Phân tích bài Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn – Văn mẫu hay lớp 10
Xem nhanh nội dung Phân tích bài Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn – Bài làm 1 của một học sinh giỏi Văn tỉnh Bình Định Đại Việt sử kí toàn thư của tác giả Ngô Sĩ Liên là tập biên niên sử nhưng mang đậm chất văn học (theo tinh thần “vãn sử bất phân” của thời trung ...
Xem nhanh nội dung
Phân tích bài Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn – Bài làm 1 của một học sinh giỏi Văn tỉnh Bình Định
Đại Việt sử kí toàn thư của tác giả Ngô Sĩ Liên là tập biên niên sử nhưng mang đậm chất văn học (theo tinh thần “vãn sử bất phân” của thời trung đại). Mỗi nhân vật, sự kiện lịch sử được đề cập đến thường kèm theo những câu chuyện sinh động, để lại ấn tượng khó quên trong lòng người đọc. Chân dung các nhân vật lịch sử thường được tác giả khắc hoạ khá sắc nét. Đoạn trích Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn là một trong những ví dụ tiêu biểu cho cách viết nói trên.
Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn là một trong những vị anh hùng nổi tiếng của dân tộc Việt Nam. Ông giữ vai trò trụ cột của nhà Trần và là vị tướng có đóng góp to lớn trong ba lần đánh thắng quân xâm lược Mông – Nguyên. Với tầm vóc lịch sử quan trọng và những phẩm chất tốt đẹp của một vị tướng tài, sau khi mất, ông đã được nhân dân thần thánh hoá và được lập đền thờ trên khắp nước Nam.
Qua bài viết, tác giả Ngô Sĩ Liên đã xây dựng thành công một hình tượng đẹp đẽ về người anh hùng văn võ song toàn. Những câu chuyện phản ánh cách ứng xử của Trần Hưng Đạo đối với nhà vua, với các tướng lĩnh, với người thân và những mẩu chuyện nhỏ về đời riêng đã thể hiện tính cách và phẩm chất quý báu của ông.
Nhân vật Trần Quốc Tuấn được tác giả miêu tả trong nhiều mối quan hệ và trong những tình huống thử thách, qua đó làm nổi bật phẩm chất của ông ở nhiều phương diện. Nhà viết sử đã thành công trong việc khắc hoạ nhân vật lịch sử sống động bằng những chi tiết chọn lọc đặc sắc, để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng người đọc.
Cách kể chuyện về một nhân vật lịch sử trong Đại Việt sử kí toàn thư không đơn điệu theo trình tự thời gian. Chúng ta có thể thấy được mạch kể của bài viết như sau:
Mở đầu tác giả nêu lên sự kiện khác thường để tạo ra một mốc thời gian đáng chú ý: Tháng 6, ngày 24, sao sa. Với quan niệm "thiên nhân tương dữ" tức là giữa trời và người có quan hệ chặt chẽ với nhau thì sao sa là điểm xấu, dự báo một nhân vật có vai trò trọng yếu đối với quốc gia (vua, tướng quốc, anh hùng có công lớn với dân tộc) sắp qua đời. Điềm báo này ứng vào việc Hưng Đạo Đại Vương ốm.
Hưng Đạo Đại Vương ốm, vua ngự tới thăm và ông đã dặn dò vua những điều tâm huyết. Vậy, Hưng Đạo Đại vương là ai? Đó là Trần Quốc Tuấn với những nét riêng về hoàn cảnh xuất thân, về tướng mạo và những sự kiện đáng chú ý trong đời. Sau khi Trần Quốc Tuấn mất, ông được vua phong tặng rất trọng hậu vì có nhiều công lao to lớn đối với đất nước và có phẩm chất, đức độ đáng kính phục.
Cách kể chuyện mạch lạc, khúc chiết của tác giả vừa giúp người đọc hình dung được nhân vật là ai, có những đặc điểm gì đáng đưa vào lịch sử, vừa giữ được mạch chuyện với những chi tiết sinh động, hấp dẫn, làm rõ nét chân dung nhân vật.
Phẩm chất nổi bật nhất của Trần Quốc Tuấn là lòng trung quân ái quốc. Lòng trung quân của ông thể hiện ở tinh thần yêu nước sâu sắc và ý thức trách nhiệm cao đối với sơn hà xã tắc. Khi được nhà vua hỏi về việc chống giặc: Nếu có điều chẳng may, mà giặc phương Bắc sang xâm lược thì kế sách như thế nào? Thì Hưng Đạo Đại Vương đã hiến những kế sách đúng đắn và sáng suốt:
Ngày xưa Triệu Vũ dựng nước, vua Hán cho quân đánh, nhân dân làm kế "thanh dã", đại quân ra Khâm Châu, Liêm Châu đánh vào Trường Sa, còn đoản binh thì đánh úp phía sau. Đó là một thời. Đời Đinh, Lê dùng được người tài giỏi, đất phương Nam mới mạnh mà phương Bắc thì mệt mỏi suy yếu, trên dưới một dạ, lòng dân không lìa, xây thành Bình Lỗ mà phá được quân Tống. Đó lại là một thời. Vua Lí mở nền, nhà Tống xâm phạm địa giới, dùng Lí Thường Kiệt đánh Khâm, Liêm, đến tận Mai Lĩnh là vì có thế. Vừa rồi Toa Đô, Ô Mã Nhi bốn mặt bao vây, vì vua tôi đồng tâm, anh em hoà mục, cả nước nhà góp sức, giặc phải bị bắt. Đó là trời xui nên vậy. Đại khái, nó cậy trường trận, ta dựa vào đoản binh. Dùng đoản (binh) chế trường (trận) là sự thường của binh pháp. Nếu chỉ thấy quân nó kéo đến như lửa, như gió thì dễ chế ngự. Nếu nó tiến chậm như cách tằm ăn, không cầu thắng chóng, thì phải chọn dùng tướng giỏi, xem xét quyền biến, như đánh cờ vậy, tuỳ thời tạo thế, có được đội quân, một lòng như cha con thì mới dùng được. Vả lại, khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc, đó là thượng sách giữ nước vậy.
Sau khi đưa ra những bài học trị nước, Trần Quốc Tuấn đã khẳng định rằng trị nước là một công việc phức tạp, khó khăn, sự thành bại phụ thuộc rất nhiều yếu tố. Tuỳ thuộc từng hoàn cảnh cụ thể mà đấng quân vương có kế sách phù hợp. Để chống giặc, có thể dùng kế thanh dã (vườn không nhà trống), biết dùng người tài giỏi và đoàn kết toàn dân, để lòng dân không lìa cũng là bài học quý giá. Kế sách trị nước còn là vua tôi đồng tâm, anh em hoà mục, cả nước nhà góp sức để đánh đuổi ngoại xâm. Kế sách phù hợp ắt sẽ thành công. Câu trả lời của Hưng Đạo Đại Vương chứa đựng những kế sách trị nước quý giá, thể hiện tầm nhìn xa trông rộng của một thiên tài. Trong đó, ông đặc biệt nhấn mạnh đến tinh thần đoàn kết trên dưới một lòng và tư tưởng thân dân. Hạt nhân của kế sách trị nước chính là khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc.
Qua lời lẽ Hưng Đạo Đại Vương trinh bày với vua vế thời thế, về mối tương quan giữa ta và địch, chiến lược của địch, đối sách của ta, đặc biệt là coi trọng đến sức mạnh đoàn kết toàn dân, chúng ta thấy rõ ông là nhà quân sư có tài năng kiệt xuất.
Vậy Hưng Đạo Đại Vương là ai? Tác giả lần lượt nêu vài nét chính trong tiểu sử và kể những câu chuyện nhỏ về cuộc đời ông:
Quốc Tuấn – con An Sinh Vương, lúc mới sinh ra, có một thầy tướng xem cho và bảo: "Người này ngày sau có thể giúp nước cứu đời". Đến khi lớn lên, dung mạo khôi ngô, thông minh hơn người, đọc rộng các sách, có tài văn võ.
Lòng trung quân của Trần Quốc Tuấn được đặt trong hoàn cảnh có nhiều thử thách: Mối hiềm khích giữa thân phụ của ông là An Sinh Vương Trần Liễu với vua Trần Thái Tông rất khó hoà giải. Trước khi qua đời, người cha trăn trối rằng: Con mà không vì cha lấy được thiên hạ thì cha dưới suối vàng cũng không nhắm mắt được. Trần Quốc Tuấn ghi điều đó trong lòng, nhưng không cho là phải.
Bị đặt vào tình thế mâu thuẫn gay gắt giữa hiếu và trung, nhưng Trần Quốc Tuấn đã dặt chữ trung lên trên chữ hiếu, nợ nước lên trên tình nhà. Hay nói khác đi, ông đã không thực hiện đạo hiếu một cách cứng nhắc. Trung cũng như hiếu ở Trần Quốc Tuấn đều được chi phối bởi nghĩa lớn là trách nhiệm đối với đất nước.
Vì thiết tha với vận mệnh đất nước nên Hưng Đạo Đại Vương luôn đặt lợi ích của dân tộc lên trên quyền lợi của bản thân và gia đình. Lúc đã nắm quyền hành trong tay, Trần Quốc Tuấn đem lời cha dặn ngày nào ra hỏi hai gia nô là Dã Tượng, Yết Kiêu thì họ can ông: Làm kế ấy tuy phú quý một thời mà để lại tiếng xấu ngàn năm. Nay đại vương há chẳng đủ phú và quý hay sao? Chúng tôi thề xin chết già làm gia nô, chứ không muốn làm quan mà không có trung hiếu…
Thái độ của Yết Kiêu, Dã Tượng khiến Quốc Tuấn cảm phục đến khóc, khen ngợi hai người. Lần khác, Quốc Tuấn vờ hỏi con trai là Hưng Vũ Vương: "Người xưa có cả thiên hạ để truyền cho con cháu, con nghĩ thế nào?". Hưng Vũ Vương trả lời: “Dẫu khác họ cũng còn không nên, huống chi là cùng một họ. Quốc Tuấn ngẫm cho là phải. Lại một hôm Quốc Tuấn đem chuyện ấy hỏi người con trai thứ là Hưng Nhượng Vương Quốc Tảng. Quốc Tảng tiến lên thưa: “Tống Thái Tổ vốn là một ông lão làm ruộng, đã thừa cơ dấy vận nên có được thiên hạ". Quốc Tuấn rút gươm kể tội: "Tên loạn thần là từ đứa con bất hiếu mà ra". Định giết Quốc Tảng, Hưng Vũ Vương hay tin vội chạy tới khóc lóc xin chịu tội thay, Quốc Tuấn mới tha. Đến đây, ông dặn Hưng Vũ Vương: "Sau khi ta chết, đậy nắp quan tài rồi mới cho Quốc Tảng vào viếng".
Sau khi mất, Trần Quốc Tuấn được vua phong tặng rất trọng hậu: Thái sư Thượng phụ Thượng quốc công Nhân vũ Hưng Đạo Đại Vương. Nhà viết sử lí giải tại sao mà ông lại được phong tặng rất hậu như vậy. Thông thường, các nhân vật lịch sử sau khi chết mới được khẳng định tài năng và nhân cách cáo quý qua hàng loạt chi tiết, sự việc đã được chọn lọc. Cách làm đó là theo tinh thần "cái quan định luận” có nghĩa là đóng nắp quan tài rồi mới có thể khẳng định đúng đắn về giá trị của nhân vật đó.
Ở đoạn này, tác giả nhận xét rằng đi đôi với lòng trung nghĩa và tài cầm quân dẹp giặc, Trần Quốc Tuấn còn có đức độ lớn lao. Ông khiêm tốn, kính cẩn giữ tiết của bề tôi dù được vua trọng đãi rất mực, luôn coi là bậc thượng phụ (là thầy, là cha). Lúc ông còn sống, đích thân vua Thánh Tông đã soạn văn bia ở sinh từ của Quốc Tuấn và cho phép ông được quyền phong tước cho người khác… Nhưng ông chưa bao giờ phong tước cho một người nào.
Ông cẩn thận phòng xa trong việc hậu sự: Khi sắp mất, ông dặn con rằng: “Ta chết thì phải hoả táng, lấy vật tròn đựng xương, bí mật chôn trong vườn An Lạc, rồi san đất và trồng cây như cũ, để người đời không biết chỗ nào, lại phải làm sao cho mau mục
Ông tận tình với tướng sĩ dưới quyền nên bỏ công soạn sách để dạy bảo khích lệ họ: Quốc Tuấn lại từng soạn sách để khích lệ tướng sĩ dưới quyền dẫn chuyện Kỉ Tín chết thay để cứu thoát Hán Cao Tổ, Do Vu giơ lưng chịu giáo để cứu Sở Tử. Thế là dạy đạo trung đó.
Ông lại khéo tiến cử người tài giỏi cho đất nước, như Dã Tượng, Yết Kiêu là gia thần của ông, có công dẹp Mã Nhi, Toa Đô. Bọn Phạm Ngũ Lão, Trần Thì Kiến, Trương Hán Siêu, Phạm Lãm, Trịnh Dù, Ngô Sĩ Thường, Nguyễn Thế Trực vốn là môn khách của ông, đều nổi tiếng thời đó về văn chương và chính sự. Bởi vì ông có tài mưu lược, anh hùng, lại một lòng giữ gìn trung nghĩa vậy.
Xem như khi Thánh Tông vờ bảo Quốc Tuấn rằng: "Thế giặc như vậy, ta phải hàng thôi", Quốc Tuấn trả lời: "Bệ hạ chém đầu tôi trước rồi hãy hàng". Vì thế, đời Trùng Hưng lập nên công nghiệp hiếm có. Tiếng vang đến giặc Bắc. Chúng thường gọi ông là An Nam Hưng Đạo Vương mà không dám gọi tên.
Sau khi mất rồi, các châu huyện ở Lạng Giang hễ có tai nạn, dịch bệnh, nhiều người cầu đảo ông. Đến nay, mỗi khi đất nước có giặc vào cướp, đến lễ ở đền đình, hễ tráp đựng kiếm có tiếng kêu thì thế nào cũng thắng lớn.
Trong tín ngưỡng của dân gian, sau khi mất, Hưng Đạo Đại Vương vẫn thường linh hiển để phò trợ dân chúng chống lại tai nạn, dịch bệnh và giặc ngoại xâm. Ông đã thực sự trở thành một vị phúc thần của dân chúng. Có thể nói Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn là mẫu mực của một vị tướng đại đức vẹn toàn, không những được nhân dân ngưỡng mộ mà cả quân giặc cũng vô cùng kính phục.
Qua đoạn trích, người đọc yêu mến, tự hào về vị anh hùng dân tộc Trần Quốc Tuấn và không quên những câu chuyện đầy ấn tượng về ông. Đó là mục đích và cũng là thành công của nhà viết sử Ngô Sĩ Liên. Ngày nay, ông đã được tôn vinh là một trong những tướng lĩnh kiệt xuất của thế giới, là Danh nhân văn hoá thế giới. Dân tộc Việt Nam rất tự hào về vị anh hùng kiệt xuất Trần Quốc Tuấn.
Cảm nghĩ của em sau khi đọc bài Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn trích trong Đại Việt sử kí toàn thư của Ngô SI Liên – Bài làm 2
Trần Quốc Tuấn là vị anh hùng của Đại Việt thuở "Bình Nguyên ”, văn võ toàn tài, tên tuổi gắn liền với chiến công Bạch Đằng giang bất tử.
Trong “Đại Việt sử kí toàn thư”, nhà sử học Ngô Sĩ Liên đã dành những lời đẹp nhất ca ngợi đức độ, tài năng của Hưng Đạo Đại Vương.
Phần đầu nói về kế sách giữ nước của Trần Quốc Tuấn. Có thể nói đây là những lời vàng ngọc của vị thánh nhân Đại Việt khi vua Trần ngự tới thăm ông và hỏi ông: “Nếu có điều chẳng may, mà giặc phương Bắc lại sangxâm lược thì kế sách như thế nào?
Đại Vương đã nhắc lại những kinh nghiệm lịch sử, những bài học lịch sử: Triệu Vũ dùng kế "thanh dã” và phục kích mà đánh tan quân nhà Hán; đời nhà Đinh, nhà Lê thì “dùng người tài giỏi”, “trên dưới một dạ, lòng dân khônglìa, xây thành Bình Lỗ mà phá được quân Tống”. Thời nhà Lí, nhờ "có thế” mà Lí Thường Kiệt đánh Khâm, Liêm đến trận Mai Lĩnh. Thời nhà Trần, khi Tọa Đô, Ô Mã Nhi bốn mặt bao vây”, nhưng “vì vua tôi đồng tâm, anh em hoàmục, cả nước góp sức, giặc phải bị bắt”. Giặc dùng trường trận thì ta dùng đoàn binh để chế ngự, để tuỳ thời tạo thế, và phải có một đội quân "một lòng như cha con Thượng sách giữ nước là "khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc, đó là thượngsách giữ nước”.
Mưu lược trong dụng binh, xây dựng quân đội (phụ tử chi binh), dùng đoản binh chế trường trận, bồi dưỡng sức dân, thắt chặt khối đại đoàn kết dân tộc – là những bài học sâu sắc để giữ nước và dựng nước mà Trần Quốc Tuấn để lại cho dân tộc ta muôn đời sau.
Phần thư hai, Ngô Sĩ Liên nói về tư chất và tính cách của Trần Quốc Tuấn. Ông là con Yên Sinh Vương Trần Liễu. Lúc mới sinh ra, có một ông thầy tướngxem cho và bảo: “người này ngày sau có thể giúp nước cứu đời”. Lớn lên, TrầnQuốc Tuấn “dungmạo khôi ngô”, thông minh hơn người, đọc rộng các sách, có tài văn võ”.
Tác giả kể lại mối hiềm khích giữa An Sinh Vương và Trần Thái Tông, lời trăng trối của cha, Trần Quốc Tuấn chí “ghi để điều đó trong lòng, nhưng không cho là phải”. Chuyện Trần Quốc Tuấn đem lời cha dặn nói với Dã Tượng, Yết Kiêu, với các con, và thái độ của ông, lúc thì "cảm phục đến khóc, khen ngợi… lúc thì “ngầm cho là phải ”, lúc thì nổi giận quát Quốc Tảng là “tên loạn thần…đứa con bất hiếu ”, rút gươm toan chém – tất cả đều thể hiện tấm lòng trung nghĩa của vị Quốc công, xoá hận thù riêng, đặt quyền lợi của Tổ quốc lên trên hết.
Phần thứ ba nói vềđức độ “kính cẩn giữ tiết làm tôi” của Trần Quốc Tuấn. Tuy chức trọng quyền cao, được nhà vua cho phép ông được quyền phong tước cho người khác, nhưng "Quốc Tuấn chưa bao giờ phong tước cho một người nào”. Vì thế, mùa thu ngày 20 tháng 8 ta (năm 1300), ông mất ở phủ đệ Vạn Kiếp, nhà vua và triều đình đã tặng ông là "Thái sưThượng phụ Thượngquốc công Nhân Vũ Hưng Đạo Đại VươngVua Thánh Tông soạn bài văn bia, ví ông với Thượng phụ ngày xưa. Điều đó cho biết Trần Quốc Tuấn được trọng vọng như thế nào.
Qua đoạn trích, ta thấy Ngô Sĩ Liên đã kể lại những mẩu chuyện rất cụ thể và cảm động để làm nổi bật tài năng và đức độ của Trần Quốc Tuấn. Nghệ thuật thuyết minh kết hợp với tự sự để khắc họa chân dung nhân vật lịch sử cho thấy ngòi bút bình sử của Ngô Sĩ Liên thật đặc sắc.
Phần cuối nói về sự linh nghiệm, ứng nghiệm, sự hiển linh của Hưng Đạo Vương, đặc biệt là hình ảnh "tráp đựng kiếm có tiếng kêu thì thế nào cũng thắng lớn ” rất giàu ý nghĩa. Điều đó nói lên Trần Quốc Tuấn là hồn thiêng Đại Việt, tình yêu nước thương dân và khí phách anh hùng của ông đã trở thành bất tử trong lòng người; nhân dân tôn kính và ngưỡng mộ ông vô cùng.
Các tác phẩm của Trần Quốc Tuấn như “Binh gia diệu lí yếu lược”, “Vạn Kiếp tôngbí truyền thư” là tinh hoa, là tài sản tinh thần vô giá của Đại Việt. Ngô Sĩ Liên đã nhắc lại một số tên tuổi như Dã Tượng, Yết Kiêu, Phạm Ngũ Lão, Trương Hán Siêu … là để ca ngợi cái tài “dùng người ” và "khéo tiến cử người tài giỏi ” cho đất nước, khẳng định Đại Vương "có tài mưu lược, anh hùng, lại một lòng giữ gìn trung nghĩa vậy”. Câu nói của Trần Quốc Tuấn trả lời Trần Thánh Tông khi thế nước ngàn cân treo sợi tóc: “Bệ hạ chém đầu tôi trước rồi hãy hàng ” là tượng trưng cho khí phách Đại Việt, cho "hào khí Đông A ” sáng rực đến nghìn thu.
Qua đoạn trích "Đại Việt sử kí toàn thư”, ta cảm thấy Ngô Sĩ Liên đã dựng nên một tượng đài kì vĩ, tráng lệ về Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, người anh hùng có công lớn nhất trong ba lần kháng chiến đánh thắng giặc Nguyên – Mông.
Kết hợp thuyết minh với tự sự bằng những mẩu chuyện sống, giọng văn thâm trầm, Ngô Sĩ Liên đã tạo nên một bài bình sử đặc sắc, đem đến nhiều lí thú cho người đọc.
Đọc Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn – Bài làm 3
Trong lịch sử các triều đại nhà Trần có hai nhân vật nổi tiếng là Trần Thủ Độ và Trần Quốc Tuấn. Cả hai đều đi vào tầm ngắm của tác giả Đại Việt sử kí toàn thư nhưng mỗi người một cách. Nếu nhân vật Trần Thủ Độ hiện lên như một tính cách, một thứ rường cột quốc gia, một nhà quản lí coi trọng phép nước, giữ vững kỉ cương thì nhân vật Trần Quốc Tuấn được tái hiện toàn diện hơn, cả tài năng, đức độ, tâm huyết của một bậc hiền tài. Cách kể của tác giả cũng khác. Nếu nhân vậtTrần Thủ Độ hiện lên bằng các chi tiết tiêu biểu, chọn lọc như những giai thoại thông qua lối truyện kể dân gian thì nhân vật Trần Quốc Tuấn lại là một chân dung trong hồi kí. Từ hai cái mốc cuối đời là khi ốm và lúc mất, người viết sử đã nhớ lại những gì mà ông để lại cho đời, cho dân cho nước. Cùng với chân dung khách quan của nhân vật còn có sự bình luận đánh giá từ nhiều phía: phía kẻ thù, phía nhà vua, cả tác giả và quần chúng nhân dân đông đảo. Chính vì vậy mà những trang viết về nhân vật lịch sử này giàu chất văn học hơn.
Nói đến một vị đại tướng cầm quân như Trần Quốc Tuấn thì trước hết phải nói đến tài năng thao lược, về phương diện này, nhân vật Trần Quốc Tuấn nổi bật lên. Đâu phải ngẫu nhiên mà kế sách chặn quân xâm lược phương Bắc được ông trình tấu lên vua một cách rõ ràng, cặn kẽ. Ấy là lấy đoản binh chế trường trận. Chiến thuật ấy không có gì là mới vì binh pháp đã nói từ lâu. Kết hợp với phép dụng binh ấy cần phải có một tầm nhìn chiến lược lâu dài. Cái cần trước tiên là tướng giỏi. Nhưng thế nào là tướng giỏi? Theo Trần Quốc Tuấn thì tướng giỏi là tướng có tài quyền biến, đánh giặc như đánh cờ, tuỳ thời tạo thế. Nhưng có tài chưa đủ. Tướng giỏi còn phải là người có tâm, có đức. Có như thế mới có được đội quân một lòng như cha con. Cái cần thứ hai là được nhân dân ủng hộ. Muốn được nhân dân ủng hộ thì không một cách nào khác hơn là “khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc”. Cái nhìn có tầm vĩ mô chiến lược ấy phải chăng là của riêng Trần Quốc Tuấn? Cái nhìn ấy đã xâu chuỗi lại bao nhiêu chiến tích vẻ vang từ thời Triệu Đế, thời Đinh, thời Lê, thời Lí, thời Trần. Thời Triệu Đế, có nhân dân làm kế “thanh dã”. Thời Đinh, Lê thì “trên dưới một dạ, lòng dân không lìa”. Còn mới đây nhất vào triều đại nhà Trần có được hậu thuẫn quan trọng là “vua tôi đồng tâm, anh em hoà mục, cả nước nhà cố sức” mà quân giặc phải tan. Không nằm trong binh Pháp Tôn Tử, kế sách ấy là của Trần Quốc Tuấn. Sau này nó trở thành đường lối của cuộc chiến tranh nhân dân thời hiện đại.
Cách ứng xử của Trần Quốc Tuấn thật là mẫu mực. Đối với bề trên (nhà vua) thì Trần Quốc Tuấn “kính cẩn giữ tiết làm tôi”. Vì có công lớn mà được quyền phong tước cho người khác, nhưng “Quốc Tuấn chưa bao giờ phong tước cho một người nào”. Điển hình nhất là khi ra lệnh cho nhà giàu bỏ thóc ra để cấp lương quân, ông chỉ cho làm “lang tướng giả chứ không dám cho họ tước lang tướng thực. Có quyền lực trong tay mà không bao giờ lạm dụng quyền lực, trong lịch sử các danh nhân Đại Việt, hiếm có một con người như thế.
Đối với tướng sĩ dưới quyền Trần Quốc Tuấn tin họ như tay chân. Việc cha ông có hiềm khích với Trần Thái Tông là việc lớn. Không tham bác ý kiến của ai trong hoàng tộc, Trần Quốc Tuấn lại tâm sự và lắng nghe ý kiến của hai kẻ gia nô. Một mặt, dạy đạo trung cho họ (trong Hịch tướng sĩ, ông gọi là đạo “thần chủ”), một mặt ông hết lòng tiến cử họ. Một loạt các danh nhân nước Đại Việt từ đó mà nên. Những Dã Tượng, Yết Kiêu là gia thần của ông. Còn Phạm Ngũ Lão, Trần Thì Kiến, Trương Hán Siêu, Phạm Lãm… đều là môn khách của ông cả.
Chuyện khó xử nhất là chuyện giải quyết mối bất hoà giữa thân phụ Trần Quốc Tuấn là An Sinh Vương với vua Trần Thái Tông. Nói cho thật khách quan thì lỗinày thuộc về Trần Thủ Độ. Nhưng vì là lời trăng trối của cha, Trần Quốc Tuấn không khỏi bận lòng. Mâu thuẫn giữa chữ “hiếu” với chữ “trung” giải quyết thế nào cho phải. Được hiếu thì mất trung, được trung thì mất hiếu. Tình thế phức tạp này dễ đẩy Trần Quốc Tuấn vào thế trở đi mắc núi trở lại mắc sông, mặc dù thâm tâm, Trần Quốc Tuấn đã nghiêng về một phía. Trước lời căn dặn của cha, tuy hết sức lắng nghe nhưng đã “không cho là phải”. Song, sự nhạy bén của lương tri không đủ sức vượt qua cái bức tường vô hình mà nghiệt ngã. Phải bối rối lắm, Trần Quốc Tuấn mới đem tâm sự mà hỏi Dã Tượng và Yết Kiêu. Nghe xong Quốc Tuấn cảm phục đến phát khóc và không ngớt lời khen ngợi hai kẻ gia thần. Mà câu nói của họ nào có phức tạp gì đâu: “Làm kế ấy tuy được phú quý một thời mà để lại tiếng xấu ngàn năm. Nay đại vương há chẳng đủ phú và quý hay sao? Chúng tôi thề xin giết chết già làm gia nô chứ không muốn làm quan mà không có trung hiếu, chỉ xin lấy người làm thịt dê là Duyệt làm thầy mà thôi!”.
Trần Quốc Tuấn cảm động về lòng thành thực của họ và khóc cho lời đáp sáng tỏ mà mình vừa tìm được trước một ngã ba đường. Thật là “Được lời như cởi tấm lòng”, Trần Quốc Tuấn như đã có chân lí ở trong tay. Đó là hòn đá thử vàng để phân biệt đúng sai, thuận nghịch. Trắng, đen đến lúc này không còn được phép lẫn lộn. “Trắng” thì ngầm cho là phải. Còn “đen” thì ông rút gươm ra dù người đó là con ruột của mình. Trên đời này, cái khó nhất là chuyện riêng tư. Nhưng ngay cả chuyện riêng tư ở Trần Quốc Tuấn không bao giờ khuất tất, không bao giờ dối mình và giấu mình. Tấm lòng ấy như tấm bánh bóc ra càng thấm thìa vị ngọt ngon thơm thảo.
Cách đánh giá Trần Quốc Tuấn của đương thời. Nếu phân tuyến địch – ta thì thấy điều kì lạ là: dù địch hay ta với ông đều hết lời ca ngợi. về phía kẻ thù truyền kiếp, dù phải “kính nhi viên chi” cũng tỏ lòng trân trọng “gọi ông là An Nam Hưng Đạo Vương mà không dám gọi tên”. Còn về phía ta, từ vua đến dân, từ người kể chuyện đến người nghe chuyện không khỏi ngưỡng phục, tự hào. Vua Trần Thánh Tông tự tay soạn văn bia ở sinh từ của Trần Quốc Tuấn, ví ông với Thượng phụ ngày xưa. Dân gian thì ở vùng châu huyện Lạng Giang, hễ gặp tai nạn là có nhiều người đến cầu đảo, nhờ dựa oai linh ông. Còn đối với đất nước, “mỗi khi đất nước có giặc vào cướp, đến lễ ở đền ông, hễ tráp đựng kiếm có tiếng kêu thì thế nào cũng thắng lợi”. Riêng với tác giả Ngô Sĩ Liên không có chi tiết quan trọng nào về ông mà không có lời bình.
Nhưng lời bình ấy là sự biểu dương khẳng định. Khi thì về sự trung nghĩa như việc “kính cẩn giữ tiết làm tôi”, hoặc răn bảo tướng sĩ dưới quyền “là dạy đạo trung đó”. Khi về thì công tích có một không hai của Trần Quốc Tuấn trong việc tiến cử hiền tài, hoặc nhờ Trần Quốc Tuấn mà “đời Trung Hưng lập nên công nghiệp hiếm có”. Bằng cách đánh giá từ nhiều phía trên đây, nhân vật Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn cứ như tỏa ra một thứ hào quang thần thánh. Và sự thật, trong tín ngưỡng dân gian, ông là một bậc thánh từ lâu. Đền thờ ông ở khắp nơi đều được gọi bằng một cái tên chung vô cùng trân trọng: đền thờ Đức Thánh Trần.
Phân tích bài Hưng đạo đại vương Trần Quốc Tuấn – Bài làm 4
Trần Quốc Tuấn là vị anh hùng của thưở “BÌnh Nguyên”,văn võ song toàn ,tên tuổi của ông gắn liền với chiến công Bạch Đằng giang bất tử.Trong Đại Việt sử kí toàn thư của tác giả Ngô Sĩ Liên ,Trần quốc Tuấn hiện lên với những khắc họa sắc nét của tác giả, cùng với đó là những câu truyện sinh động để lại những ấn tượng khó phai trong lòng người đọc .
Nhân vật Trần Quốc Tuấn được tác giả miêu tả trong nhiều mối quan hệ và trong những tình huống thử thách, qua đó làm nổi bật phẩm chất của ông ở nhiều phương diện. Nhà viết sử đã thành công trong việc khắc họạ nhân vật lịch sử sống động bằng những chi tiết chọn lọc đặc sắc, để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng người đọc.
Cách kể chuyện về một nhân vật lịch sử trong Đại Việt sử kí toàn thư không đơn điệu theo trình tự thời gian. Chúng ta có thể thấy được mạch kể của bài viết như sau:
Mở đầu tác giả nêu lên sự kiện khác thường để tạo ra một mốc thời gian đáng chú ý: Tháng 6, ngày 24, sao sa. Với quan niệm “thiên nhân tương dữ" tức là giữa trời và người có quan hệ chặt chẽ với nhau thì sao sa là điểm xấu, dự báo một nhân vật có vai trò trọng yếu đối với quốc gia (vua, tướng quốc, anh hùng có công lớn với dân tộc) sắp qua đời. Điềm báo này ứng vào việc Hưng Dạo Dại Vương ốm. Hưng Dạo Dại Vương ốm, vua ngự tới thăm và ông đã dặn dò vua những điều tâm huyết. Vậy, Hưng Dạo Dại vương là ai? Đó là Trần Quốc Tuấn với những nét riêng về hoàn cảnh xuất thân, về tướng mạo và những sự kiện đáng chú ý trong đời. Sau khi Trần Quốc Tuấn mất, ông được vua phong tặng rất trọng hậu vì có-nhiều công lao to lớn đối với đất nước và có phẩm chất, đức độ đáng kính phục.
Phần đầu nói về kế sách giữ nước của Trần Quốc Tuấn. Có thể nói đây là những lời vàng ngọc của vị thánh nhân Đại Việt khi vua Trần ngự tới thăm ông và hỏi ông: “Nếu có điều chẳng may, mà giặc phương Bắc lại sang xâm lược thì kế sách như thế nào?
Đại Vương đã nhắc lại những kinh nghiệm lịch sử, những bài học lịch sử: Triệu Vũ dùng kế "thanh dã” và phục kích mà đánh tan quân nhà Hán; đời nhà Đinh, nhà Lê thì “dùng người tài giỏi”, “trên dưới một dạ, lòng dân không lìa, xây thành Bình Lỗ mà phá được quân Tống”. Thời nhà Lí, nhờ "có thế” mà Lí Thường Kiệt đánh Khâm, Liêm đến trận Mai Lĩnh. Thời nhà Trần, khi Tọa Đô, Ô Mã Nhi bốn mặt bao vây”, nhưng “vì vua tôi đồng tâm, anh em hoà mục, cả nước góp sức, giặc phải bị bắt”. Giặc dùng trường trận thì ta dùng đoàn binh để chế ngự, để tuỳ thời tạo thế, và phải có một đội quân "một lòng như cha con Thượng sách giữ nước là "khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc, đó là thượng sách giữ nước”.
Mưu lược trong dụng binh, xây dựng quân đội (phụ tử chi binh), dùng đoản binh chế trường trận, bồi dưỡng sức dân, thắt chặt khối đại đoàn kết dân tộc – là những bài học sâu sắc để giữ nước và dựng nước mà Trần Quốc Tuấn để lại cho dân tộc ta muôn đời sau.
Phần thứ hai, Ngô Sĩ Liên nói về tư chất và tính cách của Trần Quốc Tuấn. Ông là con Yên Sinh Vương Trần Liễu. Lúc mới sinh ra, có một ông thầy tướng xem cho và bảo: “người này ngày sau có thể giúp nước cứu đời”. Lớn lên, Trần Quốc Tuấn “dung mạo khôi ngô”, thông minh hơn người, đọc rộng các sách, có tài văn võ”.
Tác giả kể lại mối hiềm khích giữa An Sinh Vương và Trần Thái Tông, lời trăng trối của cha, Trần Quốc Tuấn chí “ghi để điều đó trong lòng, nhưng không cho là phải”. Chuyện Trần Quốc Tuấn đem lời cha dặn nói với Dã Tượng, Yết Kiêu, với các con, và thái độ của ông, lúc thì "cảm phục đến khóc, khen ngợi… lúc thì “ngầm cho là phải ”, lúc thì nổi giận quát Quốc Tảng là “tên loạn thần…đứa con bất hiếu ”, rút gươm toan chém – tất cả đều thể hiện tấm lòng trung nghĩa của vị Quốc công, xoá hận thù riêng, đặt quyền lợi của Tổ quốc lên trên hết.
Phần thứ ba nói về đức độ “kính cẩn giữ tiết làm tôi” của Trần Quốc Tuấn. Tuy chức trọng quyền cao, được nhà vua cho phép ông được quyền phong tước cho người khác, nhưng "Quốc Tuấn chưa bao giờ phong tước cho một người nào”. Vì thế, mùa thu ngày 20 tháng 8 ta (năm 1300), ông mất ở phủ đệ Vạn Kiếp, nhà vua và triều đình đã tặng ông là "Thái sư Thượng phụ Thượng quốc công Nhân Vũ Hưng Đạo Đại Vương Vua Thánh Tông soạn bài văn bia, ví ông với Thượng phụ ngày xưa. Điều đó cho biết Trần Quốc Tuấn được trọng vọng như thế nào.
Qua đoạn trích, người đọc yêu mến, tự hào về vị anh hùng dân tộc Trần Quốc Tuấn và không quên những câu chuyện đầy ấn tượng về ông. Đó là mục đích và cũng là thành công của nhà viết sử Ngô Sĩ Liên. Ngày nay, ông đã được tôn vinh là một trong những tướng lĩnh kiệt xuất của thế giới, là Danh nhân văn hoá thế giới.
Thu Thủy (Tổng hợp)