Phân tích bài thơ Cảm hoài của Đặng Dung
Đề bài: Em hãy phân tích bài thơ Cảm hoài của Đặng Dung để thấy được nỗi lòng và xúc cảm của chính nhà thơ trong tác phẩm này. Việt Nam là đất nước có truyền thống, bề dày về lịch sử, trong suốt chiều dài của quá trình dựng nước và giữ nước ông dân tộc ta đã trải qua bao nhiêu thăng trầm, biến cố ...
Đề bài: Em hãy phân tích bài thơ Cảm hoài của Đặng Dung để thấy được nỗi lòng và xúc cảm của chính nhà thơ trong tác phẩm này. Việt Nam là đất nước có truyền thống, bề dày về lịch sử, trong suốt chiều dài của quá trình dựng nước và giữ nước ông dân tộc ta đã trải qua bao nhiêu thăng trầm, biến cố . Và cùng với sự phát triển của lịch sử đấu tranh là sự phát triển của lịch sử văn học. Cứ mỗi khi đất nước có giặc ngoại xâm, có các cuộc đấu tranh chống giặc thì các tác phẩm ...
Đề bài: Em hãy phân tích bài thơ Cảm hoài của Đặng Dung để thấy được nỗi lòng và xúc cảm của chính nhà thơ trong tác phẩm này.
Việt Nam là đất nước có truyền thống, bề dày về lịch sử, trong suốt chiều dài của quá trình dựng nước và giữ nước ông dân tộc ta đã trải qua bao nhiêu thăng trầm, biến cố . Và cùng với sự phát triển của lịch sử đấu tranh là sự phát triển của lịch sử văn học. Cứ mỗi khi đất nước có giặc ngoại xâm, có các cuộc đấu tranh chống giặc thì các tác phẩm thơ văn viết về đề tài yêu nước lại phát triển hơn bao giờ hết. Trong lịch sử văn học trung đại Việt Nam, có một thời kì đó là thời kì Đông A, khi mà các nhà văn, nhà thơ lớn đều hướng ngòi bút của mình đến phản ánh sự oai hùng của dân tộc, ca ngợi sức mạnh, ca ngợi triều đại và lòng tự hào trước những chiến thắng lừng lẫy. Cũng trong phong trào văn học mang hào khí Đông A ấy, nhà thơ Đặng Dung đã viết ra một tác phẩm nổi tiếng “Cảm hoài”.
Trong văn học trung đại xưa, ta có thể thấy ngoài những nhà Nho, những nhà trí thức làm nên lực lượng sáng tác văn chương hùng hậu thì còn có một sự đóng góp không hề nhỏ của những người tướng lĩnh, họ là những người tài ba khi cầm quân đánh giặc nhưng khi cầm bút thì họ lại là những nhà văn, nhà thơ xuất chúng, hơn người. Nếu nhắc đến tướng Lí Thường Kiệt ta sẽ nhớ ngay đến bài thơ thần gắn bó với tên tuổi của ông “Nam Quốc sơn hà”, hay tướng Trần Quang Khải thì ta cũng có thể liên tưởng ngay đến tác phẩm “Tụng giá hoàn kinh sư”. Có nghĩa tên tuổi của những vị tướng này gắn liền với các tác phẩm thơ văn mà mình sáng tác.
Cũng là một vị tướng tài ba, có tài văn chương nhưng nhắc đến thơ thì dường như toàn bộ bức chân dung của con người ông cũng được lột tả một cách sâu sắc, đó là “Cảm hoài” của Đặng Dung. “Cảm hoài”được hiểu là nỗi lòng, xúc cảm của chính bản thân của nhà thơ Đặng Dung. Ngay mở đầu bài thơ, Đặng Dung đã thể hiện được khát vọng được cống hiến tài năng, sức lực cho dân, cho nước nhưng đồng thời cũng thể hiện sự bất lực của mình khi tuổi tác đã lớn:
“Thế sự du du nại lão hà
Vô cùng thiên địa nhập hàm ca”
Dịch:
(Việc đời man mác, tuổi già thôi
Đất rộng trời cao chén ngậm ngùi”
Là một con người luôn có ý thức trước trách nhiệm với đất nước, với dân tộc nên lúc nào Đặng Dung cũng mang trong mình khát khao được cống hiến, khát khao được mang sức lực của mình ra để giúp dân, giúp nước. Nhưng sự tha thiết trong khát khao của nhà thơ gặp những giới hạn nhất định, đó chính là sự giới hạn về tuổi tác “Thế sự du du nại lão hà” việc đời dù còn mênh mông, bao nhiêu việc cần cống hiến cần dốc sức hoàn thành nhưng bản thân mình dù mang những khát vọng, hoài bão lớn được dâng hiến, nhưng chợt nhận ra mình đã già, biết làm sao? Câu hỏi đó nhà thơ tự vấn với chính mình và tự day dứt với tuổi già của chính mình.
“Vô cùng thiên địa nhập hàm ca” tức cuộc đời rộng lớn vô cùng, đành thu cả vào cuộc say ca. Trước những khát khao lớn, nhưng vì bất lực trước tuổi già nên nhà thơ chỉ có thể tự thu mình vào những cuộc say ca, như để tìm đến một thú vui mà tạm quên đi những nỗi khắc khoải trong lòng. Nhưng dường như sự cố gắng ấy của nhà thơ cũng vô ích. Bởi Đặng Dung lại là con người rất trách nhiệm, dù có tự quên hay cố tình làm cho quên đi nỗi buồn trong lòng thì ông vẫn day dứt tự vấn:
“Thời lai đồ điếu thành công dị
Vận khứ anh hùng ẩm hận đa”
Dịch
(Gặp gỡ thời cơ may những kẻ
Tan tành sự thế luống cay ai)
Ở trong hai câu thơ này, nhà thơ Đặng Dung nhấn mạnh đến tầm quan trọng của thời cơ và sự tiếc nuối khi vận số đã hết. Dường như những vấn đề nhà thơ nêu ra có liên quan đến tư tưởng định mệnh trong Nho giáo, nhà thơ cho rằng khi thời cơ đến thì ngay cả những kẻ tầm thường nhất như người bán thịt, bán cá thì cũng sẽ dễ dàng đạt được những thành công nhất định. Đó chính là yếu tố thời cơ, bởi nếu thời cơ không đến thì dù tài giỏi đến đâu hay anh hùng như thế nào đi nữa thì cũng khó có thể làm nên việc lớn, bởi không có hoàn cảnh cụ thể, mục tiêu cụ thể để thể hiện tài năng. Ngược lại, nhà thơ cũng nêu ra sự bi đát, thất vọng của những bậc anh hùng dù mang trong mình những chí khí lớn nhưng cũng không thành công vì đã hết thời, đành nuốt hận. Ở đây ta có thể thấy hình ảnh của chính Đặng Dung trong câu thơ này, nhà thơ tự chế giễu, mỉa mai mình đã hết vận số, dù có mong mỏi nhưng cũng không thể làm gì để có thể cống hiến cho dân, cho nước.
“Trí chủ hữu hoài phù địa trục
Tẩy binh vô lộ vãn thiên hà”
Dịch
(Phò vua bụng những mong xoay đất
Gột giáp sông kia khó vạch trời)
Ở những câu thơ này nhà thơ Đặng Dung lại thể hiện khát vọng lớn trong suốt cuộc đời mình, đó chính là dốc lòng giúp đỡ vua chúa, những mong làm nên được nghiệp lớn, ví như chống đỡ được trục quả đất “Trí chủ hữu hoài phù đại trục”. Ta có thể thấy những khát vọng của nhà thơ thật đẹp, thật vĩ đại, Đặng Dung là con người có tài năng lại có chí. Ông không mang những thế mạnh ấy để mưu nghiệp riêng cho bản thân mà luôn luôn trung thành với nhà vua, cũng như với triều đại mà mình sinh sống, đó là con người nhập thế khi luôn muốn tài năng cống hiến cho đất nước. Khát vọng của ông cũng rất có tầm vóc, vì ông muốn xoay chuyển cả vũ trụ, chống đỡ trục quả đất, tức là mang sức mình ra để bảo vệ cho người dân, bảo vệ cho đất nước, giang san.
Không chỉ là con người có chí lớn trong mưu nghiệp việc lớn mà Đặng Dung còn là con người luôn đề cao cuộc sống thanh bình, không còn chiến tranh, cuộc sống của người dân không còn lầm than, chết chóc, chia li. Khát vọng ấy được thể hiện ngay trong câu thơ “Tẩy binh vô lộ vãn thiên hà” tức nhà thơ muốn rửa sạch giáp binh nhưng lại chẳng có cách nào kéo sông Ngân xuống. Rửa sạch giáp binh là gột sạch những những đau thương, chết chóc còn in hẳn trên đó, nó là máu, là sự hi sinh. Bao giờ con người không còn phải đối mặt với chiến tranh thì cuộc sống mới bình yên và hạnh phúc. Khát khao đến một cuộc sống không còn binh lửa, chết chóc ấy nhưng nhà thơ cũng thể hiện sự bất lực khi không thể kéo sông Ngân xuống.
“Quốc thù vị báo đầu tiên bạch
Kỉ độ Long Tuyền đới nguyệt ma”
Dịch
(Đầu bạc giang san thù chưa trả
Long tuyền mấy độ bóng trăng soi)
Đến hai thơ cuối cùng, nhà thơ lại trở về với nỗi trăn trở, buồn bã của bản thân, đó là sự mâu thuẫn giữa khát vọng được dâng hiến với giới hạn của đời người. Nhà thơ nhận thấy mối thù chung của dân tộc vẫn còn đó nhưng đầu cũng đã bạc “Quốc thù vị báo đầu tiên bạch”, sự khát khao của nhà thơ trong việc dâng hiến còn thể hiện ở hành động đầy quyết tâm “Kỉ độ Long Tuyền đới nguyệt ma”, tức đã bao phen đội trăng để mài gươm báu Long Tuyền.
Như vậy, bài thơ “Cảm hoài” chính là sự bộc lộ nỗi niềm, tâm sự của một con người nhập thế, hết lòng với dân tộc, với đất nước. Nhà thơ nguyện đem hết tài trí, sức lực hiến dâng cho sự nghiệp lớn, tiêu diệt quân thù, báo đền nợ nước. Âm hưởng bi tráng, triết lí sâu sắc, uất hận ngút trời, chí lớn khôn nguôi, tấm lòng vằng vặc. Bài thơ không chỉ là bức chân dung về con người cũng như khí phách của Đặng Dung mà còn là tác phẩm tiêu biểu cho hào khí Đông A.