25/05/2018, 12:25

Phân lớp Cá mang tấm

(danh pháp khoa học: Elasmobranchii) là một phân lớp của cá sụn (Chondrichthyes) bao gồm nhiều loại cá có tên gọi chung là cá đuối, cá đao và cá mập. Răng cá mập hóa thạch được biết đến từ thời kỳ Tiền ...

(danh pháp khoa học: Elasmobranchii) là một phân lớp của cá sụn (Chondrichthyes) bao gồm nhiều loại cá có tên gọi chung là cá đuối, cá đao và cá mập.

Răng cá mập hóa thạch được biết đến từ thời kỳ Tiền Devon, khoảng 400 triệu năm trước. Trong kỷ Than đá tiếp theo, cá mập đã trải qua một thời kỳ đa dạng hóa, với nhiều dạng khác đã tiến hóa. Nhièu loài trong số này đã bị tuyệt chủng trong kỷ Permi, nhưng các dạng cá mập còn sống sót đã lại trải qua một giai đoạn bùng nổ thứ hai trong sự phân tỏa thích nghi trong kỷ Jura, và trong khoảng thời gian này thì các loài cá đuối đã lần đầu tiên xuất hiện. Nhiều bộ còn sinh tồn của Elasmobranchii có niên đại tới tận kỷ Creta hoặc sớm hơn

Elasmobranchii là một trong hai phân lớp chứa các loài cá sụn thuộc lớp Chondrichthyes, phân lớp còn lại là Holocephali (cá toàn đầu hay cá mập ma). Để có các điểm phân biệt giữa Elasmobranchii và Holocephali, xem các bài này. Phân loại này bao gồm cả cá mập trắng lớn và cá mập răng lớn (Carcharodon megalodon) đã tuyệt chủng.

Các thành viên của phân lớp Elasmobranchii không có bong bóng, với từ 5 tới 7 cặp mang mở độc lập ra phía ngoài, các vây lưng cứng và vảy nhỏ. Răng mọc thành nhiều hàng; hàm trên không hợp nhất với hộp sọ, còn hàm dưới có khớp với hàm trên. Mắt có tapetum lucidum. Rìa bên trong của mỗi vây chậu ở cá đực có đường xoi để tạo thành mấu bám nhằm vận chuyển tinh trùng khi giao cấu. Chúng phân bổ rộng khắp các vùng nước nhiệt đới và ôn đới

0