06/05/2018, 09:15

Phân tích bài thơ Thuật hoài của Phạm Ngũ Lão – Văn mẫu hay lớp 10

Xem nhanh nội dung Phân tích bài thơ Thuật hoài của Phạm Ngũ Lão để làm sáng tỏ hào khí đời Trần – Bài làm 1 của một học sinh giỏi Văn tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu Phạm Ngũ Lão là một danh tướng đời Trần. Tuy xuất thân từ tầng lớp bình dân song chí lớn tài cao nên ông nhanh chóng ...

Xem nhanh nội dung

Phân tích bài thơ Thuật hoài của Phạm Ngũ Lão để làm sáng tỏ hào khí đời Trần – Bài làm 1 của một học sinh giỏi Văn tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu

Phạm Ngũ Lão là một danh tướng đời Trần. Tuy xuất thân từ tầng lớp bình dân song chí lớn tài cao nên ông nhanh chóng trở thành tùy tướng số một bên cạnh Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn. Trong cuộc kháng chiến chống quân Mông – Nguyên xâm lược, Phạm Ngũ Lão cùng những tên tuổi lớn khác của triều đình đã lập nên nhiều chiến công hiển hách, góp phần quan trọng tạo nên hào khí Đông A của thời đại đó:

Ông sáng tác không nhiều nhưng Thuật hoài là một bài thơ nổi tiếng, được lưu truyền rộng rãi vì nó bày tỏ khát vọng mãnh liệt của tuổi trẻ trong xã hội phong kiến đương thời: làm trai phải trả cho xong món nợ công danh, có nghĩa là phải thực hiện đến cùng lí tưởng trung quân, ái quốc.

Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu

Tam quân tì hổ khí thôn ngưu

Nam nhi vị liễu công danh trái

Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu

Dịch thơ tiếng Việt:

Múa giáo non sông trải mấy thu

Ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu

Công danh nam tử còn vương nợ

Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ hầu.

Bài thơ được sáng tác trong bối cảnh đặc biệt có một không hai của lịch sử nước nhà. Triều đại nhà Trần (1226 – 14001) là một triều đại lẫy lừng với bao nhiêu chiến công vinh quang, mấy lần quét sạch quân xâm lược Mông – Nguyên hung tàn ra khỏi bờ cõi, giữ vững sơn hà xã tắc, nêu cao truyền thống bất khuất của dân tộc Việt.

Phạm Ngũ Lão sinh ra và lớn lên trong thời đại ấy nên ông sớm thấm nhuần lòng yêu nước, tinh thần tự hào, tự tôn dân tộc và nhất là lí tưởng sống của đạo Nho là trung quân, ái quốc. Ông ý thức rất rõ ràng về trách nhiệm công dân trước vận mệnh của đất nước: Quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách.

Bài thơ Thuật hoài (Tỏ lòng) được làm bằng chữ Hán, theo thể thất ngôn tứ tuyệt luật Đường, niêm luật chặt chẽ, ý tứ hàm súc, hình tượng kì vĩ, âm điệu hào hùng, sảng khoái. Hai câu thơ đầu khắc họa vẻ đẹp gân guốc, lẫm liệt, tràn đầy sức sống của những trang nam nhi – chiến binh quả cảm đang xả thân vì nước, qua đó thể hiện hào khí  Đông A ngút trời của quân đội nhà Trần thời ấy.

Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu (Dịch nghĩa: cầm ngang ngọn giáo gìn giữ non sông đã mấy thu); dịch thơ: Múa giáo non sông trải mấy thu. So với nguyên văn chữ Hán thì câu thơ dịch chưa lột tả được hết chất oai phong, kiêu hùng trong tư thế của người lính đang chiến đấu bảo vệ Tổ quốc. Hoành sóc là cầm ngang ngọn giáo, luôn ở tư thế tấn công dũng mãnh, áp đảo quân thù. Tư thế của những người chính nghĩa lồng lộng in hình trong không gian rộng lớn là giang sơn đất nước trong suốt, một thời gian dài (giang sơn kháp kỉ thu). Có thể nói đây là hình tượng chủ đạo, tượng trưng cho dân tộc Việt quật cường, không một kẻ thù nào khuất phục được. Từ hình tượng ấy, ánh hào quang của chủ nghĩa yêu nước ngời tỏa sáng.

Câu thơ thứ hai: Tam quân tì hổ khí thôn Ngưu. (Dịch nghĩa: khí thế của ba quân mạnh như hổ báo, át cả sao Ngưu trên trời). Dịch thơ: Ba quân hùng khí át sao Ngưu, đặc tả khí thế chiến đấu và chiến thắng không gì ngăn cản nổi của quân dân ta. Tam quân tì hổ là một ẩn dụ so sánh nghệ thuật nêu bật sức mạnh vô địch của quân ta. Khí thôn Ngưu là cách nói thậm xưng để tạo nên một hình tượng thơ kì vĩ mang tầm vũ trụ.

Hai câu tứ tuyệt chỉ mười bốn chữ ngắn gọn, cô đúc nhưng đã tạc vào thời gian một bức tượng đài tuyệt đẹp về người lính quả cảm trong đạo quân Sát Thát nổi tiếng đời Trần.

Là một thành viên của đạo quân anh hùng ấy, Phạm Ngũ Lão từ một chiến binh dày dạn đã trở thành một danh tướng khi tuổi còn rất trẻ. Trong con người ông luôn sôi sục khát vọng công danh của đấng nam nhi thời loạn. Mặt tích cực của khát vọng công danh áy chính là ý muốn được chiến đấu, cống hiến đời mình cho vua, cho nước. Như bao kẻ sĩ cùng thời, Phạm Ngũ Lão tôn thờ lí tưởng trung quân, ái quốc và quan niệm: Làm trai đứng ở trong trời đất, phải có danh gì với núi sông (Chí làm trai – Nguyễn Công Trứ). Bởi thế cho nên khi chưa trả hết nợ công danh thì tự lấy làm hổ thẹn:

“Nam nhi vị liễu công danh trái

Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu

(Công danh nam tử còn vương nợ

Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ hầu).

Vũ Hầu tức Khổng Minh, một quân sư tài ba của Lưu Bị thời Tam Quốc. Nhờ mưu trí cao, Khổng Minh đã lập được công lớn, nhiều phen làm cho đôi phương khốn đốn; vì thế ông rất được Lưu Bị tin yêu.

Lấy gương sáng trong lịch sừ cổ kim soi mình vào đó mà so sánh, phấn đấu vươn lên cho bằng người, đó là lòng tự ái, lòng tự trọng đáng quý cần phải có ở một đấng nam nhi. Là một tùy tướng thân cận của Hưng Đạo Đại Vương Trần Quôc Tuấn, Phạm Ngũ Lão luôn sát cánh bên cạnh chủ tướng, chấp nhận xông pha nơi làn tên mũi đạn, làm gương cho ba quân tướng sĩ, dồn hết tài năng, tâm huyết để tìm ra cách đánh thần kì nhất nhằm quét sạch quân xâm lược ra khỏi bờ cõi. Suy nghĩ của Phạm Ngũ Lão rất cụ thể và thiết thực; một ngày còn bóng quân thù là nợ công danh của tuổi trẻ với giang sơn xã tắc vẫn còn vương, chưa trả hết. Mà như vậy là phận sự với vua, với nước chưa tròn, khát vọng công danh chưa thỏa. Cách nghĩ, cách sống của Phạm Ngũ Lão rất tích cực, tiến bộ. ông muốn sống xứng đáng với thời đại anh hùng.

Hai câu thơ sau âm hưởng khác hẳn hai câu thơ trước. Cảm xúc hào sảng ban đầu dần chuyển sang trữ tình, sâu lắng, như lời mình nói với mình cho nên âm hưởng trở nên thâm trầm, da diết.

Phạm Ngũ Lão là một võ tướng tài ba nhưng lại có một trái tim nhạy cảm của một thi nhân. Thuật hoài là bài thơ trữ tình bày tỏ được hùng tâm tráng trí và hoài bão lớn lao của tuổi trẻ đương thời. Bài thơ có tác dụng giáo dục rất sâu sắc về nhân sinh quan và lối sống tích cực đối với thanh niên mọi thời đại Thuật hoài đã làm vinh danh vị tướng trẻ văn võ song toàn Phạm Ngũ Lão.

Phân tích bài thơ "Thuật hoài" (Tỏ lòng) của Phạm Ngũ Lão – Bài làm 2

Phạm Ngũ Lão (1255 – 1320), người làng Phù ủng, huyện Đường Hào, nay thuộc huyện Ân Thi, tỉnh Hưng Yên, là một danh tướng đời Trần. Tuy xuất thân từ tầng lớp bình dân song chí lớn tài cao nên ông nhanh chóng trở thành tùy tướng số một bên cạnh Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn. Phạm Ngũ Lão từng tham gia hai cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Nguyên – Mông, ông cùng những tên tuổi lớn khác của triều đình đã lập nên nhiều chiến công hiển hách, góp phần quan trọng tạo nên hào khí Đông Á của thời đại đó.

Phạm Ngũ Lão làm bài Thuật hoài vào cuối nằm 1284, khi cuộc kháng chiến lần thứ hai đã đến rất gần. Bài thơ này là một tác phẩm nổi tiếng, được lưu truyển rộng rãi vì nó bày tỏ khát vọng mãnh liệt của tuổi trẻ trong xã hội phong kiến đương thời: làm trai phải trả cho xong món nợ công danh, có nghĩa là phải thực hiện đến cùng lí tưởng trung quân, ái quốc.

Nội dung bài thơ khắc họa nổi bật vẻ đẹp của một con người có sức mạnh, có lí tưởng, nhân cách cao cả cùng khí thế hào hùng của thời đại.

Phiên âm chữ Hán:

Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu,
Tam quân tì hổ khí thôn ngưu.
Nam nhi vị liễu công danh trải,
Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu.
Dịch thơ tiếng Việt:

Múa giáo non sông trải mấy thu,
Ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu.
Công danh nam tử còn vương nợ,
Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ hâu.
(Bùi Văn Nguyên dịch)

Bài thơ được Phạm Ngũ Lão sáng tác trong bối cảnh đặc biệt có một không hai của lịch sử nước nhà. Triều đại nhà Trần (1226 – 1400) là một triều đại lẫy lừng với bao chiến công vinh quang, mấy lần quét sạch quân xâm lược Nguyên – Mông hung tàn ra khỏi bờ cõi, giữ vững sơn hà xã tắc, nêu cao truyền thống bất khuất của dân tộc Đại Việt.

Phạm Ngũ Lão sinh ra và lớn lên trong thời đại ấy nên ông sớm thấm nhuần tinh thần yêu nước, tự hào, tự tôn dân tộc và nhất là lí tưởng trung quân, ái quốc của đạo Nho. ông nhận thức rất rõ ràng về trách nhiệm công dân trước vận mệnh của đất nước: Quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách.

Bài thơ có nhan đề chữ Hán là Thuật hoài: Thuật là kể lại, là bày tỏ; hoài là nỗi lòng. Dịch thành Tỏ lòng, nghĩa là bày tỏ khát vọng, hoài bão trong lòng. Chủ thể trữ tình ở đây là vị danh tướng trẻ tuổi đang chỉ huy quân đội làm nhiệm vụ gìn giữ non sông.

Nguyên tác Thuật hoài bằng chữ Hán, theo thể thất ngôn tứ tuyệt luật Đường, niêm luật chặt chệ, ý tứ hàm súc, hình tượng kì vĩ, âm điệu hào hùng, ở hai câu thơ đầu, tác giả bày tộ niềm tự hào to lớn về quân đội của triều đình; trong đó có mình – một vị tướng. Nhà thơ đã khắc họa vẻ đẹp gân guốc, lẫm liệt, tràn đầy sức sống của những chiến binh quả cảm.

Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thụ. Dịch nghĩa: Cầm ngang ngọn giáo bảo vệ giang sơn đã mấy mùa thu. Dịch thơ: Múa giáo non sông trải mấy thu. So với nguyên văn chữ Hán thì câu thơ dịch chưa lột tả được hết chất oai phong, kiêu hùng trong tư thế của người lính đang chiến đấu bảo vệ Tổ quốc. Hoành sóc là cầm ngang ngọn giáo. Luôn ở tư thế tấn công dũng mãnh, áp đảo quân thù. Tư thế của những con người chính nghĩa lồng lộng trong không gian rộng lớn là giang sơn đất nước suốt một thời gian dài. Có thể nói đây là hình tượng chủ đạo, tượng trưng cho dân tộc Đại Việt quật cường, không một kẻ thù nào khuất phục được. Từ hình tượng ấy, ánh hào quang của chủ nghĩa yêu nước ngời ngời tỏa sáng.

Câu thơ thứ hai: Tam quân tì hổ khí thôn ngưu. Dịch nghĩa: Ba quân như hổ báo, khí thế hùng dũng nuốt trôi trâu. Dịch thơ: Ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu đặc tả khí thế chiến đấu và chiến thắng không gì ngăn cản nổi của quân dân ta.

Hai câu tứ tuyệt chi mười bốn chữ ngắn gọn, cô đúc nhưng đã tạc vào thời gian một bức tượng đài tuyệt đẹp về người lính quả cảm với khí thế dũng mãnh, sẵn sàng xả thân giết giặc cứu nước của đạo quân Sát Thát nổi tiếng đời Trần.

Là một thành viên trong đạo quân anh hùng ấy, Phạm Ngũ Lão từ một chiến binh dày dạn đã trở thành một danh tướng khi tuổi còn rất trẻ. Trong con người ông luôn sôi sục khát vọng công danh của đấng nam nhi thời loạn. Mặt tích cực của khát vọng công danh ấy chính là ý muốn được chiến đấu, cống hiến đời mình cho vua, cho nước. Như bao kẻ sĩ cùng thời, Phạm Ngũ Lão tôn thờ lí tưởng trung quân, ái quốc và quan niệm: Làm trai đứng ở trong trời đất, Phải có danh gì với núi sông (Chí làm trai – Nguyễn Công Trứ). Bởi thế cho nên khi chưa trả hết nợ công danh thì bản thân tự lấy làm hổ thẹn:

Nam nhi vị liễu công danh trái,
Tu thính nhân gian thuyết Vũ hẩu.
(Công danh nam tử còn vương nợ,
Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ hầu.)

Câu thứ ba, thứ tư nói lên khát vọng của Phạm Ngũ Lão là tận tâm phụng sự triều đại nhà Trần cho đến hết đời, lập được công danh sánh ngang với Gia Cát Lượng. Gia Cát Lượng (Khổng Minh) là quân sư số một của LƯU Bị, có mưu trí tuyệt vời. Song điểm làm cho Gia Cát Lượng nổi tiếng lại là lòng tuyệt đối trung thành với chủ. Ông đã từng phát biểu quan điểm của mình là : Cúi mình tận tụy, đến chết mới thôi. Trở lại câu thơ thứ nhất, ta thấy Phạm Ngũ Lão mới phụng sự được có mấy thu (tức là mấy năm), muốn được như Gia Cát Lượng thì ông còn phải phụng sự nhiều lắm, lâu lắm! Câu thơ thứ tư: Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ hầu thực chất là một lời thề suốt đời trung thành với chủ tướng Trần Hưng Đạo của Phạm Ngũ Lão.

Hai câu thơ sau âm hưởng khác hẳn hai câu thơ trước. Cảm xúc hào sảng ban đầu dần chuyển sang trữ tình, sâu lắng, như lời mình nói với mình.

Như thế ta có thể hiểu vì sao mà Phạm Ngũ Lão lại dùng từ thẹn. Cũng có thể đây là cách nói thể hiện khát vọng, hoài bão của ông là muốn noi gương thần tượng của mình, muốn sánh VỚI Vũ hầu.

Lấy gương sáng trong lịch sử cổ kim rồi soi mình vào đó mà so sánh, phấn đấu vươn lên cho bằng người, đó là tòng tự ái, tự trọng đáng quý cẩn phải có ở một đấng trượng phu. Là một tùy tướng thân cận của Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn, Phạm Ngụ Lão luôn sát cánh bên cạnh chủ tướng, chấp nhận xông pha nơi làn tên mũi đạn, làm gương cho ba quân tướng sĩ. Ông đã dồn hết tài năng, tâm huyết để tìm ra những cách đánh thần kì nhất nhằm quét sạch quân xâm lược ra khỏi bờ CÕI.

Phạm Ngũ Lão suy nghĩ rất cụ thể và thiết thực: một ngày còn bóng quân thù là nợ công danh của tuổi trẻ với giang sơn xã tắc vẫn còn vương, chưa trả hết. Mà như vậy tức là phận sự với vua, với nước chưa tròn, khát vọng công danh chưa thỏa. Cách nghĩ, cách sống của Phạm Ngũ Lão rất tích cực, tiến bộ. Ông muốn sống cho xứng đáng với thời đại anh hùng, dân tộc anh hùng.

Phạm Ngũ Lão là một võ tướng tài ba nhưng lại có trái tim vô cùng nhạy cảm của một thi nhân. Thuật hoài là bài thơ trữ tình bày tỏ được hùng tâm tráng khí và hoài bão lớn lao của tuổi trẻ đương thời. Bài thơ có tác dụng giáo dục sâu sắc về nhân sinh quan và lối sống tích cực đối với thanh niên mọi thời đại. Thuật hoài đã vinh danh vị tướng trẻ văn võ song toàn Phạm Ngũ Lão đến muôn đời sau.

Phân tích bài thơ tỏ lòng của Phạm Ngũ Lão – Bài làm 3

Tỏ lòng la những tâm sự của một vị tướng trung quân ái quốc, ông đã lập được rất nhiều chiến công trên chiến trường. Không những thế ông có những quan điểm sống vô cùng tích cực về công danh của chí làm trai. Có lẽ nói đến đây thì chúng ta đã biết đó là ai. Đúng vậy đó chính là Phạm Ngũ Lão. Đối với ông mà nói những gì ông làm, những chiến thắng mà ông đạt được không to chút nào. Bài thơ tỏ lòng hay chính tiếng lòng của nhà thơ và phải nói rằng chính bài thơ đã làm cho người ta gọi ông thêm một chức danh nữa đó chính là nhà thơ.

Bài thơ tỏ lòng thể hiện rõ hào khí Đông A. Tất cả những dáng vóc con người cho đến hào khí mạnh mẽ đều thể hiện sức mạnh của con người cũng như quân đội nhà Trần. Bài thơ chỉ có bốn câu thơ thôi nhưng vừa thể hiện được sức mạnh của quân đội nhà Trần, những ý chí của con người nhà Trần vừa thể hiện được những tâm sự từ tận sau đáy lòng Phạm ngũ Lão.

Hai câu thơ đầu mang đến cho ta những vẻ đẹp của con người nhà Trần từ vẻ đẹp của con người cá thể đến vẻ đẹp của tập thể quân đội. Qua đó ta thêm tự hào về những sức mạnh ý chí của quân đội ta:

“Hoành sóc giang sơn cáp kỷ thu,
Tam quân tỳ hổ khí thôn Ngưu. ”
(Múa giáo non sông trải mấy thu
Ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu)

Hai câu thơ như vẽ lên những hình ảnh của những người anh hùng đầu đội trời chân đạp đất không những hiên ngang mà còn bất khuất kiên cường. Trước tiên thì đó là vẻ đẹp của người anh hùng với cây giáo trong tay mình. Nhà thơ là một vị tướng quân vì thế cho nên qua câu thơ ta cảm nhận được cái người cầm giáo non sông kia chính là ám chỉ chính ông. Đối với Phạm Ngũ Lão mà nói thì cuộc sống của ông là phải cầm giáo để chấn an những quân xâm lược những kẻ bạo tàn giúp cho đất nước được yên ồn, nhân dân được thái bình. Hai chữ “hoành sóc” như thể hiện sự hiên ngang ấy, thế nhưng ở bản dịch lại làm giảm đi ý nghĩa của hai chữ hoành sóc ấy. Múa giáo không thể nào lột tả được hết cái dũng mãnh của hai chữ “hoành sóc”. Không những thế thì cầm ngang ngọn giáo thể hiện sự trấn an quốc gia sông núi hơn là múa giáo. Không những thế mà hình ảnh người anh hùng hiên ngang ấy lại còn cầm ngọn giáo ấy trong tay trải qua biết bao nhiêu thời gian để đánh giặc. Ngọn giáo ấy được đo bằng không gian non sông đất nước và chiều dài của lịch sử. Hình như giáo cũng có không gian sinh thành và có tuổi đời như chúng ta vậy.

Đến câu thơ thứ hai trong hai câu thơ đầu thì chúng ta lại thấy được một khí thế hào hùng như hổ báo át hết tất cả những gì cản trên đường họ:

“Tam quân tì hổ khí thôn ngưu”

Có thể hiểu là khí thế quân đội nhà trần lấn át cả ao Ngưu trên trời và cũng có thể hiểu là có thể nuốt trôi một con trâu. Khí phách ấy giống như một con hổ lớn có thể nuốt hết tất cả những tên giặc kia nếu chúng không chịu rút quân về nước. Binh tốt không những phải giỏi mà còn phải có một tinh thần tốt thì mới chiến thắng được. Cách hiểu thứ hai là khí chí của quân đội nhà trần khiến át đi cả sao Ngưu Vương. Dù hiểu theo cách nào đi nữa thì chúng ta đều biết được khí phách của quân đội nhà Trân là rất lớn.

Nếu như hai câu thơ đầu nhà thơ nói đến vẻ đẹp của quân đội nhà Trần tỏ rõ hào khí Đông A thì đến hai câu thơ sau nhà thơ thể hiện nỗi lòng của mình:

“Nam nhi vị liễu công danh trái,
Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu. ”
(Công danh nam tử còn vương nợ
Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu).

Nói chung câu thơ kia là quan niệm về chí làm trai của nhà thơ trong cuộc sống này. Có thể nói chí làm trai ấy là một quan niệm chung cho tất cả những người anh hùng thời ấy. Nguyễn Công Trứ cũng từng nói:

“Đã có tiếng ở trong trời đất
Phải có danh gì với núi sông”

Đối với nhà thơ mà nói những gì ông làm cho đất nước chưa thấm thoát gì vì thế cho nên công danh nam tử còn đang vương nợ. Đó là cái nợ cho đất nước, là cái nợ với vua. Thế nên khi nghe thuyết kể về Vũ Hầu một người quân thần tài giỏi thì tác giả hãy còn e thẹn. Ta như khâm phục trước những phấn đấu của ông trong cuộc đời. Đối với chúng ta ông đã là người có tài lắm rồi nhưng đối với ông thì như thế vẫn là chưa đủ. Cuộc đời nam tử với ông phải làm được nhiều hơn thế mới xứng đáng là nam tử.

Qua đây ta thấy được tấm lòng trung quân ái quốc cùng vẻ đẹp hiên ngang mà nhà thơ thể hiện trong bài Thuật Hoài này. Hào khí Đông A như được thể hiện rõ hơn, đó là hào khí của một thời oanh liệt. Đồng thời Phạm Ngũ lão đã xây dựng được một hình ảnh những con người nhà trần khỏe mạnh hết lòng vì tổ quốc vì nhân dân.

Phân tích bài thơ “Tỏ lòng” (Thuật Hoài) của Phạm Ngũ Lão – Bài làm 4

Đã từng một thời, văn học Việt Nam được biết tới như những con thuyền chở đầy ý chí và khát vọng cao đẹp của người đương thời, đó là những áng thi ca trung đại đầy hào sảng, hùng tráng. Bởi vậy chăng mà cứ mỗi lần từng tiếng thơ “Thuật hoài” (Phạm Ngũ Lão) vang lên, hiện lên trước mắt ta luôn là hình ảnh người tráng sĩ thời đại Lý – Trần với hùng tâm tráng chí sôi nổi, như những bức tượng đài đẹp nhất đại diện cho cả một thời đại đầy rực rỡ của phong kiến Việt Nam: thời đại Đông A.

Là một vị tướng tài ba từng gắn bó sâu sắc với triều đại nhà Trần, Phạm Ngũ Lão hiểu rõ hơn ai hết tấm lòng thiết tha với non sông và khao khát giữ vững độc lập chủ quyền nước nhà của tướng quân và nhân dân. Trong hoàn cảnh cả dân tộc đang dốc sức thực hiện kháng chiến chống Mông – Nguyên làn hai, cần có một liều thuốc tinh thần tiếp thêm sức mạnh để quân dân từng ngày cố gắng hơn nữa trong sự nghiệp bảo vệ đất nước; “Thuật hoài” ra đời cũng vì lẽ đó. Đặt trong một hoàn cảnh đặc biệt, được viết dưới ngòi bút của con người có tầm vóc lớn lao, bài thơ dù chỉ là một trong hai tác phẩm của Phạm Ngũ Lão còn lưu lại, song cũng đủ để ghi danh tác giả cho tới tận muôn đời.

Hai câu thơ đầu là những nét phác họa đầu tiên về chân dung người tráng sĩ Đông A:

Hoàng sóc giang sơn kháp kỉ thu
Tam quân tì hổ khí thôn ngưu
(Múa giáo non sông trải mấy thu
Ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu)

Bằng lối vào đề trực tiếp, trong câu thơ đầu tiên, tác giả đã dựng lên hình ảnh người tráng sĩ thời Trần mang vẻ đẹp của con người thời đại: cầm ngang ngọn giáo trấn giữ non sông. Chỉ qua một hành động “hoành sóc”, người tráng sĩ hiện lên với tư thế đầy oai hùng và kiên cường, ngay thẳng, vững vàng. Sừng sững như một bức tượng đài đầy hiên ngang giữa không gian rộng lớn của “ giang sơn” và dòng thời gian dài trôi chảy “ kháp kỉ thu”, người ấy mang vẻ đẹp của những đấng anh hùng từng trải, với kinh nghiệm già dặn đã được tôi luyện mỗi ngày. Vận mệnh và sự bình yên của đất nước đang được đặt trên đầu ngọn giáo kia, đó là trọng trách lớn lao đặt lên vai người tráng sĩ, nhưng cũng chính ngọn giáo ấy là điểm tựa vững vàng che chắn cho cả dân tộc tồn tại. Câu thơ tỉnh lược chủ ngữ ngắn gọn mang ngụ ý của tác giả: đó không chỉ là một hình ảnh duy nhất của một con người duy nhất, mà là tầm vóc hào sảng của cả biết bao con người thời đại, là không khí sôi sục của đất trời Đông A.

Chưa một thời đại nào trong lịch sử dân tộc, tầm vóc của con người lại trở nên lớn lao đến vậy, với khí thế hùng tráng: “Tam quân tì hổ khí thôn ngưu”. Cách nói ẩn dụ ước lệ quen thuộc trong thi pháp thơ ca trung đại với phép phóng đại “tam quân tì hổ’ cho người đọc ấn tượng mạnh mẽ về đội quân “sát thát” của nhà Trần, với khí thế dũng mãnh, kiên cường. Cụm từ’ khí thôn ngưu”, có thể hiểu là khí thế của đội quân ra trận với sức mạnh phi thường đến mức có thể “nuốt trôi trâu”, cũng có thể hiểu khí thế ấy sôi sục tới độ at cả sao ngưu, sao mai. Trong cách nói cường điệu, ta thấy được tình cảm tự hào của nhà thơ khi đã nâng tầm vóc của quân dân nhà Trần có thể sáng ngang với thiên nhiên, vũ trụ bao la. Đó là niềm tự hào của một con người được sinh ra trong một đất nước, một thời đại hùng mạnh, đầy phấn chấn, tự tin, luôn khao khát vươn lên, giữ vững chủ quyền cho nước nhà.Từ hình ảnh người tráng sĩ hiên ngang tới tầm vóc lớn lao của ba quân thời đại, rõ ràng, vẻ đẹp người tráng sĩ ấy là kết tinh của vẻ đẹp dân tộc, và vẻ đẹp dân tộc càng tôn vinh thêm vẻ đẹp hùng sảng của những tráng sĩ thời Trần. Hai câu thơ đầu tiên vang lên, Phạm Ngũ Lão không chỉ cho ta chiêm ngưỡng vẻ đẹp của một vị anh hùng thời đại, mà là vẻ đẹp muôn thuở của một dân tộc anh hùng.

Từ tư thế hiên ngang dũng mãnh, nhà thơ giúp người đọc đi sâu hơn để khám phá tâm thế vững vàng với hùng tâm tráng chí bên trong ngững tráng sĩ:

Nam nhi vị liễu công danh trái
Tu thính nhân gian thuyết vũ hầu

Với người quân tử trong xã hội phong kiên đương thời, chí làm trai là phẩm chất không thể thiếu. Ta từng nhớ đã đọc những câu thơ nhắc đến món nợ công danh của các đấng nam nhi:

Chí làm trai dặm nghìn da ngựa
Gieo Thái Sơn nhẹ tựa hồng mao

(Đoàn Thị Điểm)

Hay:

Nợ tang bồng trang trắng vỗ tay reo

(Nguyễn Công Trứ)

Đối với những người tráng sĩ “bình Nguyên” thuở ấy, trong hoàn cảnh đât nước đang bị lăm le xâm chiếm bởi giặc ngoại bang, “nợ công danh” mà họ phải trả, đó là làm sao để bảo vệ trọn vẹn đất nước, để có thể đem lại yên ấm cho muôn dân. Nói khác đi, hùng tâm tráng chí trong lòng người tráng sĩ chính là niềm yêu nước thiết tha sâu nặng, là tiếng nói khát khao đáng giặc cứu lây non sông. Điều đặc biệt là trong từng câu chữ của “Tỏ lòng”, tinh thần bất khuất ấy không được nêu lên một cách giáo điều, khô cứng, mà nó như được tỏa ra từ chính trái tim, thốt lên từ tâm can của một con người với khát vọng đang sôi cháy, rực lửa.

Để rồi, nợ công danh chưa trả hết, và người đời lại “luống thẹn” khi nghe chuyện Vũ Hầu xưa: “Tu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu”. Câu thơ gợi lại một câu chuyện cổ về bậc anh tài Gia Cát Lượng từng giúp hình thành thế chân vạc Tam Quốc, giúp Thục – Ngô chống Tào… Người tướng sĩ thấy hổ thẹn bởi công lao của mình vẫn chưa đáng bao nhiêu so với Tôn Tử, song đó lại là cái thẹn cao cả, là cái thẹn lớn lao, đáng trân trọng của một bậc đại trượng phu. Ngũ Lão từng là một trong những vị tướng tài ba nhất của nhà Trần, làm tới chức Điện súy thượng tướng quân, vậy còn điều gì khiến người còng hổ thẹn? Rằng, đó không chỉ là nỗi thẹn, mà là niềm khao khát vươn tới những đỉnh cao, vươn tới những tầm vóc rộng lớn hơn nữa. Có những cái thẹn khiến người ta trở nên bé nhỏ, có những cái thẹn khiến cho người ta khinh, nhưng cũng có những cái thẹn cho người ta thấy được cả một tầm vóc lớn lao và ý chí mãnh liệt; cái thẹn của người tráng sĩ thời Trần là cái thẹn như thế.

“Thuật hoài” lấy tiêu đề dựa theo một motif quen thuộc trong văn học trung đại, bên cạnh “Cảm hoài” của Đặng Dung, hay “Tự tình” của Hồ Xuân Hương,… những bài thơ bày tỏ nỗi lòng của người viết. Với “Tỏ lòng”, đây là lời tâm sự bày tỏ tâm tư, ý chí của Phạm Ngũ Lão, cũng là của những tráng sĩ thời Trần mà tâm can đều dành trọn cho dân tộc. Bài thơ được viêt theo thể thất ngôn tứ tuyệt, chỉ với một số lượng ngôn từ ít ỏi, song lại đạt được tới sự hàm súc cao độ khi đã dựng lên được những bức chân dung con người và hào khí Đông A với vẻ đẹp hào sảng, khí thế, dũng mãnh.

Cùng với “Hịch tướng sĩ” – Trần Quốc Tuấn, “Bạnh Đằng giang phú”- Trương Hán Siêu,… “Thuật hoài” mãi là khúc tráng ca hào hùng ngợi ca vẻ đẹp con người và thời đại, và sẽ tồn tại mãi cùng với dòng trôi chảy của thời gian…

Thu Thủy (Tổng hợp)

0