Omar Khayyam và thơ Rubaiyat
Đăng bởi nguyenvanthiet vào 04/06/2007 06:45
I
Cách đây hơn 140 năm trên bầu trời văn học châu Âu có một ngôi sao lạ xuất hiện và đột ngột sáng chói. Thơ của một nhà thơ Ba Tư thời trung cổ – người mà trên quê hương mình chưa bao giờ được coi là một nhà thơ – sau hơn 700 năm đã hồi sinh bằng tiếng Anh qua bản dịch của Edward Fitzgerald (1809-1883).
Năm 1859 Fitzgerald bỏ số tiền ít ỏi của mình in 250 cuốn “The Rubaiyat of Omar Khayyam” không đề tên dịch giả với giá bán 1 si-linh. Fitzgerald để lại 40 cuốn làm qùa tặng cho bạn bè, còn 210 cuốn suốt hai năm trời không một ai nhòm ngó. Fitzgerald buồn bã viết cho giáo sư Cowell (1826-1903), người đã gợi ý và cung cấp cho ông bản “Rubaiyat” bằng tiếng Ba Tư: “Tôi cũng không hiểu được sao tôi đi in ra để làm gì…”.
Cuối cùng giá bán được hạ xuống còn 1 penny, nghĩa là 1 đồng si-linh đã có thể mua được 12 cuốn. Thế rồi vào một hôm đẹp trời cả 210 cuốn sách kia bỗng nhiên biến khỏi giá sách. Từ đó sự quan tâm đến “Rubaiyat” phát triển với tốc độ của một đám cháy bao trùm cả Châu Âu và Bắc Mỹ. Đầu thế kỷ 20, đặc biệt là thời kỳ giữa hai cuộc chiến tranh Thế giới “Thơ Rubai của Omar Khayyam” là cuốn thơ nổi tiếng nhất trong khối các nước nói tiếng Anh và cả Châu Âu.
Điều này được khẳng định bởi con số thống kê cũng như kết qủa thăm dò của các nhà xã hội học. Chỉ đến năm 1926 đã tái bản tới 139 lần, còn sau đấy thì người ta đã không còn thống kê được hết. Một nhà thư mục nói rằng: “Nếu không kể Kinh Thánh thì có lẽ “Rubaiyat” được người ta trích dẫn nhiều hơn bất kỳ một tác phẩm nào bằng tiếng Anh”1
Thơ Rubaiyat được người ta nhắc đến ở khắp nơi. Thơ Rubaiyat luôn có mặt trong ba lô người lính trên khắp nẻo đường của hai cuộc chiến tranh Thế giới. Tên của Omar Khayyam không chỉ được đặt cho các câu lạc bộ thơ ca mà còn được đặt cho các cửa hiệu, quán café.
Một nhà thơ, dịch giả chưa hề có tiếng của nước Anh đã làm hồi sinh một nhà thơ Ba Tư bị lãng quên ngay chính trên quê hương của mình. Hai con người sống cách nhau hơn 700 năm đã cùng trở thành một phần của văn hoá nhân loại. Nhạc của Bach phải đợi sự thừa nhận 100 năm, thơ của Khayyam… 750 năm. Một cuộc hội ngộ kỳ lạ!
Đầu thế kỷ 20 nhà thơ Kipling (1865-1936) viết:
Đông là Đông, Tây là Tây, Đông và Tây không bao giờ gặp gỡ
Cho đến một khi Đất và Trời chưa về ngày phán xử
Nhưng sẽ chẳng có Đông và Tây, không quê hương, bộ tộc, giống nòi
Khi hai người đàn ông lực lưỡng trên đường biên mặt đối mặt không thôi.
“Không bao giờ gặp gỡ…” là chính trị chứ văn hoá thì từ những cuộc trường chinh về phía Đông của Alexander Đại đế, rồi Thiên Chúa giáo và Kinh Thánh có nguồn gốc phương Đông, rồi con đường tơ lụa, rồi những cuộc Tây tiến của người Arập, người Mông cổ…thì Đông và Tây đã từng gặp gỡ. Còn trong thơ ca thì từ cuối thế kỷ 19 cuộc gặp gỡ giữa Omar Khayyam và Edward Fitzgerald là duyên kỳ ngộ. Gọi là kỳ ngộ vì mấy lẽ:
Thứ nhất: trường ca “The Rubaiyat of Omar Khayyam” của Fitzgerald khó có thể gọi là một bản dịch theo đúng nghĩa của từ này. Fitzgerald lấy những bài rubaiyat của Khayyam rồi xáo trộn lại, thêm đầu, thêm đuôi dựng thành một trường ca mà trong đó nhân vật và vẻ huyền bí của nó phù hợp với quan niệm của người Anh về một thế giới phương Đông Hồi giáo mà người ta đã đọc trong cuốn “Nghìn lẻ một đêm”. Theo kết qủa nghiên cứu của Heron-Allen thì trong 101 bài rubaiyat của trường ca chỉ có 49 bài là gần giống với nguyên bản, 44 bài có họ hàng chút ít, còn lại là gần với trường ca “Tiếng chim” của Attar (thế kỉ 12) và một số bài ghazal của Hafiz (1325-1389)2
Trường ca của Fitzgerald là sự kết hợp giữa dịch tự do và mô phỏng đã có ảnh hưởng đến việc dịch thơ Khayyam ra nhiều ngôn ngữ Châu Âu khác. Ơ nhiều nước Châu Âu người ta dịch Omar Khayyam không phải từ tiếng Ba Tư mà dịch từ bản của Fitzgerald.
Thứ hai: ở phương Tây Omar Khayyam nổi tiếng hơn bất kỳ một nhà thơ Ba Tư nào khác, trong khi đó thì ở Iran Khayyam chỉ được biết đến như là một nhà toán học, thiên văn học. Elwell-Sutton trong lời nói đầu cuốn sách về Omar Khayyam dịch từ tiếng Ba Tư của Ali Dashti đã viết: “ Nền thơ ca Ba Tư nổi tiếng thế giới được phương Tây biết đến trong một mức độ đáng kể là nhờ một tác giả mà theo nhận xét của nhiều nhà khoa học thì suốt đời không hề viết một câu thơ”. 3
Điều nghịch lý này càng trở nên rõ ràng hơn là chỉ sau khi đã nổi tiếng ở phương Tây Omar Khayyam mới quay trở về nổi tiếng trên quê hương mình. Chỉ khi đó tên Omar Khayyam mới được đặt bên cạnh những tên tuổi lớn của thơ ca Ba Tư: Rudaki, Firdawsi, Sadi, Hafiz…
Thứ ba: từ khi trường ca của Fitzgerald ra đời cho đến nay đã hơn 140 năm. Trước Fitzgerald đã từng có một vài người dịch rubaiyat nhưng không gây được sự chú ý nào. Sau Fitzgerald lại càng nhiều hơn nữa, cả dịch thơ lẫn văn xuôi nhưng xem ra chưa có bản dịch nào (và có lẽ không bao giờ) vượt được bản của Fitzgerald. “The Rubaiyat of Omar Khayyam” trở thành tác phẩm cổ điển của văn học Anh và thế giới nhưng nếu như đã không có “Rubaiyat” của Khayyam thì đã không có trường ca nổi tiếng của Fitzgerald và ngược lại, không có trường ca của Fitzgerald thì nhân loại đã không biết đến Omar Khayyam, tên của một nhà thơ mà sự biết đến đã trở thành biểu tượng của bất kỳ một người có văn hoá nào.
Nói về công lao của Fitzgerald, Peter de Polnay viết: “Từ những câu chuyện với những người Ba Tư có học tôi đi đến kết luận rằng Fitzgerald có công đối với sự trường tồn của “Rubaiyat” nhiều hơn là Khayyam” 4
Bằng một cách nào đấy Fitzgerald đã chuyển được cái vẻ huyền bí của Khayyam. Chúng ta cảm nhận được cái bí ẩn trong mỗi con người và có một nỗi sợ hãi đã được Khayyam nói đến một cách sâu sắc. Cái vẻ hài hước, hóm hỉnh của nhà hiền triết đã quyến rũ chúng ta. Ta sung sướng cùng với ông tận hưởng những lạc thú và chia sẻ những đau khổ của kiếp người. Ta cảm thấy ông gần gũi nhưng ta không thể nào hiểu được ông. Vậy ông là ai?
* * *
Omar Khayyam (tên đầy đủ: Ghiyath al Din Abu al-Fath Umar ibn Ibrahim al-Nisaburi al-Khayyam) sinh ngày 18-5-1048 tại thành phố Neyshabur tỉnh Khorasan Ba Tư (nay là Iran). Ngày sinh của Khayyam do nhà nghiên cứu người Ân Độ Swami Govinda Tirtha dựa vào lá số tử vi của Khayyam mà xác định ra. Không có tài liệu nào cho biết bố mẹ của Khayyam làm nghề gì nhưng tên Khayyam bằng tiếng Ba Tư có nghĩa là “người dựng lều”, nghĩa là gia đình làm nghề thủ công. Từ nhỏ Khayyam được học hành đến nơi đến chốn trong những trường tốt nhất của Khorasan thời đó. Khayyam thông thạo toán học, vật lý, thiên văn học, triết học, luật học, sử học, Koran học và niêm luật thơ ca. Ngoài ra có rất nhiều tài liệu cho thấy ông là một danh y nổi tiếng và là người có kiến thức về âm nhạc.
Ngoài tiếng Ba Tư là tiếng mẹ đẻ Khayyam còn biết nhiều ngoại ngữ. Khayyam rất thông thạo tiếng Arập và văn học Arập. Các tác phẩm về triết học hay toán học của Khayyam đều được viết bằng tiếng Arập.
Nền giáo dục thời đấy được xây dựng trên nguyên tắc học thuộc lòng. Có một truyền thuyết được kể lại cho thấy Khayyam là người có trí nhớ khác thường. Chuyện kể rằng có một lần cậu học trò Khayyam từ Neyshabur lên thủ đô Esfahan để tìm một quyển sách về thiên văn học. Đó là bản dịch tiếng Arập quyển bách khoa toàn thư về thiên văn học cổ đại của Ptolemaioi (90-160). Vì không có cách nào đem về được Khayyam đã quyết định học thuộc lòng. Nhà sử học Beihaky (thế kỷ thứ 12) đã kể lại: “Khayyam chăm chú đọc cuốn sách liên tục bảy lần rồi nhớ thuộc lòng, khi về Neyshabur đọc cho người khác chép lại và sau đấy đem so sánh thì hầu như không thấy có gì khác so với bản gốc”.
Ngoài Ptolemaioi, Khayyam còn nghiên cứu các tác phẩm của Euclide (270-? tCn), Archimedes (287-212 tCn), … Khayyam được người đời gọi là Hakim (nhà bác học), là “ông hoàng triết học Đông-Tây”. Về triết học Khayyam chịu ảnh hưởng của Heraclitos (535-475 tCn), Platon (428-347 tCn), Aristotle (384-322 tCn), Epicurus (341-270 tCn), Avicenna (Ibn-Sina)(980-1073)…
Trong các môn khoa học thì toán học là môn Khayyam say mê nhất. Năm 25 tuổi Khayyam đã có những phát minh về toán học được giới khoa học thời đó kính nể và gây sự chú ý của giới quan trường.
Năm 1074 Khayyam được mời về triều đình dưới triều vua Malik-Shah (1055-1092). Trong triều có viên quan đại thần Nizam al Mulk là người học cao biết rộng đã đánh giá cao và tạo cho Khayyam những điều kiện làm việc tốt nhất.
Một lần Nizam al Mulk (1018-1092) đề nghị Khayyam cai quản thành phố Neyshabur và những vùng lân cận thì nhà bác học trả lời: “Tôi không thích cai trị người khác, ra lệnh cho một người này, cấm đoán một người kia mà chỉ muốn đem trí tuệ của mình cống hiến cho khoa học nhằm mang lại lợi ích cho mọi người”. Quãng thời gian 18 năm ( từ 1074 đến 1092 – trước khi vua Malik- Shah bị giết hại) là quãng thời gian hạnh phúc nhất trong cuộc đời Khayyam. Trong thời gian này Khayyam được giao lãnh đạo đài thiên văn và được giao nhiệm vụ lập ra lịch mới. Lịch do Khayyam lập ra có độ chính xác cao hơn lịch Gregorian ở châu Âu thế kỷ 16 chỉ tiếc rằng nó đã không được áp dụng. Nhiều công trình toán học của Khayyam sau này đã bị thất lạc. Những gì còn lại, theo đánh giá của các nhà khoa học thời nay, trong phương pháp của Khayyam có cốt lõi của công thức mà sau này nổi tiếng với tên gọi “Nhị thức Newton”. Như vậy về toán học cũng như lịch Khayyam đã đi trước người châu Âu ít nhất là 500 năm.
Ngoài toán học, thiên văn học Khayyam còn 5 tác phẩm triết học được lưu lại đến ngày nay. Các tác phẩm triết học của Khayyam không được xây dựng thành một hệ thống hoàn chỉnh mà chủ yếu được viết theo đơn đặt hàng. Theo đánh giá của các nhà chuyên môn thì các tác phẩm triết học của Khayyam được viết bằng một lối hành văn chặt chẽ với sự đánh giá và những giả thiết mới mẻ.
Ngoài ra còn một số tài liệu có nói đến một vài công trình về lý thuyết âm nhạc của Khayyam, tiếc rằng nội dung của chúng đã không được lưu giữ đến ngày nay.
Cuối năm 1092 vua Malik-Shah bị đầu độc. Trước đó một tháng Nizam al Mulk cũng bị ám sát. Từ đây trong triều đình bắt đầu một thời kỳ tranh giành quyền lực và sát phạt lẫn nhau. Sự nghiệp khoa học của Khayyam không còn ai quan tâm. Đài thiên văn không còn sự tài trợ đã buộc phải đóng cửa. Khayyam trở về quê hương Neyshabur sống bằng nghề dạy học và hầu như không tiếp xúc với ai khác ngoài những học trò của mình. Đây là thời kỳ đen tối trong cuộc đời Khayyam. Vì tư tưởng tự do và những bài thơ vô thần của mình Khayyam luôn chịu sự đe doạ từ những kẻ cuồng tín Islam. Phải khôn khéo lắm Khayyam mới tránh được sự nguy hiểm đến tính mạng. Để chứng tỏ lòng trung thành của mình với Islam gần cuối đời Khayyam đã thực hiện chuyến hành hương về Mecca.
Những năm cuối đời Khayyam được sống trong sự kính trọng của mọi người, khi đó con trai của Nizam al Mulk lên làm vua, thâu tóm quyền hành về một mối.
Ngày mất của Khayyam được xác định là năm 1123. Theo một giả thuyết khác của một số nhà nghiên cứu Xô Viết thì ngày mất của Omar Khayyam là 4-12-1131. Đây là ngày mất của Khayyam được đa số các nhà nghiên cứu đồng tình.5
Tương truyền khi đã trên 80 tuổi một hôm Khayyam đang đọc quyển triết học của Avicenna bỗng nhiên cảm thấy cái chết đang đến gần. Khayyam ngừng đọc, lấy que tăm trên miệng đặt vào giữa trang sách đọc dở. Ông cho gọi học trò của mình dặn dò những điều cần làm sau khi ông chết và từ đó không ăn uống gì nữa. Sau khi thực hiện xong lời cầu nguyện buổi chiều Khayyam quì xuống đất và thốt lên: “Thượng Đế ơi! Cả đời con, theo khả năng của mình, con đã cố gắng để nhận biết Người. Hãy tha thứ cho con! Con biết rằng con đang đi đến với Người”. Omar Khayyam đã từ giã cõi đời này bằng những lời như vậy.
Nhà sử học Beihaky cũng đã kể lại một câu chuyện góp phần xác định ngày mất của Khayyam: “Vào năm1113 tôi được gặp Khayyam tại Balkh. Trong một bữa rượu nhà bác học đã nói: “Mộ của ta sẽ nằm ở nơi mà mỗi mùa xuân ngọn gió sẽ mang hoa rắc đầy lên mộ”. Tôi lấy làm ngạc nhiên nhưng tôi tin rằng người như thế không nói những lời suông. Năm 1135 tôi có dịp đến Neyshabur, khi đó đã sau 4 năm cõi đời trở thành goá bụa vì thiếu vắng Khayyam. Tôi nhờ một người dẫn tôi đến viếng mộ Khayyam và nhìn thấy ngôi mộ trong vườn phủ đầy hoa lê và hoa đào. Tôi bỗng nhớ lại những lời của Khayyam ngày trước và tôi đã bật khóc. Thượng Đế bao dung đã dành cho ông một vị trí có lẽ không có đâu đẹp hơn thế”.
Nửa đầu thế kỷ 20 những người hâm mộ đã quyên góp tiền để xây dựng lăng mộ của nhà thơ. Ngày nay lăng mộ Khayyam là một trong những công trình kiến trúc đẹp nhất của Iran.
Chân dung của Omar Khayyam do giáo sư tiến sỹ A. D Jagarian, học trò của nhà nhân chủng học Nga nổi tiếng Mikhail Herasimov (1907 - 1970) tái tạo dựa vào xương sọ từ mộ của nhà thơ. Công việc này được kiểm tra bởi một Hội đồng khoa học bao gồm các bác sỹ, các nhà khảo cổ học, các nhà sử học và các nhà hình pháp học. Để kiểm tra người ta đã cho vị giáo sư phục chế bức tượng của một người chết chưa lâu lắm và ảnh của người đó được giấu kín. Sau khi so sánh bức tượng và ảnh thì hầu như tất cả đều công nhận rằng công việc của vị giáo sư được tiến hành dựa trên cơ sở khoa học và hoàn toàn chính xác.
Trên đây là một số mốc chính trong cuộc đời của Khayyam mà chủ yếu là dựa vào truyền thuyết. Chỉ để xác định những mốc chính này đã gây ra rất nhiều tranh luận trong giới nghiên cứu hàng chục năm trời và xem ra vẫn chưa phải là những kết luận cuối cùng. Việc xác định tiểu sử là phức tạp như vậy nhưng có một vấn đề khác còn phức tạp hơn nhiều đó là việc xác định những bài rubaiyat do chính Khayyam viết.
Những bản thảo chép thơ rubaiyat còn đến ngày nay chỉ xuất hiện cách thời Khayyam sống từ 200 đến 300 năm và không theo một trật tự hay lô gích nào cả. Mỗi nhà nghiên cứu đưa ra một nguyên tắc phân loại và cách giải thích riêng... Từ đó sinh ra một câu hỏi: Liệu có tồn tại trên đời một nhà thơ Khayyam hay đó chỉ là một huyền thoại văn học?
Một điều chúng ta biết chắc chắn là có một giọng thơ không giống với quan niệm đạo đức của người đương thời. Một phong cách mới mẻ, một lối tư duy độc đáo đã nói lên cái bí ẩn trong mỗi con người mà trước đó chưa ai nói được. Và có một điều hơn thế nữa: cho đến ngày nay, sau gần 1000 năm nghệ thuật thơ rubaiyat trong văn học Ba Tư Khayyam vẫn là một bậc thầy chưa có ai vượt qua.
Như vậy, đã có một nhà thơ Khayyam mà giọng thơ chúng ta dễ dàng nhận ra. Mặc cho thời gian cứ tích dần những sai lầm có thể có và cũng có cả sự thêm vào của hậu thế. Có thể có một số nhà thơ khác cùng mang cái tên Khayyam. Một điều dễ hiểu là thơ rubaiyat là thể thơ dễ truyền miệng, phổ biến, lưu truyền trong dân gian nên chuyện thêm bớt là điều không thể tránh khỏi. Bởi thế chúng ta không thể xác định chắc chắn rằng có bao nhiêu bài rubaiyat là thực sự của Khayyam và bao nhiêu bài là mô phỏng, bắt chước Khayyam. Nhưng điều này không hề có hại cho thơ ca cũng không hề làm giảm công lao của Khayyam bởi chính ông là người mở đường của một phong cách độc đáo.
Omar Khayyam có lẽ đã làm thơ suốt cuộc đời mình từ khi còn trẻ đến khi đã già. Trong 4 thể thơ phổ biến ở Ba Tư thời bấy giờ thì chỉ có rubaiyat là thể thơ có nguồn gốc dân gian (ba thể còn lại du nhập từ văn học Arập). Rubai là những bài thơ ngắn về tình yêu dùng để trao đổi qua lại trong tình yêu nam nữ. Dưới đây là một bài như vậy của người Shiraz thời nay, vùng đất vẫn được coi là cái nôi của thơ ca Iran:
Gửi cho em hai quả táo và cam
Hai quả lựu đỏ như máu con tim
Nếu biết em còn giữ lời nguyện ước
Anh bứt ra gửi cả trái tim mình.
Nền văn học Ba Tư với nhiều nhà thơ lớn nổi tiếng thế giới có một truyền thống lâu đời được bắt nguồn từ kinh Avesta (gần 1000 năm trước Công nguyên). Ba Tư là quê hương của Zarathustra - người sáng lập ra đạo thờ thần Lửa6 (từ 226 đến 651 là tôn giáo chính thống của Ba Tư) và là tác giả của nhiều bản thánh ca trong kinh Avesta.
Nửa cuối thế kỷ 19 nhà triết học Đức Nietzsche (1844 - 1900) viết tác phẩm “Zasathustra đã nói như vậy - Sách cho tất cả và không cho một ai” đã có sự ảnh hưởng lớn đến triết học phương Tây và nhận thức xã hội nói chung. Tư tưởng về một siêu nhân đã cổ vũ cho Hitler và chủ nghĩa phát xít nên đã có một thời sách của Nietzsche bị thu hồi từ các thư viện và tập trung vào một nơi được canh giữ đặc biệt.
Trong thế kỷ thứ 7 quân xâm lăng Arập tràn vào Ba Tư. Đi theo lửa và kiếm là Islam và tiếng Arập được phổ biến và được người Ba Tư tiếp nhận. Đến thế kỷ thứ 9 quân xâm lăng bị đánh đuổi. Kiếm ra đi nhưng kinh thì ở lại, Islam thay Zarathustrianism trở thành tôn giáo chính thống cho đến ngày nay.
Ơ một đất nước mà phần đa dân số không hiểu biết về Islam như Việt Nam chúng ta trước khi tìm hiểu thơ Khayyam chúng ta cùng tìm hiểu đôi chút về Islam và để hiểu Islam không thể không biết ít nhiều về Kinh Koran.
* * *
Islam (Hồi giáo) - một trong ba tôn giáo chính của thế giới (Phật giáo, Thiên chúa giáo, Hồi giáo) do Mahômét (570 - 632) sáng lập vào đầu thế kỷ thứ 7 có sự ảnh hưởng của Thiên Chúa giáo và đạo Do Thái. Giáo điều chính của Islam: tôn thờ Đấng Tối Cao là Thánh Ala và Mahômét – sứ giả của Ngài.
Tín đồ Hồi giáo tin vào linh hồn bất tử và cuộc sống ở bên kia thế giới. Tôn chỉ của Islam tập trung trong kinh Koran.
Năm quy tắc chủ yếu:
1. Lòng tin rằng không có Thượng Đế ngoài Thánh Ala và Mahômét - sứ giả của Ngài.
2. Năm lần cầu nguyện trong một ngày.
3. Bố thí cho người nghèo.
4. Nhịn ăn trong tháng Ramadan.
5. Hành hương về Mecca ít nhất là một lần trong đời.
Mahômét không chỉ là người sáng lập Islam mà còn là một nhà chính trị, một vị tướng kiệt xuất, một nhà thơ. Sau khi Ngài qua đời những người kế nhiệm tiếp tục mở rộng vùng ảnh hưởng của Islam. Được sự cổ vũ của tôn giáo mới này quân đội Arập mặc dù có số lượng ít hơn đã lần lượt chinh phục những quốc gia hùng mạnh, những nền văn minh từng một thời vang bóng như Lưỡng Hà, Ai Cập, Ba Tư... Trong vòng một thế kỷ họ đã chinh phục một dải đất từ Trung, Nam, Tây á đến Bắc Phi rồi vượt qua eo biển Gibralta chiếm luôn cả Tây Ban Nha và một phần nước Pháp. Chỉ sau khi bị thua người Pháp thì mới chịu dừng lại. Qua 13 thế kỷ tồn tại Islam chứng tỏ một sức sống mãnh liệt. Trong thế giới hiện đại Islam vẫn trải từ Đại Tây Dương xuyên qua ấn Độ Dương kéo dài tận Thái Bình Dương với số lượng tín đồ trên 1 tỷ người. Thế giới Arập thống nhất thành một khối không chỉ tôn giáo mà cả ngôn ngữ, lịch sử, văn hoá chung. Trong sự thống nhất này Kinh Koran viết bằng tiếng Arập đóng một vai trò đặc biệt quan trọng.
Kinh Koran tương truyền được Thánh Ala sai thiên sứ Gabriel mang xuống cho Mahômét rồi sau đó Ngài truyền lại cho tín đồ của mình. Khi Mahômét còn sống Kinh Koran được truyền miệng theo trí nhớ, chỉ khi Ngài qua đời vào năm 632 người ta mới tập trung lại thành sách.
Không như Kinh Thánh là một tập hợp các tư liệu và khải thị đa dạng được viết ra trong hàng ngàn năm bởi rất nhiều người Kinh Koran được hình thành trong một khoảng thời gian 20 năm bởi một người được giao tiếp với Thượng Đế qua một Thiên sứ của Ngài.
Tạm gạt bỏ những yếu tố huyền thoại thì chỉ riêng việc Mahômét là tác giả của Kinh Koran đã đủ cho thấy thiên tài đặc biệt của Ngài. Không phải ngẫu nhiên mà Michael Hart trong cuốn sách nổi tiếng “The 100. A Ranking of The Most Influential Persons in History” đã xếp Mahômét ở vị trí số 1 trong 100 nhân vật có ảnh hưởng nhiều nhất đến lịch sử phát triển của loài người.
Kinh Koran gồm 114 chương (surah) chia thành các mục (ayah) được viết bằng một lối văn vần mang đậm chất thi ca và thần thánh. Không như Kinh Thánh, được sắp xếp một cách logíc và có mối liên hệ với nhau Kinh Koran được sắp xếp theo độ dài từ chương dài nhất cho đến chương ngắn nhất (trừ chương mở đầu). Là Thánh Kinh nên Koran mang tính biểu trưng rất cao, rất khó dịch. Nếu không phải là người Arập hay tín đồ Islam thì khó mà hiểu được cái hay, cái thần của Koran qua bản dịch. Một từ đơn giản có thể hiểu theo rất nhiều nghĩa tuỳ theo từng người. Theo như cách bình giảng của những người theo trường phái Sufism7 thì Koran ngoài nghĩa đen bình thường còn có rất nhiều nghĩa bóng linh thiêng ẩn giấu ở đằng sau mà không phải ai cũng có thể hiểu được. Rumi (1207-1273)– nhà thơ nổi tiếng của trường phái Sufism viết: “Hãy nhớ rằng ngôn ngữ của Koran là giản dị nhưng đằng sau những lời dễ hiểu này còn có một ẩn ý, bên cạnh ẩn ý này có một nghĩa thứ ba dành cho những đầu óc tinh tế; nghĩa thứ tư thì chưa có ai hiểu được ngoài Thượng Đế vô song, cứ như vậy có thể đi đến nghĩa thứ bảy, ý này tiếp ý kia”.
Được cho rằng trong kinh Koran tập trung toàn bộ kiến thức tổng hợp và câu trả lời cho bất kỳ câu hỏi nào mà đầu óc con người có thể nghĩ ra. Chính vì thế mà vua Omar (581 - 644) từng ra lệnh đốt thư viện Alexandria, nơi tập trung toàn bộ trí thức cổ đại vì cho rằng tất cả tri thức đã có trong một quyển sách duy nhất: Kinh Koran. Những gì lặp lại Koran đều là thừa và những gì trái với Koran đều có hại.
Thánh Ala nhân vật chính trong kinh Koran là Đấng Tối Cao, là Thượng Đế duy nhất. Ngài vừa nghiêm khắc, dữ dội vừa nhân từ, độ lượng và hay tha thứ.
Thánh Ala sáng tạo ra vũ trụ và con người, cuộc sống và cái chết, quá khứ và hiện tại, tương lai... Ngài sáng tạo ra bầu trời và mặt đất “Bảy tầng trời xếp thành hàng từ thấp đến cao” (67:3). Ngài bắc một cái thang từ bầu trời xuống mặt đất có các thiên thần canh giữ nhưng những kẻ người trần mắt thịt thì không thể nhìn thấy. Thánh Ala cai quản cả vũ trụ, nơi mà điểm trên cùng là thiên đàng và dưới cùng là địa ngục…
Theo Koran thì con người đầu tiên được Thánh Ala nặn ra từ đất sét. Có rất nhiều chỗ trong Koran lại nói từ nước nhưng xem ra đây đã là con cháu của con người đầu tiên. Ngài thổi hồn của mình vào trong họ, cho tất cả có tai, mắt và trái tim (32:7,8)
Con người đầu tiên trong Kinh Koran cũng tương tự như con người đầu tiên trong Kinh Thánh có tên gọi là Adam còn tên người vợ thì không thấy đề cập đến nhưng trong dân gian có tên gọi là Hawwah. Đầu tiên họ sống hạnh phúc ở thiên đàng, chỉ sau khi ăn trái cấm ở vườn địa đàng Thánh Ala xua họ về hạ giới.
Nhưng Thượng Đế tối cao không bỏ mặc những đứa con của mình cho số phận mà từng bước đi của họ đều có Ngài theo dõi và cuộc đời của họ được đặt dưới sự bảo trợ của Ngài. Đối với tín đồ Hồi giáo thì tất cả mọi hành động của họ từ khi lọt lòng cho đến khi chết đều đã chép sẵn trong sách trời, người ta không thể thay đổi “Không thể co vào, không thể kéo ra”. Đó là một triết lý đơn giản nhưng vô cùng sâu sắc!
Dưới đây, xin được điểm qua một số khía cạnh về thế giới quan của Khayyam và một số đề tài trong thơ ông.
II
Thái độ đối với Đấng Tối Cao là một trong những vấn đề phức tạp nhất của những người nghiên cứu Khayyam. Trong thơ Khayyam có thể tìm thấy quan điểm của ông gần gũi với nhiều dòng phái của Islam và cả thuyết luân hồi, thuyết phiếm thần, hữu thần, vô thần... Qua thơ, qua các tác phẩm triết học của Khayyam cũng như qua những tài liệu về cuộc đời Khayyam có thể nói rằng Khayyam luôn tránh nói thẳng quan điểm tôn giáo của mình hay tự nhận là tín đồ của một dòng phái nào cụ thể. Xưa nay có nhiều bí ẩn về Khayyam đã được các nhà nghiên cứu làm sáng tỏ nhưng đề tài Thượng Đế trong thơ Khayyam vẫn là đối tượng của nhiều cách giải thích trái ngược. Một số này cho Khayyam là người vô thần, phủ nhận Thượng Đế. Một số khác - ngược lại, cho rằng Khayyam là người đi tìm chân lý của Thượng Đế không biết mệt mỏi.
Nguyên tắc quan trọng nhất trong học thuyết Hồi giáo là sự tiền định. Mọi điều xảy ra trong thế giới này là đều theo sự xếp đặt sẵn của Thượng Đế. Tín đồ Hồi giáo cho rằng ngay cả một sợi tóc trên đầu rụng xuống cũng không ngoài ý của Thánh Ala. Nhà triết học, thần học al-Ghazali (1058 - 1111) đồng hương và là người cùng thời với Khayyam, người được coi là nhà tiên tri thứ 2, chỉ sau Mahômét viết: “Tất thảy muôn loài trong vũ trụ đều tồn tại theo ý Ngài. Tất cả, luôn hay hiếm, to hay nhỏ, xấu hay tốt, lợi hay hại, hoàn hảo hay không hoàn hảo, lo lắng hay yên ổn, khoẻ mạnh hay đau ốm đều xảy ra theo sự định trước của Ngài. Giá như tất cả thiên thần, quỷ sứ và con người cùng hợp nhất lại để kìm hãm, thay đổi hoặc thêm vào dù chỉ một tý tẹo nào trong vũ trụ thì họ cũng chẳng thể làm nổi bởi không hợp ý Ngài. Tất cả những gì Ngài mong sẽ trở thành hiện thực, những gì Ngài không muốn không bao giờ xảy ra. Không một loài hay vật nào có thể ngăn cản. Tất cả những gì đã có, đang có và sẽ có đều do Ngài định trước”8.
Đã từng có những đại diện của một số trường phái Islam từ chối sự phụ thuộc tuyệt đối mọi hành động, suy nghĩ của con người vào ý Thượng Đế nhưng họ đã phải trả giá đắt: tất cả họ bị cho là những kẻ bội giáo và bị tử hình.
Dù sao thì giáo điều về thuyết tiền định vẫn chứa đựng trong lòng những mâu thuẫn và có những khó khăn khi thực hiện luật Shariah bởi khi nhắc đến ý của Thượng Đế con người có thể từ chối trách nhiệm về hành động của mình.
Có một câu chuyện được kể lại rằng trong buổi thuyết trình ở trường dòng (madrassah) nọ một học sinh hỏi thầy: "Có ba anh em. Một người chết là người ngoan đạo, một người chết là người lầm lỗi, người thứ ba chết khi còn là trẻ nhỏ. Số phận của ba người sau khi chết sẽ ra sao?” Thầy trả lời: “Người ngoan đạo lên thiên đàng, người lầm lỗi về địa ngục còn đứa bé con vì chưa kịp thể hiện mình nên chỉ ở khoảng giữa”. Trò hỏi tiếp: “Thế nếu đưa bé con than phiền Thượng Đế rằng tại sao Ngài không cho nó cơ hội làm những việc tốt để được lên thiên đàng như những người ngoan đạo thì Thượng Đế sẽ trả lời ra sao?” Thầy cười mỉa: “Con biết đấy, Thượng Đế chỉ làm việc tốt cho con người. Ngài sẽ trả lời: “Ta biết rằng nếu con lớn lên sẽ trở thành người tội lỗi nên ta đã tước cuộc đời của con khi còn bé...” Trò kêu lên: “Thế người anh chết lầm lỗi sẽ than vãn: “Thượng Đế ôi! sao Ngài không cho con được chết khi còn bé dại mà cho con lớn lên thành người tội lỗi để làm chi?” Thượng Đế sẽ trả lời ra sao?” Thầy ngớ người ra, im lặng rồi khẽ thì thầm: “Đồ ma ranh, quỷ sứ...” Trò đắc thắng tuyên bố: “Thầy thấy chưa, con lừa đã bị kẹt trên cầu. Học thuyết mà thầy vẫn tâng bốc, không chịu nổi sự phê bình”.
Nhằm tìm cách giải quyết những mâu thuẫn này nhiều nhà thần học đã đưa ra một số luận điểm nhưng cuối cùng tín đồ vẫn phải tin vào những điều khẳng định trái ngược với nhau: “Họ (những người theo trường phái Sufism) cho rằng không phải hành động của con người dẫn đến việc khen thưởng hay trừng phạt mà là sự bao dung, sự công bằng và sự xác định của Thượng Đế. Họ cho rằng sung sướng thiên đàng dành cho những kẻ mà hạnh phúc đã được định trước và khổ đau địa ngục cho những kẻ mà bất hạnh đã được Thượng Đế định trước như trong truyền thuyết đã nói: “Những kẻ này lên thiên đàng còn những kẻ này về địa ngục và chỉ ở đó”. Tuy vậy họ còn cho rằng Thượng Đế khen thưởng cho việc tốt và phạt việc xấu. Ngài luôn luôn đúng và tất cả những gì Ngài nói là sự thật”9.
Thơ Khayyam có rất nhiều bài nói lên sự mâu thuẫn của giáo điều:
Trên đời này cạm bẫy giăng khắp nơi
Chẳng ngày nào được sống theo ý tôi
Không hỏi tôi ông trời kia tự quyết
Rồi gọi tôi kẻ không chịu nghe lời
Nếu như mọi điều đã định trước thì sao lại còn đi phạt kẻ phạm lỗi, thì sao gọi được Ngài là độ lượng, bao dung.
Liệu có ai vô tội ở trên đời
Ai không tội là không sống mà thôi
Tôi mắc tội, Ngài đem bắt trị tội
Sao lại bảo rằng Ngài cao thượng hơn tôi?
Và theo như những gì vẫn nghe, vẫn nói, hàng ngày thì Thượng Đế là sáng suốt. Ngài tạo ra thế giới một cách trật tự, công bằng thế sao lại đầy rẫy bất công?
Ông trời ơi sao những thằng đểu cáng
Lại sung sướng với nhà cao cửa rộng?
Người trung thực lại nghèo rớt mồng tơi
Trời như thế hỏi ai thèm tin tưởng.
Về cuộc đời riêng cũng thật mỉa mai, chua chát
Thượng Đế ơi sao mà cuộc đời con
Đầy những âu lo, cay đắng, muộn phiền
Ơn Thượng Đế cuộc đời con bất hạnh
Người cho nhiều những thứ chẳng cầu xin.
Cho đến giây phút cuối cùng của cuộc đời mặc dù biết sự bất lực của con người Khayyam vẫn mong ước được sắp xếp lại thế giới cho tốt đẹp hơn.
Tình yêu ơi đến lúc phải giã từ
Tiếc cuộc đời trần thế chẳng như mơ
Giá trời cho băm ra từng mảnh nhỏ
Rồi nhập vào xếp lại đẹp hơn xưa.
Nhà phê bình người Anh Holbrook Jackson đã nhận xét về thái độ của Khayyam với Thượng Đế như thế này: “Cái nhìn đời của ông thật tinh tế và độ lượng, bao dung. Ông không phải là người theo chủ nghĩa hữu thần, phiếm thần hay vô thần, trong ông có một ít của tất cả. Ông không hề phủ nhận Thượng Đế chỉ vì một lý do đơn giản là chưa bao giờ ông thừa nhận”.10
* * *
Thế giới quan của Khayyam rất phức tạp thậm chí trái ngược, phủ định lẫn nhau. Vừa duy vật, vừa duy tâm, vừa khoa học, vừa tôn giáo và cuối cùng là hoài nghi tất cả. ở khía cạnh duy vật Khayyam cho rằng thế giới quanh ta được hình thành từ vật chất. Tất cả sự vật, hiện tượng, con người đều là những hình thái khác nhau của sự chuyển hoá vật chất và cuối cùng đều trở về vật chất. Tuy vậy quá trình chuyển hoá này không phải là sự biến mất hoặc sinh ra mà thế giới vật chất ở trong vòng quay muôn thuở, không tăng, không giảm.
Tôi đến đây đời giàu lên có phải?
Tôi ra đi đời có gì thiệt hại?
Có ai người giải thích vì sao tôi
Từ cát bụi lại trở về cát bụi?
Thế giới vật chất là một dòng chảy vô tận không có điểm đầu tiên hay điểm cuối cùng. Thế giới vật chất chuyển hoá từ dạng này sang dạng khác thay đổi cả về lượng cũng như chất. Trong thế giới này không có gì là bất biến mà cái mới luôn được sinh ra. Mỗi sự vật, hiện tượng đều có lịch sử xuất hiện, phát triển và thay đổi. Có thể ví cuộc đời này như một đoàn tàu dừng bánh trên sân ga, chỉ một lúc rồi lại tiếp tục cuộc hành trình của mình, nhường sân ga cho một đoàn tàu khác.
Đừng buồn chi! đời chỉ ngắn thế thôi
Cuộc đời này cho ta để mua vui
Nếu mọi vật trong đất trời bất biến
Thì nhà ngươi đâu có mặt trên đời.
Nhưng nếu như một mặt cái mới luôn sinh ra thì mặt khác, cái già cũ theo quy luật phải chết đi để nhường chỗ cho cái mới. Như vậy, phép biện chứng của hiện thực khách quan là một quá trình thống nhất của khẳng định và phủ định, của cũ và mới, của sinh và tử, nghĩa là của cuộc sống và cái chết.
Nhà triết học Hy Lạp cổ đại Heracleitos chủ trương rằng: “Tất cả đều thay đổi, tất cả chuyển động không ngừng”, “Không ai tắm được hai lần trên một dòng sông. Tên dòng sông ở lại nhưng nước chảy đi rồi”, rằng “Trong cái chết có sự sống, trong sự sống có cái chết, tất cả đều chết bằng sự sống và sống bằng cái chết. Trong ta có cả sống và chết, động và tĩnh, trẻ và già”, “Khi ta sống hồn ta chết, khi ta chết hồn ta sống”...
Tiếp bước Heracleitos Khayyam nhìn thấy cả người chết nằm dưới đất, người đã đi cũng như người chưa đến. Khayyam trò chuyện với từng bông hoa, nghe ra lời từng cục đất, bình gốm. Với mục đích chứng minh cho nhận định của mình về sự vĩnh cửu của vật chất và quá trình chuyển đổi không ngừng từ dạng này sang dạng khác Khayyam rất thích dùng hình tượng thợ gốm và nghề làm gốm.
Một lần đi qua lò gốm Khayyam để ý nhìn người thợ gốm đang giẫm đất sét. Bỗng nghe thấy tiếng rên rỉ của cục đất: “Hãy thương cho tôi với, ngày xưa tôi cũng là người”.
Tôi đã nghe trong lò gốm hôm qua
Lời của đất mà nức nở xót xa:
"Đừng giẫm tôi - đất bảo người thợ gốm -
Tôi là người chỉ vừa mới hôm qua".
Một lần khác ghé vào lò gốm, nơi chứa đựng những sản phẩm đã làm xong Khayyam nghe thấy bình chén hỏi lẫn nhau và hỏi Khayyam “Ai là thợ gốm, ai người mua, người bán?”
Ngày hôm qua tôi ghé vào lò gốm
Tôi nghe thấy người ta đang tranh luận:
"Thợ gốm là ai - một câu hỏi cho tôi -
Trong chúng ta ai người mua, kẻ bán?"
Cuộc đời được kết thúc bằng cái chết, cơ thể người chuyển hoá thành đất sét rồi từ đất sét này lại được làm thành đồ gốm cho người sử dụng. ý bài thơ này coi đồ gốm, người sản xuất và người sử dụng đồ gốm đều như nhau cả bởi đất để làm ra gốm cũng từ con người mà ra. Đây là một mô típ quen thuộc của Khayyam nói về kiếp phù sinh của con người và sự vĩnh cửu của vật chất. Ta dễ dàng nhận ra sự so sánh bình và chén với sọ dừa con người của Khayyam có hai điểm giống nhau: cùng có hình dáng tròn và đều dễ vỡ.
Tôi làm vỡ chiếc bình có vẽ bông hoa
Khi uống say trong đêm tối nhạt nhoà
Một giọng nói khổ đau nghe rất rõ:
"Ta đã như người, người ít nữa cũng như ta"
Nhiều bài như thế này, gợi lên mối liên hệ giữa cái chết và sự sống, gợi lên một suy nghĩ rằng cục đất mà người ta đem nặn thành bình, đổ đầy rượu thơm ngào ngạt kia ngày xưa từng là một cơ thể sống, biết cảm xúc, suy nghĩ.
Bình rượu bảo tôi: "Ta sinh ra từ cát bụi
Nhưng trong lòng ta rượu như máu hồng tươi rói.
Phía trước cuộc đời cái chết đang đợi nhà ngươi
Những gì sống hôm nay ngày mai đều cát bụi".
* * *
Một mảng đề tài khác mà ta hay gặp là đề tài về ý nghĩa cuộc đời người, về quyền lực, sự giàu có... Trong một mức độ nào đó ta có thể so sánh thơ Khayyam với quyển Ecclesiastes của Kinh Cựu Ước.Trong quyển Ecclesiastes người truyền đạo đã kể rằng Ngài đã từng đi tìm ý nghĩa của cuộc đời khắp mọi lĩnh vục của đời sống và cuối cùng đi đến kết luận rằng cuộc đời của con người là vô nghĩa “hư không, thảy đều hư không!”. Đầu tiên Ngài ngỡ rằng ý nghĩa cuộc đời ở trong kiến thức, thế mà lại hoá ra là “theo luồng gió thổi” bởi vì “nếu khôn ngoan nhiều thì phiền muộn cũng nhiều, ai thêm tri thức sẽ càng thêm sự đau đớn” (1:18). Sau đó, Ngài thử đi tìm trong thú khoái lạc, trong rượu chè, vui vẻ “nhưng đấy cũng là sự hư không”.Rồi Ngài lao vào làm giàu cho mình: xây nhà, trồng vườn, đào hố chứa nước, mua tôi trai, tớ gái, con hát đầy nhà... Ngài tích gom thật nhiều vàng bạc, của cải nhưng sau đó nhìn ngoảnh lại những công việc tay mình đã làm vất vả và nhận thấy rằng đấy cũng là sự hư không, theo luồng gió thổi: Ta chết đi, người thừa kế ta sẽ tiêu phá những thứ tay ta đã làm ra nhưng ai biết được người thừa kế sẽ là người khôn ngoan hay dại dột? Biết đâu “cha bòn con bỏ” rồi không lại vẫn hoàn không. Mà ngay cả khôn ngoan đi nữa thì cũng chẳng hơn gì dại dột, bởi lẽ “người khôn ngoan chết cũng như kẻ điên cuồng” (2:16).Người truyền đạo nhận thấy rằng trên cõi đời này chẳng có gì tốt đẹp. Con người cũng vậy, “không hơn gì loài thú”. Trong một nghìn đàn ông còn tìm thấy một người còn trong cả thảy đàn bà - không một người.Mặc dù đã từng có đến “bảy trăm hoàng hậu và ba trăm công nương” (I kings 11:3) nhưng cuối cùng Ngài đã rút ra một điều rằng đàn bà “cay đắng hơn là cái chết”, rằng “đàn bà có lòng giống như lưới vây và đôi bàn tay như dây trói” (7:26).Trên đời này cũng chẳng hề có sự công bằng: “Người hiền lành và kẻ hung ác, người thanh sạch và kẻ không thanh sạch... tất cả đều hưởng một số phận” (9:2). Mong muốn thay đổi một điều gì chỉ là vô ích vì rằng trong đời này không thể có gì mới: “Điều gì đã có ấy là điều sẽ có, điều gì đã làm, ấy là điều sẽ còn làm, chẳng có gì mới ở dưới mặt trời” (1:19)
Từ những điều trên đây người truyền đạo đã rút ra một kết luận là sự vô nghĩa của cuộc đời người: “Vậy ta căm ghét cuộc sống vì mọi việc làm ra dưới mặt trời là cực nhọc cho ta thảy đều hư không, theo luồng gió thổi” (2:17). Ngài cho rằng “Những kẻ đã chết lâu rồi là sướng hơn người còn sống” (4:2).
Ngoài những khía cạnh đã nói trên Khayyam còn cho rằng cái chết cào bằng tất cả. Sang cũng như hèn. Vua chúa cũng như nô lệ. Quyền lực, vinh quang cũng chỉ là phút chốc.
Có một lần tôi nhìn thấy trong mơ
Con quạ đen bên cây gạo ven hồ
Vừa rỉa xương một ông vua vừa hỏi:
"Đâu rồi vinh quang, quyền lực ngày xưa?"
Trong rất nhiều bài thơ của Khayyam ta thấy sự vô nghĩa của những mục đích mà nếu đạt đến được người đời đánh giá rất cao. Đó là sự giàu có. Khayyam tỏ ra lạnh nhạt với khát vọng giàu có của người đời.
Có thể trong đời người bay cao bất tận
Có thể nhận hết về mình những gì người muốn
Kho châu báu của đời này người vét sạch trơn
Nhưng đều bỏ lại khi ngày cùng tháng tận.
Con người ai cũng phải chết. Giả sử đi hỏi hết tất cả mọi người thì ai cũng khẳng định như vậy. Thế nhưng trong cuộc sống thường ngày, trong suy nghĩ, hành động của mình con người lại quên mất điều này. Con người chạy trốn khỏi ý nghĩ này một cách vô thức. Từ đó sinh ra một nghịch lý: Con người sống, hành động, suy nghĩ, yêu nhau có vẻ như là bất tử.
Ngươi nhọc nhằn, lo lắng suốt ngày đêm
Cuộc đời trôi trong hai chữ kim tiền.
Hãy nhớ rằng nhà ngươi không vàng bạc
Khi chôn rồi thiên hạ chẳng đào lên.
“Có tiền mua tiên cũng được” nhưng tiền bạc không mua được cái chết, chính xác hơn là không mua được cuộc sống. Đọc Khayyam ta cảm nhận được cả cái đau buồn của Ecclesiastes: “Mình lọt khỏi lòng mẹ trần truồng thế nào, ắt sẽ trở về thế ấy...” lẫn cái chua chát của La Rochefoucauld (1613-1680): “Để có hạnh phúc người khôn ngoan không cần gì nhiều còn kẻ dại dột thì không có gì thoả mãn nổi, bởi thế, con người hầu như tất cả đều bất hạnh”.
* * *
Đề tài chính trong thơ Khayyam là rượu. Từ đầu chí cuối hầu như chỗ nào ta cũng nghe thấy mùi rượu. Một trong những mô típ quen thuộc của Khayyam là cuộc đời ngắn ngủi, số kiếp ba đào. Tuy vậy Khayyam không là người yếm thế, quay lưng lại với cuộc đời mà ngược lại Khayyam đề cao những lạc thú của cuộc đời mà rượu là một biểu tượng chính.
Nhưng rượu trong thơ Khayyam nên hiểu theo nghĩa đen hay hiểu theo nghĩa triết học như nhiều người chủ trương? Có lẽ cả hai. Trước khi đi tìm hiểu về rượu trong thơ chúng ta hãy cùng tìm hiểu qua một số tác phẩm có tính khoa học của Khayyam.
Chúng tôi muốn nói đến quyển “Nauruz – Name” (sách về lễ hội). Xin được trích một đoạn trong phần “Về ích lợi của rượu”: “Các nhà danh y Galenus (130 - 200), Socrates (469-399 tCn), Hippocrates (460-370 tCn), Avicena cho rằng đối với cơ thể con người không có gì tốt hơn rượu, đặc biệt là rượu nho. Rượu làm cho con tim biết hân hoan, xua đi nỗi u sầu, kích thích tiêu hoá. Rượu làm cho má hồng, da trắng, tăng thêm trí nhớ, biến người keo kiệt trở thành hào phóng, kẻ nhút nhát trở nên gan dạ và giảm thiểu bệnh tật. Những người uống rượu thường là khoẻ mạnh bởi người uống nhiều rượu sẽ không cho những tạp chất xấu tích đọng lại trong dạ dày. Rượu là thú vị. Tất cả mọi thứ đồ ăn uống ở trên đời này: đồ béo, đồ ngọt, đồ chua, thứ gì cũng càng ăn nhiều càng chán. Chỉ có rượu uống một thì muốn uống hai, rượu không bao giờ chán bởi rượu là ông Hoàng của mọi loại đồ uống. Trong thiên đàng có nhiều phúc lợi nhưng phúc lợi lớn nhất là rượu, bởi nếu không thế thì Izad11 đã không chọn rượu cho mình. Trong cuốn sách đời cũng nói: “Rượu có lợi cho người nhưng tội lỗi nhiều hơn ích lợi”12. Trong rượu có nhiều ích lợi nhưng tội lỗi nhiều hơn ích lợi. Người khôn ngoan cần uống sao cho ích lợi của rượu nhiều hơn tội lỗi, sao cho không tự làm khổ mình, sao cho khi uống rượu từ đầu chí cuối không làm điều ác hay thô bạo cả trong lời nói cũng như hành động mà chỉ có vui vẻ, tốt lành. Một khi người ta đạt đến điều này thì rất nên uống rượu. ích lợi của rượu có thật nhiều...”.
Sau đó Khayyam phân tích những đặc điểm, lợi hại của tất cả các loại rượu và kể câu chuyện về sự tích ra đời của rượu mà độ hấp dẫn và vẻ huyền bí của nó cũng tương tự như những câu chuyện trong “Nghìn lẻ một đêm” vậy. Rượu trong thơ Khayyam được người đời giải thích theo rất nhiều cách giải thích khác nhau. Dưới đây chúng tôi xin được đưa ra một số cách hiểu.
Thứ nhất: Rượu có nghĩa là tất cả những sung sướng của kiếp người. Cách giải thích này phù hợp với truyền thống của thơ ca Châu Âu bắt đầu từ truyền thuyết về thần rượu Bacchus cho đến thơ của Anacreon (582-485 tCn), Horatius (Horace)... có ảnh hưởng rất lớn đến thơ ca Châu Âu sau này.
Thứ hai: Cách giải thích hình tượng rượu có nguồn gốc Phương Đông gắn liền với truyền thống Sufism13 cho rằng rượu là thứ nước thần thánh giúp nhận thức chân lý mà cơn say là tình trạng khoái cảm tột độ dẫn con người đến gần với Thượng Đế cho tới khi được hoà nhập với Người.
Thứ ba: Khayyam dùng hình tượng rượu để nói lên sự phản kháng của mình đối với những cấm đoán khắt khe của Hồi giáo.
Bỏ uống rượu thì cũng có nghĩa là
Bỏ cuộc đời! Ai bù được cho ta?
Ta làm sao trở thành người ngoan đạo
Khi mà điều sung sướng lại cấm ta ?
Kinh Koran và một số điều trong luật Shariah cấm uống rượu. Đặc biệt là trong tháng ăn chay (Ramadan) - tháng thứ 9 theo lịch Hồi giáo - từ lúc mặt trời mọc đến lúc mặt trời lặn không được ăn uống, vui cười chứ đừng nói là uống rượu. Trong cái đêm 26 sang ngày 27 linh thiêng, theo truyền thuyết thì Thiên sứ Gabriel đã trao Koran cho Mahômet, từ đó người ta cầu nguyện suốt đêm thế mà Khayyam không lo cầu nguyện hay suy nghĩ về Thượng Đế, đã thế, lại còn mơ rượu, mơ tình.
Tôi xưa nay vẫn uống rượu hàng ngày
Nhưng đêm này gần cuối tháng ăn chay
Muốn – môi kề môi, ngực kề sát ngực –
Bình rượu đầy không một phút rời tay.
Đầu thế kỷ 20 nhà nghiên cứu người Pháp Laurent Tailhade trong một bài tiểu luận về đề tài rượu trong văn học Châu Âu từ thời cổ đại đến cuối thế kỷ 19 đã viết về Khayyam như sau: “Rượu trong thơ Khayyam có nghĩa là sự giải thoát. Rượu là sự phản kháng, là ca ngợi chiến thắng của con người trước những bóng ma thần thánh được tạo nên bởi sự dốt nát và nhu nhược”14.
Để khép lại phần rượu xin được nói rằng rượu trong thơ Khayyam có ý nghĩa rất đa dạng. ở những bài rubai khác nhau hoặc trong những tình huống, ngữ cảnh khác nhau rượu mang một ý nghĩa riêng biệt. Điều này phụ thuộc vào kinh nghiệm sống, vào óc tưởng tượng, vào cách tư duy và tất nhiên vào sự say mê của người đọc. Mỗi người có thể có cách hiểu, cách giải thích của riêng mình. Và xin được nói thêm rằng mặc dù Khayyam lúc nào cũng nói đến rượu, đến cơn say, rằng ông chỉ hạnh phúc trong “tình trạng nửa say mà nửa tỉnh” nhưng thực chất Khayyam không hề say sưa một tý nào. Khayyam nhìn đời bằng cái nhìn tỉnh táo của một nhà bác học, nhà hiền triết, nhà thông thái.
* * *
Một trong những mô típ quen thuộc nhất trong thế giới quan của Khayyam là quan niệm về thời gian.
Thời gian là gì? Saint Augustine (354 - 430) nhà thần học, nhà triết học có những ý tưởng đáng kể nhất về thời gian cho rằng thời gian do Thượng Đế tạo ra. Thời gian của Thượng Đế là cõi vĩnh hằng còn thời gian của con người thì có quá khứ, hiện tại và tương lai. Tất cả đều đổ dồn vào cõi vĩnh hằng. Thời gian tồn tại trong trí tuệ con người. Con người biết nhớ về quá khứ, cảm nhận hiện tại và đợi chờ, hy vọng ở tương lai. “... Giá như đã không có gì trôi qua thì đã không có quá khứ; giá như không có gì trôi qua thì sẽ không có tương lai và nếu không có quá khứ và tương lai thì không có hiện tại <…..> Làm sao hiểu được thời gian “dài” hoặc “ngắn” ? Trong quá khứ thì đã qua rồi, trong tương lai thì chưa đến, nghĩa là chỉ trong hiện tại. Nhưng nếu như ta lấy một quãng thời gian hiện tại có độ dài bất kỳ - một năm, một tháng, một ngày, một giờ... thì sẽ thấy nó đều có ba giai đoạn <.....> Thời gian tồn tại trong lòng ta. Quá khứ ở trong hoài niệm, tương lai trong sự đợi chờ. Tương lai có thể nhìn thấy trước bằng những dấu hiệu trong hiện tại. Thực chất của hiện tại là sự trực giác (intuitus)”.Trong kinh Talmud có một câu về thời gian rất nổi tiếng: “Các con nói rằng thời gian trôi ư? Thật là dại dột! Đấy là các con trôi qua thời gian”. Luận điểm này khẳng định một điều: không có thời gian trìu tượng, chung chung mà chỉ có những đối tượng cụ thể trong đó có con người thuộc về một độ dài thời gian thực tế. Pierrè Ronsard (1524-1585) – nhà thơ nổi tiếng nhất nước Pháp thời Phục hưng đã nói về đề tài này qua một bài sonnê cũng rất nổi tiếng.
Một bó hoa tươi tôi gửi cho nàng
Những bông hoa đã qua giờ đẹp nhất
Giá mà tôi ngày hôm nay không ngắt
Thì ngày mai hoa cũng sẽ héo tàn.
Nhắc cho nàng nghĩ đến cánh hoa tươi
Rằng sắc đẹp thứ đồ không bền vững
Ngày hôm nay dù lung linh toả sáng
Vẫn qua mau như mọi thứ trên đời.
Cuộc đời trôi, cuộc đời trôi, ma Dame
Không phải đời! Ta trôi qua thời gian
Lòng âu yếm ở đời không khỏi chết.
Ta đem cản lại thời gian khắc nghiệt
Những đêm thanh ta dâng hết cho tình
Hãy yêu nhau ta đang có ngày xanh.
Trong thơ Khayyam đơn vị thời gian là một ngày đêm – ngày Hôm Nay. Hôm Nay có nghĩa là cả cuộc đời. Trường ca của Fitzgerald được bắt đầu bằng buổi bình minh (Thức dậy đi và hãy ngắm vầng đông...) và kết thức bằng đêm trăng (...Mai rồi trăng đừng kiếm tìm vô vọng/ Ta đã về nằm ở dưới bóng dương).
Có một ý nghĩ xuyên suốt luôn dằn vặt Khayyam rằng thời gian trôi vội vã, rằng hãy biết nắm bắt khoảnh khắc, biết sống với ngày hôm nay.
Rót rượu ra, em nhé, chớ phân vân
Thời gian đi ta không thể níu chân
Ngày Mai chưa về, Hôm Qua đã chết
Chỉ Hôm Nay ta hãy sống cho mình.
Biết sống trong ngày hôm nay thì khôn ngoan nhưng sống chỉ vì ngày hôm nay thì dại dột!
Khi ta tiếc nhớ về quá khứ hay mơ ước về tương lai thì ta đang dùng thời gian của hiện tại. Chỉ trong thời gian này ta đang sống theo đúng nghĩa. Nhưng tiếc nhớ về quá khứ thì phỏng có ích gì - quá khứ không còn quay trở lại. Suy nghĩ, mơ ước hay dự định cho tương lai, kể ra cũng hay đấy nhưng tốt nhất là hãy biết sống cho hiện tại bởi hiện tại là tiền đề để tạo dựng tương lai.
Trong thế giới quan của Khayyam không chỉ có hôm nay là thước đo thời gian mà cụ thể hơn là khoảnh khắc, là phút giây ta đang có.
Từ thần thánh đến vô thần - chỉ gang tay
Từ số không đến vô cùng - chỉ phút giây
Hãy gìn giữ phút giây này quý giá
Đời - không ít, không nhiều - chỉ phút giây.
Dòng thời gian vô tận đã chảy trước khi có ta ra đời. Dòng thời gian vô tận còn chảy mãi sau cái chết của ta. Nếu đem so với vĩ