước”

Chặng đường lịch sử của đất nước qua bốn ngàn năm trường tồn đã trải qua biết bao thăng trầm, với bao nhiêu là “vất vả và gian lao”. So sánh đất nước với vì sao sáng, nhà thơ đã thể hiện niềm tự hào đối với đất nước và dân tộc. Sao là nguồn sáng bất diệt, là vẻ đẹp vĩnh hằng trong không gian và thời gian. Ngôi sao sáng đã trở thành vẻ đẹp lộng lẫy trên lá cờ VIệt Nam, trở thành biểu tượng cho vẻ đẹp ngời sáng của con người và đất nước Việt Nam. Đất nước vẫn không ngừng phát triển, vẫn “cứ đi lên phía trước” để sánh vai cùng các cường quốc năm châu trên thế giới. Đoạn thơ thể hiện ý chí vươn lên không ngừng của con người và dân tộc Việt Nam.

Trong không khí tưng bừng của đất nước vào xuân, nhà thơ cảm nhận được một mùa xuân tươi trẻ, rạo rực trỗi dậy trong tâm hồn. Đó là mùa xuân của lòng người, mùa xuân của sức sống tươi trẻ, mùa xuân của sự cống hiến và hòa nhập:

“Ta làm con chim hót

Ta làm một nhành hoa

Ta nhập vào hòa ca

Một nốt trầm xao xuyến”

Nhịp thơ dồn dập và điệp từ “ta làm” diễn tả rõ nét khát vọng cống hiến của nhà thơ. Nhà thơ muốn làm một con chim, muốn làm một nhành hoa thắm trong vườn hoa xuân để dâng tiếng hót tha thiết, để tỏa hương sắc tô điểm cho mùa xuân đất nước. “Nốt trầm” là nốt nhạc tạo nên sự lắng đọng sâu xa trong một bản nhạc. Trong cái không khí tưng bừng của ngày hội mùa xuân, nhà thơ muốn làm một nốt nhạc trầm để góp vào khúc ca xuân của dân tộc một chút vấn vương, xao xuyến. Từ khát vọng hòa nhập, nhà thơ thể hiện rõ hơn khát vọng cống hiến của mình ở những câu thơ tiếp theo:

“Một mùa xuân nho nhỏ

0