Cách nay vài năm, một số tác phẩm thơ của Phạm Huy Thông đã được sưu tập và xuất bản (Phạm Huy Thông:
Thơ, H.: Nxb. Lao động & Trung tâm VH-NN Đông Tây, 2011, 256 trang 13x22 cm) nhưng trong đó không có kịch thơ
Lòng hối hận. Điều đáng ngạc nhiên hơn, cả những người sưu tầm (Trương Tuyết Minh, Kiều Mai Sơn) lẫn các nhà nghiên cứu có bài in trong sưu tập ấy (như Vũ Khiêu, Hà Minh Đức, Phương Lựu) đều nhất trí (?!) cho rằng kịch thơ
Lòng hối hận đã thất lạc!?
Nói kịch thơ
Lòng hối hận đã thất lạc là không đúng. Tôi hiện biết một phần tác phẩm ấy. Nó được in trên
Hà Nội báo năm 1936. Những soạn giả của sưu tập kể trên cho biết cũng đã tìm các tác phẩm Huy Thông ở tuần báo kể trên, vậy sao lại không thấy các kỳ đăng
Lòng hối hận?
Nên biết, có một phần khá lớn tác phẩm thơ của Huy Thông đăng trên
Hà Nội báo:
Tiếng địch sông Ô (s. 2),
Anh Nga (s. 4),
Chàng Lưu (s. 6),
Tần Hồng Châu (s. 9),
Kinh Kha (s. 10),
Lòng hối hận (s. 11, 12, 14, 16). Các tập thơ mỏng của Huy Thông như
Tiếng địch sông Ô (in 1936),
Tần Ngọc (in 1937) đều do nhà Lê Cường in, vì chủ nhà in này chính là chủ nhiệm
Hà Nội báo. Nhà giáo Nguyễn Hoành Khung cho tôi biết: chính tác giả Huy Thông, những năm cuối đời, khi tính tới sưu tập tác phẩm của mình, đã đi tìm trước tiên các số
Hà Nội báo.
Nếu như các tác phẩm khác đều được
Hà Nội báo đăng trọn vẹn, riêng
Lòng hối hận dù đã qua 4 kỳ báo, vẫn chưa xong hồi thứ nhất. Sau đó, tính đến khi
Hà Nội báo bị đóng cửa (sau số 55, ngày 20/1/1937), không thấy tác phẩm này được đăng tiếp.
Đây là một vở kịch thơ, cũng có thể gọi là kịch thơ đề tài lịch sử; tác giả ghi rõ không gian vở kịch là “Hoa Lư thành, từ năm Tân Tỵ 981 đến năm Quý Tỵ 993”. Hồi thứ nhất có nhan đề “Chiếc ngai vàng”. Cũng chính tác giả hoặc toà soạn đã có lần tóm tắt các cảnh đầu của hồi này như sau:
“Nhà Tống sai binh sang đánh nước Cồ Việt. Nhiếp chính nước Cồ Việt là Lê Hoàn nhận thấy đó là một dịp cướp ngôi ấu chúa nước Đinh Toàn. Tuy đương đêm, Hoàn sai vời các đại thần và sai báo tin chinh chiến cho dân hay. Rồi tỏ ý muốn cho cùng Thái Hậu tường”.
Diễn biến 4 cảnh đầu của hồi thứ nhất là như thế.
Quan Nhiếp chính Lê Hoàn vừa cùng đoàn binh tuần tiễu vùng kinh sư Tràng An trở về thành thì được tin cấp báo từ hai ngả thuỷ bộ. Một viên tuỳ tướng từ mạn Hải An phóng ngựa về báo tin dân chài vùng đó đã thấy đoàn chiến thuyền quân Tống từ ngoài khơi đang áp vào Vân Đồn; cùng lúc, một tuỳ tướng khác từ Nam Quan phi ngựa về báo tin lục quân Tống đã tràn qua biên giới, đang giao chiến với quân ta, quân địch đông và mạnh, quân ta đang núng thế… Lê Hoàn cho hai tướng trở lại truyền lệnh cho các viên chỉ huy, hãy vờ thua, tạm rút: quân thuỷ rút về đóng Vạn Kiếp, quân bộ rút về mai phục Chi Lăng. Tuy đêm sắp xuống, Lê Hoàn cũng sai báo tin quân địch cho dân hay, và sai mời Dương Thái hậu và các đại thần vào triều.
Hai đoạn được tác giả Huy Thông dựng cận cảnh, là Lê Hoàn mình với mình, và Lê Hoàn đối thoại với Dương thái hậu.
Đặt Lê Hoàn đối diện với chính mình, Huy Thông để nhân vật đắm vào những suy tư về thử thách lớn về vận mệnh quốc gia, lại cũng coi đó là cơ hội lớn của kẻ trượng phu:
Ta cảm thấy giờ xưa ta kỳ vọng,
Giờ mà … lòng ơi! Ta mong đợi bấy chầy,
Đang vội vàng rảo bước lại gần đây!
Kỳ vọng của Lê Hoàn chính là “bước lên ngôi cửu ngũ”, làm hoàng đế nước Đại Cồ Việt. Thế nhưng, lập tức, ông nghĩ ngay đến những phản ứng sẽ xảy đến: ông sẽ bị coi là “dám tranh giang sơn cùng chủ cũ”, sẽ bị dân chúng thoá mạ, sẽ bị hàng trăm tay gươm anh kiệt khắp nước nổi lên chống lại, sẽ bị hậu thế chê cười…
Nhà thơ Huy Thông mô tả một Lê Hoàn, khi ấy, “tay run run chẳng dám lỗi cương thường”, nhưng, mặt khác “lòng kiêu hãnh biết bao giờ nguôi sóng hận?”
Cái “hận” ở Lê Hoàn, lúc mình đối diện với mình ấy, theo Huy Thông, là mối hận chỉ có ở những tay trượng phu, anh hùng cái thế:
Vì bao người dưới gầm giời vô tận,
Há Thiên công không riêng thưởng khách anh hào?
Mà làm sao,
Tóc sắp hoa râm vì nắng sương rầu rãi,
Ta vẫn phải cúi đầu làm tôi mãi?
Hoàng thiên! Hoàng thiên khe khắt hỡi!
Vì cớ chi ngươi phô mãi khoé đa đoan?
Vì cớ chi ngươi chẳng muốn cho Lê Hoàn
Trường đọ sức sớm ganh đua hơn chút đỉnh?
Đưa hồi ức của nhân vật trở lại thời giúp Đinh Bộ Lĩnh, Huy Thông để cho trong óc Lê Hoàn nổi lên ý nghĩ ngầm tiếc đã không làm hết những gì có thể làm ở thời loạn đả giữa các sứ quân, khi mà những Lý Khuê, Công Hãn, Nguyễn Khoan “đều vong thân dưới lưỡi kiếm Lê Hoàn”! Tất cả là do đã từng bỏ lỡ thời cơ!
Nhưng ta chót, than ôi!
Liếc gươm xanh ra tỉ thí với đời
Vào ngay lúc bể cuồng vừa lặng gió…
Bằng không,
Nghề cung đao ai đọ sức Lê công?
Hận! Ôi hận!
Trong sáng tạo kịch thơ, các tác giả Việt Nam, trong số đó có Huy Thông, nhận ra, chính yếu tố thơ ‒ giống như yếu tố ca hát trong các loại kịch hát ‒ đã giúp tác giả làm chậm hành động kịch, và làm đậm nhân vật bằng những đoạn tự bộc bạch những dằng xé trong nội tâm.
Lê Hoàn tự bảo mình hãy nén kiêu hãnh để phò ấu chúa nhà Đinh, để mai sau ngàn đời vẫn được “tiếng tôi trung”!
Thế nhưng:
Nhưng, ôi mơ!
Nhưng mộng lòng năm cũ của ta ơi
Ta nỡ nào … ta đâu thể nhãng quên ngươi!
Ta đâu thể dấu sâu niềm ham muốn
Dưới sóng lòng trên cuốn bão kiêu căng?
Lê Hoàn bắt đầu ngờ vực luận điệu không rửa nổi cái “tiếng” phản thần, nếu mắc phải.
Mà…
Mà, lên ngôi… ta mắc tiếng phản thần chăng?
Nhưng giáo Tống biên thuỳ đua chiếm ải!
Nhưng thuyền Tống tung hoành xâm duyên hải!
Nhưng khắp nước, bàn dân đương kinh hãi,
Như gà con ngẩng cổ
Thấy từng cao bỗng vỗ cánh chim diều!
Ta sẽ khiến Đại Cồ quên lao khổ,
Quên bao năm bại trận sống tiêu điều…
Ở chỗ này, cảm hứng hào kiệt trào lên trong nhân vật đã khiến cảm hứng lãng mạn ở nhà thơ trẻ được dịp vút cao lên, không cần biết rằng đây chính là ước mơ về vị thế một đế quân, kẻ đứng đầu một đế quốc – đương thời Lê Hoàn, điều này là dễ hiểu:
Ta sẽ đưa binh Nam đi vùng vẫy
Khắp bốn phương – giời nước mịt mùng tăm!
Ôi! Bầu mênh mông chuyển động tiếng loa gầm,
Tiếng gươm ca, tiếng trống hồi, ngựa hí…
Đoàn tinh binh như sóng loé tung tràn,
Khắp non sông theo chóp mũ Lê Hoàn!
Hai mươi vua sẽ rạp mình thi lễ
Trước võng rồng Nam phương Lê Hoàng đế!
……….
Tiếng cờ ta chỉ lung lay trước gió
Cũng đủ khiến cho rung ngai muôn thái tổ!
Ta sẽ xâm Nam Chiếu, đoạt châu Ung,
Vui vó câu sẽ dẫn tướng binh hùng
Mãi cho tới nơi mơ màng sương tuyết cản!
Cho trần giời vô hạn
Suốt đông đoài vang rúc ngọn còi Lê,
Ta sẽ ném binh đi chiếm cứ khắp năm bề!
Binh Nam quốc như hải triều kiêu hãnh,
Sẽ cuốn theo… cùng cát phủ, cùng mây nhanh, cùng gió mạnh,
Động man di rải rác núi non Hời!
Rồi, bóng khiên rợp mát bốn phương giời,
Như thác nước cao văng thân vĩ đại,
Quân xông xáo tới bên bờ Thiên Trúc hải…
Và, co cương trên mảnh đất cuối cùng nhô,
Đắm say nhìn biển vỗ tới hư vô!
……
Trong suy tính của Lê Hoàn, quyết lên ngôi, nắm quyền thống lĩnh quốc gia trong trận chiến vệ quốc sắp tới – là giải pháp cho mọi giải pháp, kể cả những nguyền rủa hay chống đối:
Ta sẽ lấy tiếng reo cờ muôn trấn,
Ta sẽ lấy chiến ca cùng trống trận,
Làm im lời chỉ trích,
Lời thương vay Đinh Quốc sớm điêu tàn,
Ta sẽ khiến cho bao nhiêu cừu địch,
Thề bóng dương nhất quyết thí Lê Hoàn,
Vì chói mắt, phải nghiêng đầu, quên nghiến…
Rồi phấn khởi vì hào quang vinh hiển,
Bỗng cao hô lời vạn tuế dưới cờ Lê!
Đó cũng là kết thúc mạch suy tư mà tác giả Huy Thông đặt vào nhân vật Lê Hoàn. Với những toan tính như thế, Lê Hoàn quyết định sẽ nói cho Dương Thái hậu biết: cuối buổi hội triều tối nay, Hoàn sẽ lên ngôi đế, và sẽ đưa Thái hậu trở lại ngôi hoàng hậu!
Viết về các nhân vật và sự kiện lịch sử, nhà thơ Huy Thông đã tận dụng các dữ kiện được ghi trong chính sử, theo đó, Dương thị nguyên là vợ Đinh Bộ Lĩnh, là mẹ của Phế Đế Đinh Toàn nên được lập làm Hoàng Thái hậu khi Toàn lên ngôi (thậm chí Huy Thông còn tin cả vào thuyết, theo đó Dương thị đây từng là một trong các hoàng hậu của Ngô Quyền, là mẹ Ngô Nhật Khánh, – cái thuyết mà nhiều sử gia cho là một lầm lẫn!). Lúc các tướng sĩ tôn Lê Hoàn lên ngôi Thiên tử, Hoàng Thái hậu bèn sai lấy áo long cổn khoác lên mình Hoàn, mời lên ngôi Hoàng đế. Lê Hoàn đưa Dương thái hậu vào cung, năm sau lập làm một trong số 5 hoàng hậu của mình.
Dữ liệu trong chính sử là thế.
Còn nhà thơ Huy Thông thì thêm vào đó chút tình yêu vốn là gia vị đậm đà của thời đại mình! Huy Thông tin rằng phải có tình yêu từ trước thời điểm đó giữa Hoàn và Dương thị. Tình yêu ấy nảy nở từ bao giờ? Theo Huy Thông, từ khi Đinh Toàn 6 tuổi được lập lên nối ngôi Đinh Tiên Hoàng, có Thập đạo tướng quân Lê Hoàn làm nhiếp chính, còn Dương thị được lập làm Hoàng Thái hậu.
Huy Thông tin rằng, chính tình yêu ấy đã khiến Dương hậu hỗ trợ mạnh mẽ Lê Hoàn trong việc trấn áp những cuộc khởi loạn Đinh Điền, Nguyễn Bặc, Ngô Nhật Khánh…, bởi đó cũng là giúp giữ ngôi cho ấu đế Đinh Toàn.
Trên sân khấu của kịch thơ, khi giáp mặt nhau, điều đầu tiên Lê Hoàn hỏi Dương hậu là liệu tình yêu ở nàng có còn tha thiết, nồng say? Dương hậu bối rối trước lời hoa nguyệt tỏ bày không đúng phép ở chốn tôn nghiêm, nhưng cũng băn khoăn vì lời hỏi bức bách. Đến khi biết ý định lên ngôi đế của Lê Hoàn, điều đầu tiên Dương hậu nghĩ tới là lo cho số phận đứa con nhỏ Đinh Toàn. Lê Hoàn nói cho nàng an tâm là sẽ bảo bọc Phế Đế. Nhưng Dương hậu khăng khăng khuyên Hoàn.
Kiếm chinh phu tuy chẳng nỡ thí Đinh Toàn,
Ta vẫn tưởng … Tướng công chưa trọn đạo!
…………………
Không! không!
Xin tướng công đừng lỗi đạo quân thần!
Vì mỗi bước ta đi, còn giời đất,
Còn quỷ thần …
Đến đây, kịch sĩ Huy Thông tạo ra một nút thắt, có lẽ để “treo” tình thế lên, chuẩn bị kết thúc hồi thứ nhất của vở kịch. Ấy là Lê Hoàn, sau khi nghe và biết, tình yêu ở Dương hậu đã “phai như nắng héo dưới sương chiều”, thì ở Hoàn, ý muốn lên ngôi cũng vụt tắt.
Mái hoàng thành nay tan hương mơ mộng,
Ánh vinh hoa còn ước vọng nữa mà chi?
Ái Khanh ơi!
Dù lên ngôi ta dám chắc vững âu vàng,
Cũng vì nàng,
Ta sẽ buông, từ đây, mơ ước cũ!
Nhưng tình tan,
Và giấc mộng đế vương tàn…
Ta lòng nào còn cuốn thân trong giáp trụ,
Chỉ huy binh nơi tên bão, kích thương loà!
Lê Hoàn bảo Dương hậu: chốc nữa, trước triều thần và muôn dân, Hoàn sẽ cởi trả triều phục, lên võng đay trở về làng sống nốt những tháng năm còn lại…
Và đến đó cũng chấm hết phần văn bản vở kịch thơ đã đăng trên
Hà Nội báo. Ta chưa biết các hành động tiếp theo sẽ diễn biến ra sao.
Có lẽ tác phẩm này đã được tác giả Huy Thông hoàn thành, nhưng ngoài những phần đã đăng kể trên, rất khó có khả năng tìm lại được các phần khác.
Thời kỳ viết và đưa đăng kịch thơ này trên
Hà Nội báo, Huy Thông đang học luật tại Đại học Đông Dương ở Hà Nội. Năm 1937 ông đỗ Cử nhân luật, ngay sau đó sang Pháp du học rồi sống và làm việc ở Pháp; hoạt động chính trị, 1952 bị bắt và trục xuất về giam giữ tại Sài Gòn, 1955 bị đưa ra quản thúc tại Hải Phòng; 1956 được giải thoát về Hà Nội. Do sự di chuyển như trên, có thể đoán rằng hầu hết những bản thảo các sáng tác những năm 1930s ở Hà Nội của tác giả đã bị mất.
Như đã nói trên, thời gian diễn ra vở kịch thơ
Lòng hối hận này được ước định là từ năm Tân Tỵ (981) đến năm Quý Tỵ (993).
Năm Tân Tỵ (981) là năm Lê Hoàn lên ngôi, chỉ huy quân dân đánh bại cả cánh quân thuỷ của địch ở cửa Bạch Đằng lẫn cánh quân bộ của chúng ở Chi Lăng, khiến nhà Tống phải lui binh và lập lại hoà hiếu giữa hai nước.
Còn năm Quý Tỵ (993)? Sách
Đại Việt sử ký toàn thư ở năm này chỉ ghi hai việc: 1/ vua phong vương cho ba hoàng tử và phái đi đóng giữ các miền trong nước; và 2/ nhà Tống sai sứ thần đem sách thư sang phong vua làm Giao Chỉ Quận Vương.
Tác giả Huy Thông chọn mô tả sự kiện nào trong hồi kết kịch thơ
Lòng hối hận?
Người ta có thể nghĩ đến sự kiện thứ hai trong chính sử. Song, đối với một giác quan nghiên cứu thận trọng hơn thì chưa thể có bất cứ lời đoan quyết nào.
Bởi vì, vở kịch chưa đăng hết của nhà thơ Huy Thông, bản thân nó vẫn là một văn bản để ngỏ.
Lại Nguyên Ân
Tạp chí Thơ, H., s. 9 /2013, tr. 54-85Lộ tòng kim dạ bạch,
Nguyệt thị cố hương minh.