Thông tin

Số điện thoại

Email

Website

Địa chỉ

Olga Berggoltz Ольга Берггольц

Olga Berggoltz là nữ thi sĩ Nga - Xô Viết, tên đầy đủ phụ danh là Olga Fiodorovna Berggoltz, sinh ngày mùng 3-5-1910 (theo lịch mới là ngày 16-5) tại Saint Petersburg (Petrograd). Thân phụ bà - Phedor Kristophorovich Berggoltz - mấy chục năm là bác sĩ của một nhà máy, chữa bệnh cho công nhân, nhưng trước đó ông từng là bác sĩ phẫu thuật phục vụ trong quân đội, kinh qua chiến tranh chống Đức dưới đế chế Nga hoàng, rồi tham gia chống Bạch vệ thời Nội chiến. Sau thời nội chiến loạn lạc, năm 1921, ông cùng vợ là bà Maria Timopheevna, hai con gái Olga và Maria tái đoàn tụ ở thành phố bên dòng sông Neva. (Trước đó, năm 1918, vợ ông đưa hai con nhỏ lánh về thành phố nhỏ yên tĩnh Uglich, tiếng là tránh tên rơi đạn lạc nhưng kỳ thực là để tránh nạn đói!) Olga đến với Thi Ca rất sớm. Những năm tuổi nhỏ, Olga say mê đọc các tác phẩm thơ ca trong tủ sách gia đình, đặc biệt yêu thơ Lermontov. Bài thơ đầu tiên được đăng trên báo tường của nhà máy, nơi thân phụ bà làm việc, là vào năm Olga tròn 14 tuổi. Bài thơ viết vào ngày Lenin qua đời. Viết bằng một tình cảm trong trẻo, hồn nhiên: ...Những tiếng còi nhà máy chúng tôi Đang ca lên vang dội Hình như tất cả các nhà máy Đều quỳ gối Bởi chúng đã mồ côi Bởi Lenin đã mất Lenin thân yêu đã mất... Và có thể nói, đó là cái mốc quan trọng trong cuộc đời của Olga, là ngày mà Olga cảm nhận được sâu sắc rằng, mình sẽ trở thành nhà thơ! Năm 1925, tròn 15 tuổi, Olga đã tham gia bút nhóm "Kế tục" và tại đây, năm 1926, bà đã gặp tình yêu đầu của mình - nhà thơ Boris Kornilov. Vẫn còn là trẻ thơ, non nớt nhưng say đắm, cô thiếu nữ 16 tuổi Olga Berggoltz đã đón nhận tình yêu đầu như đón nhận số phận của mình. Chàng trai trẻ có vóc dáng nhỏ bé, đội mũ kepka, biết đọc thơ mình sáng tác một cách lôi cuốn và say sưa đã khiến trái tim nàng rung động. Họ yêu nhau và chỉ mấy tháng sau đã thành vợ thành chồng. Olga sinh được một cô con gái Irina, nhưng về sau bé bị bệnh mà mất khi mới tròn 8 tuổi (1936). Năm 1926, Olga Berggoltz theo học khoá nghiên cứu Lịch sử nghệ thuật và năm 1927, bà được tuyển vào học ngành báo chí khoa Ngữ Văn trường Đại học Tổng hợp Leningrad. Ở đó, sau khi chia tay với Kornilov năm 1930, bà gặp Nikolai Molchanov (1909-1942) và đi bước nữa cùng ông. Buổi đầu bày tỏ tình yêu giữa đôi trai gái cũng vẫn xúc động không khác gì lần yêu đầu: một buổi sớm mai trên con đường dọc bờ sông vắng thưa người qua lại, không khí nao niết mùi hương toả ra từ những rặng thông, tiếng hải hâu kêu chao chác từ xa... thấp thoáng cánh trắng dập dềnh phía bầu trời ửng đỏ của rạng đông. Cảnh tượng ấy đã chứng kiến mối tình "mãi mãi" của Olga Berggoltz và Nikolai Molchanov. Hai con người trẻ tuổi cùng làm việc miệt mài bên nhau ở Alma-Ata (Kazakhstan) - khi ấy Olga là phóng viên báo "Thảo nguyên Xô-viết", cùng chiến đấu trong vòng phong toả của phát-xít Đức ở Leningrad và cùng chung sức trong rất nhiều dự định. Sau khi người chồng đầu tiên là Kornilov bị bắt và bị khép tội phản động, rồi sau đó bị xử hình, từng là người thân của Boris, mặc dù đã rất xa, Olga Berggoltz vẫn không tránh khỏi liên luỵ. Bà cũng rơi vào chốn ngục tù vào tháng 12 năm 1938, khi đang mang thai đứa con trai nhỏ, để rồi vĩnh viễn mất đứa bé cùng quyền làm mẹ. Tháng 6 năm 1939, bà được ra tù, được phục hồi danh dự. Thời kỳ chiến tranh Vệ quốc vĩ đại, Olga Berggotlz đã cống hiến sức mình trong việc củng cố, động viên tinh thần nhân dân Lenigrad suốt 900 ngày đêm thành Len bị rơi vào vòng phong toả của phát xít Đức. Bấy giờ, bà làm việc ở Đài phát thanh Leningrad, hàng ngày đọc bản tin, đọc thơ trong cái đói cái rét mà chính bà cùng các đồng nghiệp cũng phải chịu đựng. Nhưng giọng đọc rành rọt, chân thành của người phụ nữ này đã từng là nguồn động viên kịp thời đối với những con người Xô-Viết đang chết dần trong vòng vây. Olga trở thành Nàng Thơ của thành Len, trở thành biểu tượng cho những năm tháng đau khổ mà kiên cường này của những người dân Lenigrad. Đầu năm 1942, khi nạn đói hoành hành đến cực điểm trong thành Len, Nikolai Molchanov đã qua đời, trong đau đớn. Olga, người phụ nữ kiên gan chịu đựng đói, khổ, đau đớn cả về thể xác lẫn tinh thần trong những ngày đêm Leningrad bị bao vây, đã "khóc một lần cho cả 900 ngày đêm ấy". Sau khi Molchanov qua đời, Olga đã đi bước nữa với Georgi Makogonenko, một đồng nghiệp. Theo Lev Anninsky, Georgi Makogonenko đã làm mọi cách để Olga bình tâm lại, thậm chí, lấy quyền của một phó Phòng Văn nghệ BBT Đài Phát thanh Leningrad (nơi Olga làm việc suốt thời gian thành Len bị phong toả), ông đã "lệnh" cho bà phải viết cho xong thi phẩm "Nhật ký tháng Hai" kịp ngày lễ Quân đội 23-2-1942. Bởi ông nhìn rõ, chỉ có công việc mới cứu được Olga khỏi nỗi đau riêng. Bản trường ca ấy đã cứu được Olga, trả lại sự bình tâm cho bà, cũng như cứu được rất nhiều người đàn bà goá khác của Leningrad khỏi chìm đắm trong hồi ức đau thương. Và tình yêu, cho dẫu đầy ắp ghen tuông, day dứt, thì vẫn cứ là "hạnh phúc". Hai người chính thức hoá quan hệ vợ chồng vào ngày 20-2-1949 (một sự trùng hợp kỳ lạ: đây cũng chính là ngày mất của Boris Kornilov!) mặc dù trước đó, ngay từ năm 1942, họ đã chung sống dưới một mái nhà. Con trai riêng của Georgi và thân phụ ông cùng sống với họ. Và hai vợ chồng cùng viết chung những vở kịch về Leningrad thời chiến; "Họ đã sống ở Leningrad" (1944), "Trên mảnh đất của chúng tôi..." (1947), kịch bản phim "Bản hợp xướng Leningrad" (1945), những trang bút ký đăng tải nhiều kỳ trên tờ "Tin tức" (Izvestia) "Dòng thơ Nga" (13-8-1944), "Phụ nữ Nga" (19-8-1944). Nhưng năm 1959, họ đã chia tay nhau. Những ngày này, trên môi Olga không ngừng ngân lên những bài thơ tình yêu của Martynovski, của Pasternak, của Marina Svetaeva... Dường như, đó là "liệu pháp tinh thần" của bà vậy, để thấy mình không đơn độc chịu đựng nỗi đau chia lìa. Và cuối cùng, đương nhiên, bà tìm quên trong... thuốc lá và rượu. Thực ra, bà bắt đầu uống từ lâu, ngay từ khi bắt đầu chung sống với Georgi Makogonenko và thói quen xấu này đã khiến miệng lưỡi thế gian xúc xiểm bà khá nhiều. Họ thêu dệt đủ điều. Thật đau lòng khi tưởng ra cảnh người phụ nữ phúc hậu dịu dàng này chìm trong cơn mộng của ma men. Nhưng, nhìn lại những gì bà trải qua, chúng ta hoàn toàn hiểu bà. Đôi khi, cơn mê lại đem tới cho tâm hồn những khoảng lặng cứu rỗi vô cùng cần thiết. Tuy vậy, Olga không chìm mãi trong "rượu, mê, quên". Bà còn làm việc, làm việc say mê, hết lòng, hết sức cho đến cuối đời. "Cây ngải đắng" của nền Thi ca Xô-viết trong mọi nỗi bất hạnh vẫn sống, vẫn nở hoa, vẫn toả mùi hương cay cực cùng đời: Đời đã chia cắt đôi ta đã khiến mình xa mãi Em vẫn tin anh sáng trí sáng lòng Nhưng chưa bao giờ chạm tay vào mảnh đất kiệt cùng Hẳn anh chưa từng biết mùi ngải đắng Tôi mải mê hít căng mùi hương sâu lắng Ngải đắng đây, đắng ngắt tình đời Nỗi đau của loài người giản đơn vô hạn Đã trở thành niềm cay cực của riêng tôi Từ những cửa đập bê tông vẫn thoảng đưa về mùi hoa ngải Mùi hương yêu bất tử bay đến tận nhà tôi Thử hỏi làm sao tôi có thể chẳng cất lời Trở về sau đắng cay nói lời yêu khác trước. ("Những lá thư viết trên đường", 1952-1960 - Thuỵ Anh dịch) Olga Berggotlz mất năm 1975 tại Leningrad, để lại cho đời nhiều trường ca, các thi phẩm, các truyện ngắn, truyện vừa, nhiều kịch bản...: - "Uglich" (truyện vừa - 1932) - "Vùng sâu vùng xa" (tập ký về Kazakhstan - 1932) - "Nhật ký tháng Hai" (1942 - trường ca) - "Cuốn vở Leningrad" (1942) - "Lòng trung trinh" (trường ca - 1954) - "Những ngôi sao ban ngày" (1959 - văn xuôi tự sự trữ tình - tự truyện) (Bài viết của Thuỵ Anh) Olga Berggoltz là nữ thi sĩ Nga - Xô Viết, tên đầy đủ phụ danh là Olga Fiodorovna Berggoltz, sinh ngày mùng 3-5-1910 (theo lịch mới là ngày 16-5) tại Saint Petersburg (Petrograd). Thân phụ bà - Phedor Kristophorovich Berggoltz - mấy chục năm là bác sĩ của một nhà máy, chữa bệnh cho công nhân, nhưng trước đó ông từng là bác sĩ phẫu thuật phục vụ trong quân đội, kinh qua chiến tranh chống Đức dưới đế chế Nga hoàng, rồi tham gia chống Bạch vệ thời Nội chiến. Sau thời nội chiến loạn lạc, năm 1921, ông cùng vợ là bà Maria Timopheevna, hai con gái Olga và Maria tái đoàn tụ ở thành phố bên dòng sông Neva. (Trước đó, năm 1918, vợ ông đưa hai con nhỏ lánh về thành phố nhỏ yên tĩnh Uglich, tiếng là tránh tên rơi đạn lạc nhưng kỳ thực là để tránh nạn đói!) Olga đến với Thi Ca rất sớm. Những năm… Linh cảm - Предчувствие Khởi đầu - Начало Trận chiến - Бой Chiến thắng - Победа Ký ức - Память Olga Berggoltz - "cây ngải đắng" của nền Thi ca Xô Viết (phần 1) Đăng bởi Hoa Xuyên Tuyết vào 30/05/2007 22:12 Đã sửa 5 lần, lần cuối bởi Hoa Xuyên Tuyết vào 24/10/2009 12:44 Tác giả: Thuỵ Anh LỜI NGƯỜI VIẾT: Đã có biết bao huyền thoại được thêu dệt về mối tình kéo dài trong ký ức (cho dù cuộc hôn nhân lại vô cùng ngắn ngủi) của nữ sĩ người Nga Olga Bergholtz (1910-1975) và nhà thơ Nga sớm nổi danh nhưng cũng sớm chịu số phận đắng cay Boris Kornilov (1907-1938). Nhiều thế hệ người yêu thơ Việt Nam từng yêu cùng “nàng Olga” qua những bản dịch Việt ngữ ngọt ngào của nhà thơ Bằng Việt, và cũng chỉ thường chỉ nhớ đến cái tên Olga Bergholtz qua những bài thơ tình mơ mộng đầy nữ tính của bà. Mấy ai biết rằng, đường đời của Olga không chỉ có những mối tình. Bà đã trải qua vô vàn thử thách của số phận: sự ghẻ lạnh, hắt hủi của người đời, sự phản bội của bạn bè, những tháng ngày tủi nhục trong tù ngục, sự đau đớn khi mất những đứa con còn trứng nước… Song, điều đáng quý của Olga Bergholtz mà chúng ta đọc được đằng sau những dòng viết quằn quại bật máu của bà, là Olga vẫn giữ được tình yêu nồng nàn trong trái tim người phụ nữ, giữ được những suy nghĩ tha thiết với cuộc đời, giữ được niềm hy vọng đôi khi tưởng chừng đã tắt trong tâm. Chính nhờ những điều đó mà thơ của bà gần gũi với người đọc Việt Nam, một dân tộc luôn trân trọng tình người, và nhiều khi, phải nương vào tình người mà vượt lên trên mọi đau khổ. Viết về nữ sĩ Olga Bergholtz không dễ dàng vì tư liệu thì nhiều, nhưng có vô số hướng gợi mở, phân tích khác nhau. Song, là một người vốn hâm mộ nhà thơ, tôi thấy bất kỳ thông tin nào về Olga cũng đầy hấp dẫn, từ những mẩu chuyện về thời thơ ấu ngắn ngủi của bà cho đến những chuyện “hậu trường” của nền thi ca Xô-viết, gắn liền với những năm tháng đầy đau khổ hậu bán thập niên 30 và thời kỳ chiến tranh vệ quốc vĩ đại (1) sau đó. Lần giở lại một số trang nhật ký của Olga, đọc một số đoạn trích trong “Những ngôi sao ban ngày”, hồi ký của những người trong gia đình, của mẹ và em gái bà, của các nhà văn Nga đương thời và cả những nhà văn Nga hiện đại, tôi thử ghép lại thành một bức chân dung tỉ mỉ về người con gái Nga kỳ lạ này. Thực ra, tôi không muốn dùng từ “bà” để viết về Olga Bergholtz, mặc dù khi nằm xuống, Olga đã bước vào tuổi xế bóng đời người. Nhưng cuộc đời của nữ sĩ cùng những vần thơ Nàng viết không bao giờ “có tuổi” trong tâm khảm những người yêu mến Nàng, mặc dấu ấn của thời gian. Olga Bergholtz mãi mãi là “Nàng Thơ” của thành Petrograd của thành Len ngày nào. Nàng trẻ mãi. Và bất tử. Nghĩ đến Olga Bergholtz, không hiểu sao tôi lại muốn nhớ đến một loài cỏ dại đã từng xuất hiện trong thơ của Nàng: “Cây ngải đắng” – loài thảo mộc có mùi hương gợi niềm bất trắc nhưng lại có sức sống bền bỉ và kiên cường đã từng là ám ảnh Olga suốt nhiều năm. Và ngải đắng cũng đã từng là biểu tượng cho sự dằn vặt trong Tình yêu của người con gái nồng nàn nhưng can trường ấy: Rồi tôi vẫn nghiến răng bướng bỉnh Ngẩng cao đầu khép chặt lòng đau Hoa ơi hoa, hoa nở vì đâu Hoa ngải đắng của tình tôi yêu dấu? … Chẳng làm gì nữa đâu lời âu yếm vô ngần Của người dưng hay người tôi thương mến Muôn nẻo quanh tôi loài cỏ hoa quyến luyến Ngải đắng ơi, hoa ngải đắng tình tôi! (trích “Cây ngải đắng”, 1928 - Thụy Anh dịch) Phần 1: TUỔI THƠ NGẮN NGỦI VÀ HẠNH PHÚC Ngắn ngủi… vì Olga Bergholtz rời bỏ những ngây thơ thiếu nữ rất sớm: 16 tuổi yêu và 17 tuổi đã lấy chồng, 18 tuổi sinh con… Bà cũng sớm bước vào cuộc đời sáng tác mà ban đầu tưởng chừng chỉ có những niềm vui lấp lánh đầy mê hoặc. * Những người thân Olga Bergholtz sinh ngày mùng 3-5-1910 (theo lịch mới là ngày 16-5) tại Saint Peterburg (Petrograd). Thân phụ bà - Phedor Kristophorovich Bergholtz - mấy chục năm là bác sĩ của một nhà máy, chữa bệnh cho công nhân, nhưng trước đó ông từng là bác sĩ phẫu thuật phục vụ trong quân đội, kinh qua chiến tranh chống Đức dưới đế chế Nga hoàng, rồi tham gia chống Bạch vệ thời Nội chiến. Sau thời nội chiến loạn lạc, năm 1921, ông cùng vợ là bà Maria Timopheevna, hai con gái Olga và Maria tái đoàn tụ ở thành phố bên dòng sông Neva. (Trước đó, năm 1918, vợ ông đưa hai con nhỏ lánh về thành phố nhỏ yên tĩnh Uglich, tiếng là tránh tên rơi đạn lạc nhưng kỳ thực là để tránh nạn đói!) Ngôi nhà của gia đình Bergholtz ở cửa ô Nevski là một căn nhà gỗ hai tầng xinh đẹp với tám cửa sổ, nằm giữa những tán cây phong lớn và một mảnh vườn con trồng đủ các loại hoa. Phía sau nhà còn có một vườn táo với con đường mọc nhiều tử đinh hương thơm ngát. Cuối con đường, có một nhà bát giác nhỏ bằng kính nhiều màu, nơi mọi người có thể ngồi uống trà và trò chuyện cả trong những ngày Đông giá rét. Bây giờ, con phố nằm đằng sau ngôi nhà này được mang tên bà - phố Olga Bergholtz! Đại gia đình của Olga sống trên tầng hai, diện tích còn lại thì cho thuê. Gọi là cho thuê, nhưng quan hệ giữa chủ nhà và người thuê rất ấm áp như người một nhà. Căn nhà thuở ấu thơ ấy đã được Olga nhắc đến không ít lần một cách thân thương trong “Những ngôi sao ban ngày” (2), một cuốn sách có thể coi là tự truyện của bà. Tâm hồn nhạy cảm và gần gũi thiên nhiên mà Olga nhận được từ thuở thiếu thời, đôi khi khiến bà mềm yếu nhưng sau này, lại chính là sức mạnh tiềm tàng giúp bà trụ lại trước những thử thách của cuộc đời. Nếu không có những mùa hè rớt dưới mái nhà cha mẹ êm ấm chở che, chắc hẳn Olga không cảm nhận được sự chuyển động kỳ diệu của thiên nhiên như thế này: Có một mùa trong ánh sáng diệu kỳ, Cái nắng êm ru, màu trời không chói, Mùa hè rớt cho những người yếu đuối, Cứ ngỡ ngàng như lúc mới vào xuân. Trên má mơ hồ tơ nhện bay giăng, Se sẽ như không, nhẹ nhàng, phơ phất... Lanh lảnh bầy chim bay đi muôn nhặt, Hoa cuối mùa sặc sỡ đến lo âu. Những trận mưa rào đã tắt từ lâu, Tất cả thấm trên cánh đồng lặng sẫm, Hạnh phúc nhiều hơn mắt nhìn say đắm, Ghen tuông dù chua chát... cũng thưa hơn. (trích “Mùa hè rớt” - Bằng Việt dịch) Sau này, hình ảnh ngôi nhà thân thiết của cha mẹ còn xuất hiện nhiều lần trong thơ Olga, luôn là gam màu ấm nóng, trầm xuống bồi hồi trong bức tranh sôi động về cuộc chiến hoặc công cuộc lao động xây dựng đất nước, lắm khi đầy những khẩu hiệu, những lời tung hô: Chúng tôi ra mặt trận theo những đường phố quen thuộc Nhớ đến mỗi con đường như một giấc chiêm bao Đây hàng giậu của mái nhà tổ phụ Đây, trước kia, có cây phong to lớn lá rì rào. Xuân khi ấy, cây vươn tới chúng tôi qua cửa sổ Buổi sớm mai, óng ánh, mát tươi Nhưng đông này lạnh lùng u tối Bạn xanh ơi, bạn cũng chết rồi. (trích “Đường ra mặt trận”, 1942 - Xuân Diệu dịch) Những năm ấu thơ, Olga sống khá đầm ấm và hạnh phúc trong vòng tay của những người ruột thịt: cha mẹ; hai người bà: bà Olia nghiêm khắc và bà Masha hiền hậu (tên của hai bà được trân trọng đặt cho hai chị em nàng); và những cô, chú, bác dịu dàng khác - thường gọi nàng với cái tên rất âu yếm là Lialia, còn cô em gái của nàng là Musia... Hai chị em có bà vú Avdochia, người đã ôm chặt lấy Olga khi năm 1917, thành phố quê hương nàng rung chuyển trong tiếng súng vang rền, khiến tâm hồn non nớt của bé Lialia đầy lo sợ. Sau này, khi ở trong nhà lao, nàng đã nhớ về mái ấm của mình, về hạnh phúc êm ả tuổi thơ: Chị từng mơ thấy mái nhà xưa Nơi tuổi thơ ngây mình đã sống Nơi trái tim như thuở nào trông ngóng Một tình yêu, một hơi ấm chốn nương lòng Thấy cả đêm Giáng sinh và cả cây thông Thấy em gái cười to vui thích Thấy dịu dàng và đầy phấn khích Ô cửa hồng mới sáng sớm đã rực lên Và những món quà tặng nhau buổi đêm Lá thông tỏa mùi hương cổ tích Những đốm sao vàng đêm tĩnh mịch Ngay trên mái nhà của chị em ta … (trích “Gửi em gái”, 1939 - Thụy Anh dịch) Olga được thừa hưởng từ người cha mái tóc vàng và chiếc mũi hếch nghịch ngợm, đôi mắt xanh biếc trong vắt và bướng bỉnh. Nhưng nàng lại là đứa trẻ sớm nhạy cảm, gương mặt đôi khi mang một nỗi buồn kỳ lạ không lý giải nối. Nỗi buồn ấy được nhà văn Anninski (3) gọi là “nỗi sầu không lời và vô duyên cớ của tâm hồn Nga”. Nó len lỏi vào lòng Olga sau những lần chứng kiến cảnh bà vú Avdochia trong những ngày lễ tết, sau khi đã uống vài ba chén thường cất giọng hát một bài dân ca có lời buồn da diết, mặc dù âm điệu lại rất đỗi nhịp nhàng. Thế rồi nửa chừng, bà vú lại ôm mặt thổn thức. Những giọt nước mắt đầy cay đắng chẳng hiểu vì sao cứ rơi ra, tuồng như chẳng ai và chẳng có gì an ủi được. Olga - còn có tên thân mật là Olia hay Lialia - là cháu yêu của ông của bà, còn cô em gái Maria (Masha, Musia) là con yêu của mẹ của cha. Gia đình Bergholtz thường đùa như vậy, không phải vì Olia chỉ được ông bà yêu và Masha chỉ được cha mẹ chiều mà chỉ để nhấn mạnh sự quan tâm chiều chuộng của hai người bà đối với đứa cháu gái đầu Olia xinh xắn. Bà nội cũng tên là Olga có tính cách khá khắc nghiệt, và còn khắc nghiệt hơn nữa từ khi có con dâu (tức thân mẫu của Olga Bergholtz). Điều đó có thể lý giải bằng một sự ghen tuông rất thường tình của bà mẹ khi chứng kiến con trai yêu quý đắm đuối bên người vợ trẻ. Mọi tình cảm của bà dồn vào đứa cháu gái yêu như một sự “trả thù ngọt ngào”. Nhưng cũng chính điều này khiến tình cảm của Olia không được ổn định: nàng luôn bị giằng xé trong những cảm nhận hạnh phúc, vui sướng lẫn lộn với lo lắng và căng thẳng. Trong “Những ngôi sao ban ngày”, cô bé Olia nhận xét về bà mình: “Bà có những bức tranh thánh giống y nhau - toàn những gương mặt tối sầm giận dữ và dài ngoẵng… Bà chẳng cho chúng tôi động vào đồ vật gì trong nhà…- Bọn bay làm vỡ mất thôi, làm hỏng mất, làm sứt mất! Tránh tránh nào… Đừng động vào!”… Kể cả đồ chơi mà mọi người và chính bà tặng cho tôi bà cũng giữ gìn cấm đoán!” Nhưng rồi trong nhật ký ngày 20-1-1923, Olga lại ghi: “Hôm nay Olga Mikhailovna (bà nội nàng - ND) đã mở lòng với mình. Điều này khiến mình cảm động quá - Hóa ra bà nội thực chất rất bất hạnh và cô đơn khủng khiếp trong tâm hồn…” Ông bà nội thay nhau mua tặng Lialia của ông bà hết nơ lại tất chân, lại cả găng tay ren điệu đà nữa khiến cô bé đôi khi cảm thấy mình như một nàng công chúa nhỏ xinh đẹp vậy. Nhưng Olga cũng từng rất buồn, tâm trạng đôi lúc trầm uất khi bà nội luôn luôn tìm đủ mọi cớ để dày vò mẹ nàng, người mà bà cho rằng là nguyên nhân khiến cha nàng ngày càng gày yếu, vất vả đi… (đầu những năm 20, ông bị lâm bệnh sốt phát ban và nhiều thứ bệnh khác). Mẹ của Olia và Masha là một phụ nữ xinh đẹp, dịu dàng và chịu đựng. Sau mỗi lần mẹ chồng nổi cơn thịnh nộ thì Maria Timopheevna lại nhẫn nhịn xin lỗi, bắt chuyện làm hòa bằng giọng nói nhỏ nhẹ, hiền lành. Bà ngoại của Olia và Masha cũng rất hiền hậu. Sau khi sinh con gái đầu lòng, Maria Timopheevna trở nên ốm yếu, lại bị không khí căng thẳng trong quan hệ mẹ chồng nàng dâu “đầu độc”, bà ốm liên miên, mấy lần phải nằm bệnh viện. Bà ngoại của Olia và Masha luôn có mặt chăm sóc con gái mình, nâng đỡ con về mặt tinh thần. Những năm bước vào tuổi 60, bà ngoại vẫn làm việc không ngừng, ít khi tỏ ra u sầu. Bà là người kiên cường trong vỏ bọc một phụ nữ lam làm, nhường nhịn. Năm 1941, khi Olga Bergholtz đã bị cuốn vào vòng quay của cuộc sống đầy phức tạp trên thành phố, hiếm khi có dịp trở lại thăm cửa ô Nevski yêu dấu, bà ngoại ốm nặng rồi mất. Trong “Những ngôi sao ban ngày”, Olga tả những giây phút cuối cùng được gặp bà với nhiều xúc động: “Bà nằm trên chồng gối, choàng chiếc khăn ren màu trắng móc theo kiểu nông dân. Gương mặt bà trở nên bé nhỏ, teo tóp với những nếp nhăng ngang dọc. Đôi mắt trũng sâu nhưng ánh nhìn từ dưới hố mắt sâu thẳm ấy rất sáng và minh mẫn, lấp lánh sống động kỳ lạ. Nhưng điều khiến tôi ngạc nhiên rung động hơn cả là đôi tay đang đặt trên ngực bà: sao đôi bàn tay của bà có vẻ như to quá cỡ, biết bao nhiêu là vết chai và cục sần gồ lên, những sợi gân xanh lớn quấn quanh chúng. Đó là đôi tay của người đàn bà đã làm việc không nghỉ trọn vẹn 80 năm trời trong tổng số 87 năm sống trên đời, đôi tay của người mẹ đã sinh nở, chăm chút, thay tã, bế ẵm 14 đứa con và nhiều cháu chắt, đã từng tự mình chôn cất cho cả cháu, cả con. […] Tôi chợt nhớ đến những lần bà đưa tôi đi tắm hơi, đặt tôi ngồi trong chậu gỗ đựng đầy nước lạnh, lau bọt xà phòng làm xốn mắt tôi… khi ra khỏi nhà tắm hơi công cộng, bà còn mua kem ốc quế cho tôi ăn và cho uống nước kvas chua nữa… Còn tôi? Tôi đã làm được điều gì tốt đẹp cho bà, cho dì Vera, cho cha tôi? Chẳng có gì hết…” Trong gia đình, Olga rất gần gũi với cha, ông Phedor Kristophorovich. Giữa hai cha con có mối dây liên hệ vô thức nào đó khiến họ thông hiểu nhau, từ khi nàng còn là cô bé Lialia dễ vui sướng lại hay hờn giận cho đến lúc đã trở thành nữ sĩ tên tuổi. Thân phụ Olga cũng là người biết chịu đựng, không bao giờ than vãn về sự vất vả hay khổ sở của mình. Ngoài ra, ông còn không biết che giấu tình cảm, ông sôi nổi và đôi khi nông nổi nữa. Cả hồi nhỏ cho đến khi đã là quả phụ, Olga vẫn thường tìm về bên cha để hai cha con cùng ngồi im lặng trong căn phòng đạm bạc của ông. Khi đã rời mái nhà thân yêu bất chấp sự phản đối kịch liệt của cha, rồi bị bắt, nàng từng nhắc đến ông với niềm thương xót khôn nguôi trong bài “Gửi em gái”: Trong chật chội và bực mình khổ sở Nơi căn phòng đồ gỗ cũ mèm Vò võ sống cô đơn mỏi mệt Người cha mà ta đã nỡ bỏ quên Cha Olga cũng rất chăm chút gia đình, yêu vợ và chiều chuộng hai cô con gái. Trong trí nhớ của Olga, cha nàng thời trẻ rất… điển trai và phong độ trong bộ quần áo nhà binh, nhất là hồi ông trở về sau cuộc chiến với nước Đức thời Nga Hoàng. Ông có mái tóc vàng xoăn xoăn, có bộ ria rậm như các binh sĩ Nga thời đó, bộ ria mà chị em Olga hay đùa là “chiếc đuôi thò ra từ dưới mũi cha!” Mỗi lần nghe con gái nói vậy, ông Phedor Kristophorovich lại xoắn xoắn bộ ria và cất giọng hát vui vẻ một bài ca vui nhộn của lính: “Râu hỡi, ria ơi, sao ngừng xoắn lại – cô nàng của ta lại sắp ba hoa…” Trong truyện vừa “Uglich” (4) và tác phẩm “Những ngôi sao ban ngày”, Olga có nhiều trang thuật lại những mẩu chuyện thật thân mật về cha và các con gái. Đoạn hồi tưởng về cuộc gặp gỡ với cha sau khi cuộc nội chiến kết thúc rất ngộ nghĩnh: “Hai chị em chúng tôi đờ người ra vì sợ hãi: đầu cha nhẵn bóng, gương mặt gày tiều tụy, đen sạm và chẳng có tí ria nào, mà chúng tôi vẫn nghĩ là cha phải có bộ ria rất đẹp và mái tóc bồng bềnh cơ… - Bác là cha chúng cháu ạ? - Musia trịnh trọng hỏi…” Nhưng điều khiến Olga nhớ và ngưỡng mộ nhất là tình yêu giữa cha mẹ nàng. Họ yêu nhau nồng nàn, có ghen tuông, hờn giận, nhưng vẫn đầy lãng mạn trong khung cảnh thời chiến đói khổ. Những năm mẹ và hai cô con gái sống ở thành phố Uglich bên bờ sông Volga yên tĩnh, ông Phedor Kristophorovich có xin phép về thăm gia đình hai lần. Lần đầu tiên ông về có báo trước, khỏi phải nói thân mẫu Olga đã hồi hộp mong đợi thế nào! Bà viết trong nhật ký: “Tôi sắp xếp lại phòng cho tôi và Phedia (tên thân mật của Phedor – ND) - phòng chúng tôi có cầu thang riêng dẫn lên. Căn phòng bé xíu sơn đỏ xanh, chẳng có cái gì thừa cả: một cái giường, cái bàn con…Tôi mang vào đây những bông cúc dại, cắm khắp nơi những bó hoa cúc tuyệt diệu vì chính sự giản dị của mình… Khi Phedia cùng tôi bước vào phòng, anh thốt lên: - Trời, thật tuyệt! Anh rất thích! Bỏ áo bành-tô ra, anh ôm tôi vào ngực. Trời ơi, tôi hạnh phúc quá! Cả thế giới này đang ở trong hai chúng tôi, và chúng tôi đã ngập chìm trong thế giới ấy…” Có lẽ, sẽ không còn gì khó hiểu khi về sau, chúng ta được đọc những vần thơ viết về tình yêu say đắm và quay cuồng, như quên hết thảy mọi khái niệm không gian và thời gian, quên cả mọi lý lẽ… của nữ sĩ Olga Bergholtz: Không phải thế! Anh được yêu, anh có biết Vĩnh viễn anh là yêu dấu của em Em không tha thứ cho anh điều gì hết Cũng chẳng buông đôi tay ấm dịu hiền (trích “Không phải thế! Anh được yêu!”, 1940 - Thụy Anh dịch) Cảnh ấy, người ấy, không gian ấy... của tuổi ấu thơ đã như một tiền đề làm nên tâm hồn thi sĩ nhạy cảm, khao khát yêu thương của nàng! * Tiếp nhận lý tưởng mới, cuộc sống mới Gia đình Bergholtz tiếp nhận những biến đổi của thời cuộc một cách nhẹ nhàng, như thể cuộc sống vốn vậy. Họ không cần nghĩ ngợi gì nhiều, chỉ sống giản dị cùng với mạch sống của đất nước. Sau đây là một đoạn cảm động trong hồi ký của bà Maria - em gái của Olga Bergholtz - viết năm 1942, miêu tả cuộc đối thoại giữa người cha và cô con gái Olia khi ông chuẩn bị lên đường ra mặt trận sau một vài ngày được về thăm gia đình ở thành phố Uglich: “Cha ngồi bên giường Olia, tôi thấy ông xoa cái đầu bé nhỏ trăng trắng của chị và nói: “Cha không ở lại được, con ạ” - Olia không khóc, nhưng hỏi với vẻ buồn rầu, không, đau buồn thì đúng hơn..: “Người bênh đợi cha?” Ông nói: “Thương binh, con ạ”. Và rõ ràng có thể hiểu rằng như thế là sự việc quan trọng hơn nhiều. Olia nói câu gì đó rồi cả hai người ngồi im lặng rất lâu…” Rõ ràng, từ rất nhỏ, Olga đã cảm nhận được sâu sắc nghĩa vụ của người công dân đối với đất nước, con tim bà ngay từ hồi ấy đã biết buồn đau và biết dũng cảm chịu đựng nỗi buồn đau của mình vì những điều lớn lao hơn. Những điều này vẫn còn đó trên con đường mà Olga đã chọn, đã đi suốt cuộc đời mình, mặc cho những oan ức và dối lừa bà sẽ gặp... Chúng ta sẽ có dịp quay lại tìm hiểu sâu hơn “cảm hứng công dân” xuyên suốt một đời thơ Olga Bergholtz ở các phần sau. Khi Lenin mất, bà nội của Olga đã thắp nến trong nhà để tưởng nhớ, và Olga thì cảm thấy một nỗi buồn sâu sắc mà thời ấy những người công nhân vùng quê nàng đều cảm nhận. Thực ra, đó là âm hưởng chung của con người của một thời đại. Thậm chí, người ông của nàng với dòng dõi quý tộc xa xưa cũng từng giảng giải cho cô cháu gái bé nghe về trạm thủy điện đầu tiên của chính quyền Xô-viết xây dựng ở Volkhov, rằng nhờ có Lenin và chính quyền mới mà họ sẽ có một dòng điện công suất mạnh hơn, những cái bóng điện sẽ “to hơn, tròn hơn, sáng hơn và cả ngày có điện, khắp nơi có điện...” (“Những ngôi sao ban ngày”, trang 18). Niềm tin ấy có chút ngây thơ, nhưng là cái nhìn trong trẻo của những con người mở lòng với cuộc sống mới. Cũng vậy, còn rất non nớt với tuổi 15, 16 của mình, Olga đã mang niềm tin ấy trong tâm, hăm hở bước vào cuộc đời lao động và cống hiến: Thậm chí lũ chúng tôi còn cùng tưởng lại tuổi thơ xa vắng Ôn lại thời nội chiến năm nao, lời hiệu triệu cứu đói năm nào Rồi ánh điện đầu tiên từ Volkhov dâng trào Rọi thẳng vào tuổi thanh xuân Rọi vào ngôi trường yêu dấu Tưởng lại ngày rời chiếc bàn học sinh thơ ấu Bỏ lại cho các em, chúng tôi bước vào đời Đến với hăng say lao động, trải trước mắt sáng ngời: Tấm bản đồ khai hoang đất ông cha máu thịt Lấp lánh ngọn lửa nhiều màu vui say nồng nhiệt … (trích “Lại một mình đơn độc lên đường”, 1952 - Thụy Anh dịch) * Tập làm thơ Olga say mê văn học và đến với thi ca từ rất sớm. Người cha đóng vai trò quan trọng trong những sáng tác đầu tiên của cô thi sĩ bé bỏng, luôn muốn biết ý kiến của cha về những “tác phẩm” của mình. Olga viết trong “Những ngôi sao ban ngày” về thời điểm đầu năm 1924 như sau: “Trong gia đình mỗi người nhìn việc tôi làm thơ theo một kiểu khác nhau. Cha thì có bài thích bài không. Khi tôi đọc cho cha nghe bài thơ về khu vườn nhà chúng tôi, ông đã xoa đầu tôi rối bù cả lên và nói: “Tuyệt lắm… Y như Pushkin vậy!” và cả buổi chiều đi đi lại lại trong nhà theo thói quen, vò đầu tóc rối bù mà lẩm nhẩm dòng thơ đầu tiên trong bài ấy: “Người mơ màng, khu vườn cổ phủ đầy băng giá…” Khi tôi phải lòng một cậu chàng lớp chín bên cạnh thì tôi viết: “Hoa chuông ơi! Nồng nàn Ơi loài hoa dịu dàng Lóng lánh như lệ bạc Mộng thiếu nữ đa mang” Cha nghe rồi nói “Hừm... Ờ…” rồi lầm bầm hát một đoạn ca cổ: “Đa cảm! Đa cảm!.. Đa cảm quá, các ngài ơi..” Tôi khóc òa lên vì buồn giận. Mẹ thì dịu dàng an ủi và nói là thơ “xúc động, tình cảm” lắm, chỉ có điều cha không hiểu được thôi. Mẹ thì thấy tôi viết cái gì cũng khen, còn cha thì khác… Tôi biết là cha hiểu hết! Cha thường bảo: “Lialia, học đi con, học không phải với mục đích là sau này bị chồng bỏ thì có thể tự lo liệu cuộc sống cho mình. Con hãy học không phải vì cái tương lai kiểu ấy! Đừng có lúc nào cũng nghĩ ngợi và tấp tểnh chuyện chồng con, nghe chửa!” (trích “Những ngôi sao ban ngày”) Khi Lenin qua đời (năm 1924), Olga ngồi trong xó bếp, giấu mọi người viết những vần thơ: Những tiếng còi nhà máy chúng tôi Đang ca lên vang dội Hình như tất cả các nhà máy Đều quỳ gối Bởi chúng đã mồ côi Bởi Lenin đã mất Lenin thân yêu đã mất… Ấy thế mà chỉ lướt ngang qua sau lưng con gái đang ngồi thu lu với cây bút trong tay và cuốn vở nhỏ, ông Phedor đã hiểu ngay vấn đề. Ông động viên: “Con cứ viết đi, cha không làm phiền đâu. Nhưng nếu mà viết được thì cho cha xem nhé!” Và “tôi đã đọc cho cha nghe khi chỉ có hai cha con, không có mẹ, không có Musia, không có Avdochia bên cạnh. Tim tôi đập mạnh kinh khủng và khi đọc xong bài thơ thì tim còn nhảy loạn cả lên, mà cha thì vẫn chưa nói gì, chỉ nhìn tôi với ánh mắt rất chăm chú và mới lạ, sau đó đưa tay ra cầm trang viết im lặng đọc rồi nói nghiêm túc: - Con chép lại đi con, chép đẹp vào nhé. Cha sẽ đưa cho bích báo của nhà máy. Có thể họ sẽ in đấy. Cha cảm thấy là họ sẽ in…” (“Những ngôi sao ban ngày”, trang 114) Khi người cha sôi nổi thông báo tin bài thơ của cô con gái lần đầu tiên được đến với công chúng: “Chúc mừng con! Mọi người bảo là hay… Con đã trở thành thi sĩ thực thụ rồi đấy - họ đã in thơ con!”, không hiểu sao lúc ấy, cô bé Olga 14 tuổi cùng với sự vui sướng tột độ lại cảm thấy đôi chút sợ hãi, lo âu. Một linh cảm kỳ lạ chăng? Dầu thế nào mặc lòng, từ bấy giờ, Olga đã thề sẽ trở thành một nhà thơ thực sự, hơn thế nữa, là một nhà thơ của giai cấp vô sản. Mặc dù luôn có những linh cảm lạ lùng, khi ấy, người thiếu nữ trong sáng không hề biết rằng cuộc đời đầy biến động phía trước đang chờ đợi nàng với tất cả nỗi thống khổ cùng cực. Và, không phải ai cũng đứng vững được như bà, kiên cường đối mặt với mọi bất hạnh để giữ được trái tim tha thiết với tình yêu, với Tổ quốc, với số phận những con người… (Còn nữa...) (1) Người Nga phân biệt Chiến tranh Vệ quốc 1812 (chống quân đội của hoàng đế Pháp Napoleon) với Vệ quốc Vĩ đại 1941-45 (chống phát-xít Đức). (2) “Những ngôi sao ban ngày” (1959) là cuốn sách văn xuôi tự sự trữ tình, tự truyện của Olga Bergholtz. Năm 1968, sách được chuyển thể thành kịch bản và dựng thành bộ phim cùng tên về nữ sĩ Olga. Tác phẩm đã được Phan Quang dịch ra tiếng Việt (dựa trên bản tiếng Pháp của Jean Cathala), Nhà xuất bản Văn học in lần đầu năm 1963 (những đoạn thơ dài trong sách do Chế Lan Viên dịch). 3) Lev Alechsandrrovich Anninski (1934-): nhà phê bình văn học và điện ảnh Nga, tác giả bài nghiên cứu “Olga Bergholtz: “Tôi... người vợ góa của thành Leningrad” (tạp chí “Neva” số 6, 2005). (4) Uglich là một thành phố nhỏ bên bờ sông Volga. Đây cũng là tên một truyện vừa của Olga Bergholtz, viết năm 1932. Những đoạn dịch hồi ký, tư liệu... trong bài là của tác giả. Trong phần trích dẫn thơ, những phần có in đậm là tác giả mạn phép sửa của các dịch giả khác, mong được thể tất! Nguồn: Nhịp cầu thế giới - Hungary. http://www.nhipcauthegioi.hu/modules.php?name=News&op=viewst&sid=416 "Xin anh đừng hỏi vì sao Tên anh em để lẫn vào trong thơ..." ☆ ☆ ☆ ☆ ☆ Chưa có đánh giá nào Chia sẻ trên Facebook Olga Berggoltz và một vài nghi án văn chương Đăng bởi Hoa Xuyên Tuyết vào 09/11/2007 08:04 Đã sửa 5 lần, lần cuối bởi Hoa Xuyên Tuyết vào 24/10/2009 12:46 Tác giả: Thuỵ Anh Trong văn chương từ xưa đến nay, không hiếm những nhầm lẫn về tác giả, tác phẩm mà chúng ta vẫn hay gọi là kỳ án hay nghi án văn chương. Ở bài viết này, tôi xin nói đến trường hợp một số bài thơ đã và đang được gắn liền với tên tuổi của nữ sĩ Nga Olga Berggoltz. Là một người hâm mộ nhà thơ và có cất công tìm hiểu một phần di cảo thơ văn của bà, tôi muốn góp chút ý kiến nhằm cải chính một vài “nghi án” liên quan đến những thi phẩm rất quen thuộc, vốn được coi là của bà. 1. Đầu tiên là về hai bài thơ, được rất nhiều bạn đọc - trong số đó, có những thành viên nhiều diễn đàn thơ văn - cho rằng tác giả của chúng là Olga Berggoltz. Thậm chí, một trong hai bài thơ đó còn được in trang trọng một cuốn niên giám về Phụ nữ nào đó dưới tên của Olga. Đó là bài “Anh đi tìm em trên bán đảo Bancăng” của tác giả Khổng Văn Đương, một lưu học sinh Việt Nam từng học tập tại Romania. Điều này, về sau đã được làm rõ trên báo chí. (*) Tuy vậy, không ít địa chỉ trên mạng, các bạn trẻ vẫn tiếp tục nhầm lẫn. Đến hôm nay, đọc bài thơ này, tôi chợt nhớ có lần trên diễn đàn 3M, có bạn đã tự tin phán rằng, đó là sáng tác của Olga Berggoltz. Thông tin trên mạng lan rất nhanh, gần như ít ai nghĩ đến chuyện kiểm chứng nó, khiến một lần nữa, nữ sĩ Olga lại “được” đứng tên một tác phẩm “chưa chắc” đã phải của bà. Sở dĩ ở đây tôi nói “chưa chắc”, vì chưa dám khẳng định rằng mình thuộc nằm lòng hết các tác phẩm của nữ sĩ này. Song, có rất nhiều điều khiến tôi cảm nhận rằng, đó không phải là hơi thơ của Olga, kể cả là qua một bản dịch: NHỮNG NGƯỜI ĐÃI CÁT TÌM VÀNG Trên những dòng sông thế giới có những kẻ đãi cát tìm vàng năm tháng dài kiên nhẫn bền gan nhặt từng mười phần một người đãi vàng không bao giờ nóng ruột năm tháng không hề nghiền nát niềm tin tôi không tìm vàng, tôi chỉ tìm tình em vất vả gấp trăm nghìn lần đãi cát cát ở bờ sông lấy bao nhiêu chẳng được người ở thế gian chẳng của riêng mình tìm được một người yêu xây một mối tình rung động, yêu thương, giận hờn, nung nấu lúc điên cuồng như nước biển trào dâng lúc âm thầm như sương đọng long lanh không dám động sợ tan thành giọt nước người đãi vàng quý chút vàng tìm được anh thương em, anh quý mỗi nụ cười gom góp bao nhiêu để có một cuộc đời có giây phút rạng ngời hạnh phúc đời quá chua cay anh biến chua cay thành sức mạnh cho đường đi dài rộng thênh thang đời éo le nhiều ngõ dọc đường ngang anh kiêu hãnh vững vàng bước tới vì bên anh có tay em đón đợi bàn chân anh không mỏi bao giờ tôi từng lọc từng ý nghĩ vần thơ trăn trở suốt đêm dài thao thức để ca ngợi một mối tình đẹp nhất mà khó khăn hơn đãi cát tìm vàng. Đọc những tập thơ, ký, kịch bản của Olga Berggoltz xuất bản trong nhiều năm, tôi chưa một lần bắt gặp bài thơ nào bà viết đứng ở vị trí người con trai. Có thể tôi chưa được đọc hết, nhưng theo tôi được biết, nhân vật “tôi” trữ tình trong thơ Olga luôn luôn là nữ. Thơ tình của bà không nhiều. Những bài thơ viết trước khi bà bị rơi vào vòng oan ức thường mê đắm say sưa, nhưng không hề đơn giản. Chúng có tầng, có lớp, có thấp thoáng hình ảnh người con gái Nga đôi bím tóc vàng, có dòng Neva, ánh sao băng, những con đường mòn đầy hoa cỏ dại của rừng Nga, có tiếng lau sậy bên đầm lầy, những sân ga cô quạnh buổi chiều tà, v. v. Những thi phẩm sáng tác sau năm 1938 mang nối đau âm thầm, tuy vẫn trong trẻo và sôi nổi, kể cả những bài thơ sau này được nhiều người gọi là “thơ công dân”, thơ “khẩu hiệu”. Không bài nào thiếu hình ảnh đặc trưng cho nước Nga như những cánh rừng thân trắng lá xanh, chiếc gàu bạch dương, rặng anh đào, cây thùy dương… Vì những lý do ấy, bài thơ trên - hoàn toàn không có một hình ảnh, ý tứ nào gần gũi với tâm hồn Nga của Olga - cho tôi cảm nhận rõ rệt rằng, đó không phải là thơ viết ra từ ngòi bút sôi nổi yêu đời nhưng cũng mang nỗi đau day dứt trong tâm của nữ sĩ người Nga này. 2. Hai “nghi án” khác gián tiếp liên quan đến tên tuổi của Olga Berggoltz. VỀ "BÀI THƠ CUỘC ĐỜI" (được coi là do Bằng Việt dịch) Đừng nhắc nữa em ơi Lỗi lầm thời quá khứ. Ngôi sao bùng đốm lửa Đâu còn nữa màu xanh. Con chim nhỏ chuyền cành Cũng bay theo tiếng hát, Tìm một chiều giá buốt Hoa sặc sỡ lo âu. Dòng sông trôi về đâu Nói làm chi cho khổ Tình yêu con thuyền nhỏ Buồm trôi nơi xa khơi. Gặp gỡ, rồi chia phôi Yêu thương rồi oán trách Bây giờ đã xa cách Nhắc lại mà làm chi. Thời gian mãi trôi đi Buồn vui thành kỷ niệm Bài thơ là câu chuyện Của ban đầu tình yêu. Bài thơ này cũng được “phát tán” qua mạng, xuất phát từ một vài bản chép trong sổ tay của những người yêu thơ từ thập kỷ 70, trong đó có dòng chú thích: “Bài thơ Kornilov gửi Olga Berggoltz để đáp lại bài "Bài thơ cuộc đời" của bà”. Thế nhưng, xét theo năm mất của nhà thơ Kornilov (1938) và năm Olga viết bài "Gửi Kornilov” mà nhà thơ Bằng Việt đặt tên là "Bài thơ cuộc đời" (1940) thì câu trả lời cho “nghi án” này đã quá rõ ràng: tác phẩm ấy không phải do ngòi bút của nhà thơ tài danh và bạc mệnh ấy viết, đơn giản vì khi ấy ông đã qua đời! Vì thế, cho dù trong bài thơ “Về "Bài thơ cuộc đời” trên có nhắc đến rất nhiều những chi tiết quen thuộc từng xuất hiện trong thơ Olga (“ngôi sao bùng đốm lửa…”, “hoa sặc sỡ lo âu”) thì đó cũng không phải là cơ sở để nói rằng đây là thi phẩm của nhà thơ. Rất tiếc, thông tin phát tán trên mạng, chẳng có gì kiểm chứng được. Trong cuốn “Thơ trữ tình thế giới” do nhà thơ Bằng Việt dịch và giới thiệu (Nhà xuất bản Văn học, 2005), tôi cũng không thấy có mặt bài thơ này, mặc dù ở những nơi khác mà nó xuất hiện, người ta vẫn ghi bên cạnh bài thơ dòng chữ: “Người dịch: Bằng Việt”! Một bài thơ khác cũng gây nên những hoài nghi về nguồn gốc của nó, là bài “Chuyện mười năm trước”: CHUYỆN MƯỜI NĂM TRƯỚC (Người dịch: chưa rõ) Chỉ có một lần thôi, Em hỏi anh im lặng, Thế mà em hờn giận, Để chúng mình xa nhau. Biết đi đâu về đâu, Con thuyền không bến đợi? Ôi cây xanh tình đời, Có nghe lòng ta gọi? Những mùa xuân đã qua, Tiếng ve về thổn thức, Gió thổi vào đêm hè, Kể chuyện mười năm trước. Chỉ có một lần thôi, Em hỏi anh im lặng, Thế mà em hờn giận, Để chúng mình xa nhau. Nơi tình yêu bắt đầu, Cũng là điều khó nhất ! Trái tim dù biết hát, Nhưng tình đời dễ đâu ! Những đôi lứa yêu nhau, Có nghe tôi kể lại, Chỉ một lần trót dại, Thế mà thành chia phôi. Chỉ có một lần thôi, Em hỏi, anh im lặng... Trên nhiều diễn đàn, thậm chí tuyển thơ, người ta thường ghi chú rằng đó là tác phẩm của một tác giả Bessonov nào đó, người yêu Olga! Nhưng thông tin này cũng có cơ sở để bác bỏ, vì trong tất cả các ghi chép, hồi ký của Olga và của những người đương thời, chưa ai nhắc đến nhân vật kỳ lạ này. Rất có thể do một sự nhầm lẫn nào đó từ phía người Việt. Người Nga hẳn không thể ngờ rằng nhà thơ nữ Olga Berggoltz của họ đã có thêm một mối tình nữa, mối tình do những người yêu quý Olga ở Việt Nam “thêu dệt” nên! Cho đến khi, một số người lại gán bài thơ ấy cho Kornilov, người chồng đầu tiên của Olga. Âm hưởng bài thơ, theo tôi, rất gần gũi với cách viết của người Việt Nam: những “con thuyền không bến đợi”, những “tiếng ve”, “đêm hè”… khiến tôi chạnh nghĩ, phải chăng đây là thi phẩm của người Việt? Thêm nữa, văn phong và giọng thơ của cả hai bài thơ trên (“Về bài thơ cuộc đời” và “Chuyện mười năm trước”) hoàn toàn không phải của Kornilov! Boris Kornilov (1907-1938) là một nhà thơ sớm nổi danh, hồn thơ phóng khoáng, chịu ảnh hưởng rất lớn của Yesenin, song vẫn có những đột phá riêng, gần như không theo khuôn mẫu nào cả, nhất là về vần điệu. Những bài viết về Olga sau khi họ chia tay, tình cảm nồng nàn bị nén giữa những giận hờn, day dứt: ... Thôi thế là xong. Khi người đã lên đường Anh chạnh nghĩ, chỉ có điều không nói Anh nghĩ về dòng sông, về sân ga anh đã tới Và về miền đất của mình giống hệt một nhà ga…. (trích “Que diêm nhỏ cháy bùng rồi tắt lịm..." *) giữa những hằn học, bất cần: Tôi sẽ im, không còn tin nữa Vào tình yêu. Cô ấy đã đi rồi Theo bông tuyết đầu mùa.. Chao, diệu vợi Những nhảm nhí tràn vào óc tối hoang mang ... Chia tay em, tôi sẽ cúi đầu chào Thoải mái nhé em, được một mình một bóng Tặng lại tôi chai dầu thơm mùi nóng Kỷ niệm tôi cả những thỏi son môi Bóng đèn cong quầng sáng mặt bàn tôi Giường tôi nằm trên tầng ba cô độc Còn cần gì nữa đâu? Hai lăm xuân lộc ngộc Giờ tôi đã vui và dễ chịu lắm rồi. ("Tôi sẽ im, không còn tin nữa", 1933) và cả những ghen tuông, giận dỗi: Người thương ơi, em tìm được ai rồi? Mà ngân nga bài ca trong trẻo Thủ thỉ tâm tình, thay thế cho kẻ U uẩn một thời… là tôi Em đã hôn ai rồi Bên dòng Dunai, bên dòng Oka nước mát? … (trích “Tôi từng có người thương”, 1935) Trích dẫn những câu thơ trên để thấy rằng, giọng thơ của Boris Kornilov không êm ả như những gì ta đọc được trong “Về bài thơ cuộc đời” và “Chuyện mười năm trước”. Cái lý “gặp gỡ, chia phôi… nhắc lại làm chi”… không nằm trong “logic thơ” của ngòi bút sắc sảo này. Hơn nữa, cũng để thấy rằng, Olga Berggoltz và Boris Kornilov có thời gian sống chung rất ngắn ngủi, nhưng chuyện hai người chia tay không đơn giản là “một lần trót dại: anh hỏi, em yên lặng”. Lý do họ chia tay, cho đến tận bây giờ vẫn được những nhà nghiên cứu tiểu sử phân tích và phỏng đoán. Một trong những giả thiết đặt ra, đó là sự khó hòa hợp giữa hai con người tài hoa, nhạy cảm trong khi cuộc sống sinh hoạt khi ấy đầy rẫy những khó khăn… Qua những “nghi án” vừa nêu trên đây, tôi nghĩ: chúng ta may mắn được sống trong một thời đại “mở” về thông tin, có điều kiện tiếp xúc với thông tin nhiều chiều. Song, nếu không có bản lĩnh tiếp nhận và xử lý thông tin, không sàng lọc, so sánh, đã vội tin theo, và, thậm chí còn tiếp tục góp phần “dĩ ngoa truyền ngoa” thì thật là nguy hiểm. Như trong trường hợp này, còn thật đắc tội với hai nhà thơ mà chúng ta yêu mến! (***) Ghi chú: (*) "Nhà thơ Khổng Văn Đương và mối tình đẹp trong ký ức" ("VnExpress" ngày 23-1-2005) (**) Các bản dịch trong bài không đề tên dịch giả, là của người viết bài này. (***) Để có thêm thông tin và "rộng đường dư luận", người viết bài này đã xin thỉnh giáo nhà thơ, dịch giả Bằng Việt về những dịch phẩm được coi là của ông kể trên. Ông cho biết: hai bài thơ trên chắc chắn không phải của Olga Berggoltz và cũng không phải của một Bessonov nào cả. Và, cũng không phải ông đã dịch các bài đó. Nguồn: Nhịp Cầu Thế Giới online - Hungary http://www.nhipcauthegioi.hu/modules.php?name=News&op=viewst&sid=903 "Xin anh đừng hỏi vì sao Tên anh em để lẫn vào trong thơ..." ☆ ☆ ☆ ☆ ☆ Chưa có đánh giá nào Chia sẻ trên Facebook Olga Berggoltz, cây ngải đắng của nền thi ca Xô Viết (2) Đăng bởi Hoa Xuyên Tuyết vào 03/05/2008 17:27 Đã sửa 2 lần, lần cuối bởi Hoa Xuyên Tuyết vào 24/10/2009 12:46 Tác giả: Thuỵ Anh (NCTG) "Khi người cha sôi nổi thông báo tin bài thơ của cô con gái lần đầu tiên được đến với công chúng: “Chúc mừng con! Mọi người bảo là hay… Con đã trở thành thi sĩ thực thụ rồi đấy - họ đã in thơ con!”, không hiểu sao lúc ấy, cô bé Olga 14 tuổi cùng với sự vui sướng tột độ lại cảm thấy đôi chút sợ hãi, lo âu. Một linh cảm kỳ lạ chăng? Dầu thế nào mặc lòng, từ bấy giờ, Olga đã thề sẽ trở thành một nhà thơ thực sự, hơn thế nữa, là một nhà thơ của giai cấp vô sản. Mặc dù luôn có những linh cảm lạ lùng, khi ấy, người thiếu nữ trong sáng không hề biết rằng cuộc đời đầy biến động phía trước đang chờ đợi nàng với tất cả nỗi thống khổ cùng cực" (trích Phần 1 của bài viết) Phần 2: NHỮNG MỐI TÌNH TRONG ĐỜI: SAY MÊ VÀ THỐNG KHỔ Và thế là Olga dấn thân vào con đường xa xôi, kỳ ảo của Thi Ca. Những năm đầu tiên bước vào đời, Olga đã từng rất thân thiết và ý hợp tâm đầu với người bạn thơ Iaroslav Smeliakov (1913-1972), nhưng đến khi gặp chàng trai 19 tuổi Boris Kornilov trong một lần sinh hoạt với bút nhóm có tên "Kế tục" vào tháng 2-1926, nàng đã rơi vào ánh hào quang của một tình yêu "từ cái nhìn đầu tiên". Vẫn còn là trẻ thơ, non nớt nhưng say đắm, cô thiếu nữ 16 tuổi Olga Berggoltz đã đón nhận tình yêu đầu như đón nhận số phận của mình. Chàng trai trẻ có vóc dáng nhỏ bé, đội mũ kepka, biết đọc thơ mình sáng tác một cách lôi cuốn và say sưa đã khiến trái tim nàng rung động. Họ yêu nhau và chỉ mấy tháng sau đã thành vợ thành chồng. Olga sinh được một cô con gái Irina, nhưng về sau bé bị bệnh mà mất khi mới tròn 8 tuổi (1936). “Tính cách khắc nhau”, thậm chí thơ của họ cũng mang những đặc điểm đối chọi nhau, nói như Lev Anninsky (1), nhịp thơ nặng nề, trơn chuội của Kornilov ít có thể hòa hợp với cung đàn dâng trào thẳng băng của Berggoltz. Và vì thế (mà cũng chẳng chắc đã vì thế, bởi chuyện yêu đương rồi xa cách vốn dĩ luôn là điều bí ẩn), đôi tình nhân mê đắm này đã chia tay. Họ xa nhau, nhưng mối dây liên hệ sâu sắc giữa hai người vẫn còn, không lời, không hình ảnh, nhưng thiêng liêng đến mức khó hiểu. Mãi đến sau này, Olga vẫn không nguôi nhớ và đây đó trong các bài thơ, người ta vẫn mơ hồ hiểu Olga nhắc đến mối tình đầu của mình với niềm day dứt khôn nguôi. Sở dĩ người viết bài này dùng từ “mơ hồ” vì chỉ duy nhất có một bài thơ nữ sĩ ghi rõ “Gửi Boris Kornilov” (mà nhà thơ Bằng Việt tạm đặt tên là “Bài thơ cuộc đời”), sáng tác năm 1940, sau khi Kornilov đã mất được hai năm. Bài thơ này đã trở thành huyền thoại trong lòng người yêu thơ Việt Nam, qua bản dịch uyển chuyển và rất thành công của nhà thơ Bằng Việt (2). Khi viết bài thơ này, Olga mất liên lạc với Boris đã lâu, chỉ được biết rằng anh bị bắt – không ai rõ Kornilov bị đi đày giữa chốn Gulag xa hút, hay đã bỏ mình? Olga kiên nhẫn chờ đợi tin người, và không một phút nào tin vào cái chết của Boris Kornilov: Không, chẳng bao giờ em chấp nhận nổi đâu rằng anh đã qua đời, anh hãy tin em nhé Ranh giới giữa sáng tâm và loạn trí em bây giờ thường nhìn thấu được ra (“Không, chẳng bao giờ em chấp nhận nổi đâu”, 1938*) Đến Leningrad vào năm 1925, chàng trai 18 tuổi từ thành phố bên sông Volga đã từng rất nổi tiếng, là “cái hy vọng” của nền Thi ca Xô-Viết trẻ như lời khẳng định của nhiều người tại Đại hội lần thứ I các nhà văn Xô-Viết. Tháng 4-1925, “Ra biển!”, bài thơ đầu tiên của Boris Kornilov được đăng tải và rất được khen ngợi. Ảnh hưởng khá sâu sắc phong cách Esenin, nhưng anh vẫn giữ được cho mình nét riêng không trộn lẫn. Đó là những câu thơ mang nhịp điệu khá gập ghềnh, đôi lúc trúc trắc, khó đọc. Thi phẩm nổi tiếng nhất thời đó của Kornilov là “Bài ca chào đón” (1931) được nhạc sĩ tài danh Shostakovich (cũng là nhạc sĩ yêu thích nhất của Olga) phổ nhạc trong bộ phim “Người đón chờ” (1932): Ban mai đón ta bằng hơi giá Dòng sông đón ta bằng gió xa Cô gái tóc quăn hỡi, cớ sao em vẫn Không vui nghe tiếng còi tàu? Đừng ngủ nữa, tóc quăn ơi, hãy dậy mau Những đội thợ đã vào phân xưởng Đất nước bừng dậy cùng vinh quang Đón chào ngày mới (Olga có mái tóc xoăn vàng óng rất đẹp và ngay ở bài thơ mang âm hưởng ngợi ca cuộc sống mới này, nàng vẫn hiển hiện bên chàng!) Suốt hơn hai thập niên, cả nước hát bài ca ấy, ngợi ca nhịp điệu làm việc sôi nổi của một ngày mới trên đất nước Xô-viết. Có ai ngờ, chờ đón tác giả của nó lại là một ngày đen tối! Boris trở thành một trong những cái đích ngắm của nạn bạo hành thời Stalin sau khi anh viết bài thơ "Ngày cuối cùng của Kirov" (3). Vì bài thơ này, anh bị khép vào tội “phản cách mạng”. Năm 1936, Kornilov bị khai trừ khỏi Hội nhà văn Xô-viết. Tháng 3-1937, nhà thơ bị bắt. Thi phẩm cuối cùng của anh được đăng là những vần thơ về A. Pushkin. 20-2-1938, nhà thơ vĩnh viễn không bao giờ còn được làm thơ nữa: Boris Kornilov bị xử hình. (4) Từng là người thân của Boris, mặc dù đã rất xa, Olga Berggoltz vẫn không tránh khỏi liên lụy. Bà cũng rơi vào chốn ngục tù khi đang mang thai đứa con trai nhỏ, để rồi vĩnh viễn mất đứa bé cùng quyền làm mẹ. Về điều này, chúng ta sẽ còn trở lại vào các phần sau. Trong một tác phẩm của mình viết năm 1935, Boris Kornilov nhắc đến Olga với giọng thơ tha thiết đầy tiếc nuối: Người thương ơi, em tìm được ai rồi? Mà ngân nga bài ca trong trẻo Thủ thỉ tâm tình... thay thế cho kẻ U uẩn một thời… là tôi Em đã hôn ai rồi Bên dòng Dunai, bên dòng Oka nước mát Trên bến đợi, bên bờ đổ nát Bên dốc đứng kia nơi ào ạt sông này Anh chàng ấy sẽ cao thấp béo gầy? Xuân tới chàng ta bao nhiêu tuổi? Có dám bước đến đây đàng hoàng không bối rối Giản dị cất tiếng chào tôi? (“Tôi từng có người thương”, 1935 ) Có một điều thú vị là, cho dù bài thơ được viết từ năm 1935, nhưng nhiều hình ảnh nhắc nhở về cô đoàn viên Olga trẻ trung, trong sáng như thiên thần mà Boris gọi là "người vợ có đôi cánh trắng", cũng như những nơi nàng bước chân qua trong trí tưởng tượng của anh - tất cả đều từng có thực trong cuộc đời của Olga sau này, hệt như một sự tiên tri, một điềm báo. Chúng ta gặp lại những "bến đợi, bờ đổ nát, dốc đứng, dòng sông" trong thơ của Olga viết trong thập kỷ 40-50 của thế kỷ trước. Đó cũng là tiếc nuối: Tìm về bờ dốc cũ xưa Đối mặt tận cùng số mệnh Hạnh phúc một thời chống chếnh Là tôi... nhiều năm qua rồi Biển xanh biếc tận chân trời Hoàng hôn màu đồng ngút ngát Hoa cỏ dưới chân xào xạc Lại như... nhiều năm qua rồi Cũng hương bạc hà khắp nơi Cũng tiếng én kêu não ruột Làm sao lấy lại, anh ơi Những gì thân thương đã mất? ( “Cánh én bên bờ dốc đứng”, 1940) Đó cũng là một giấc mơ yêu: Một bến đợi lạ lùng trong đêm tối cuối trời Lửa sáng trên bờ, lửa ở sâu đáy nước Ai đó tôi không quen đứng chờ đây từ trước Mà từ xa tôi cũng có thể nhận ra Chỉ một phút nữa thôi tôi sẽ nghe thấy người ta: “Em đây rồi. Anh đến với em, em có biết?” Phút đầu tiên tôi không thốt nên lời gì hết Chỉ chìa tay đón số phận của mình... (“Lại một mình đơn độc lên đường”, trích “Chùm thơ về sông Đông – sông Volga”, 1950) Phải chăng, nàng Olga năm nào và mối tình say đắm đầu tiên vẫn thấp thoáng sống dậy trong suốt cuộc đời gian truân của nữ sĩ Berggoltz? Và mãi về sau, Olga vẫn thư

Olga Berggoltz là nữ thi sĩ Nga - Xô Viết, tên đầy đủ phụ danh là Olga Fiodorovna Berggoltz, sinh ngày mùng 3-5-1910 (theo lịch mới là ngày 16-5) tại Saint Petersburg (Petrograd).

Thân phụ bà - Phedor Kristophorovich Berggoltz - mấy chục năm là bác sĩ của một nhà máy, chữa bệnh cho công nhân, nhưng trước đó ông từng là bác sĩ phẫu thuật phục vụ trong quân đội, kinh qua chiến tranh chống Đức dưới đế chế Nga hoàng, rồi tham gia chống Bạch vệ thời Nội chiến. Sau thời nội chiến loạn lạc, năm 1921, ông cùng vợ là bà Maria Timopheevna, hai con gái Olga và Maria tái đoàn tụ ở thành phố bên dòng sông Neva. (Trước đó, năm 1918, vợ ông đưa hai con nhỏ lánh về thành phố nhỏ yên tĩnh Uglich, tiếng là tránh tên rơi đạn lạc nhưng kỳ thực là để tránh nạn đói!)

Olga đến với Thi Ca rất sớm. Những năm tuổi nhỏ, Olga say mê đọc các tác phẩm thơ ca trong tủ sách gia đình, đặc biệt yêu thơ Lermontov. Bài thơ đầu tiên được đăng trên báo tường của nhà máy, nơi thân phụ bà làm việc, là vào năm Olga tròn 14 tuổi. Bài thơ viết vào ngày Lenin qua đời. Viết bằng một tình cảm trong trẻo, hồn nhiên:
...Những tiếng còi nhà máy chúng tôi
Đang ca lên vang dội
Hình như tất cả các nhà máy
Đều quỳ gối
Bởi chúng đã mồ côi
Bởi Lenin đã mất
Lenin thân yêu đã mất...
Và có thể nói, đó là cái mốc quan trọng trong cuộc đời của Olga, là ngày mà Olga cảm nhận được sâu sắc rằng, mình sẽ trở thành nhà thơ! Năm 1925, tròn 15 tuổi, Olga đã tham gia bút nhóm "Kế tục" và tại đây, năm 1926, bà đã gặp tình yêu đầu của mình - nhà thơ Boris Kornilov. Vẫn còn là trẻ thơ, non nớt nhưng say đắm, cô thiếu nữ 16 tuổi Olga Berggoltz đã đón nhận tình yêu đầu như đón nhận số phận của mình. Chàng trai trẻ có vóc dáng nhỏ bé, đội mũ kepka, biết đọc thơ mình sáng tác một cách lôi cuốn và say sưa đã khiến trái tim nàng rung động. Họ yêu nhau và chỉ mấy tháng sau đã thành vợ thành chồng. Olga sinh được một cô con gái Irina, nhưng về sau bé bị bệnh mà mất khi mới tròn 8 tuổi (1936).

Năm 1926, Olga Berggoltz theo học khoá nghiên cứu Lịch sử nghệ thuật và năm 1927, bà được tuyển vào học ngành báo chí khoa Ngữ Văn trường Đại học Tổng hợp Leningrad. Ở đó, sau khi chia tay với Kornilov năm 1930, bà gặp Nikolai Molchanov (1909-1942) và đi bước nữa cùng ông. Buổi đầu bày tỏ tình yêu giữa đôi trai gái cũng vẫn xúc động không khác gì lần yêu đầu: một buổi sớm mai trên con đường dọc bờ sông vắng thưa người qua lại, không khí nao niết mùi hương toả ra từ những rặng thông, tiếng hải hâu kêu chao chác từ xa... thấp thoáng cánh trắng dập dềnh phía bầu trời ửng đỏ của rạng đông. Cảnh tượng ấy đã chứng kiến mối tình "mãi mãi" của Olga Berggoltz và Nikolai Molchanov. Hai con người trẻ tuổi cùng làm việc miệt mài bên nhau ở Alma-Ata (Kazakhstan) - khi ấy Olga là phóng viên báo "Thảo nguyên Xô-viết", cùng chiến đấu trong vòng phong toả của phát-xít Đức ở Leningrad và cùng chung sức trong rất nhiều dự định.

Sau khi người chồng đầu tiên là Kornilov bị bắt và bị khép tội phản động, rồi sau đó bị xử hình, từng là người thân của Boris, mặc dù đã rất xa, Olga Berggoltz vẫn không tránh khỏi liên luỵ. Bà cũng rơi vào chốn ngục tù vào tháng 12 năm 1938, khi đang mang thai đứa con trai nhỏ, để rồi vĩnh viễn mất đứa bé cùng quyền làm mẹ. Tháng 6 năm 1939, bà được ra tù, được phục hồi danh dự.

Thời kỳ chiến tranh Vệ quốc vĩ đại, Olga Berggotlz đã cống hiến sức mình trong việc củng cố, động viên tinh thần nhân dân Lenigrad suốt 900 ngày đêm thành Len bị rơi vào vòng phong toả của phát xít Đức. Bấy giờ, bà làm việc ở Đài phát thanh Leningrad, hàng ngày đọc bản tin, đọc thơ trong cái đói cái rét mà chính bà cùng các đồng nghiệp cũng phải chịu đựng. Nhưng giọng đọc rành rọt, chân thành của người phụ nữ này đã từng là nguồn động viên kịp thời đối với những con người Xô-Viết đang chết dần trong vòng vây. Olga trở thành Nàng Thơ của thành Len, trở thành biểu tượng cho những năm tháng đau khổ mà kiên cường này của những người dân Lenigrad.

Đầu năm 1942, khi nạn đói hoành hành đến cực điểm trong thành Len, Nikolai Molchanov đã qua đời, trong đau đớn. Olga, người phụ nữ kiên gan chịu đựng đói, khổ, đau đớn cả về thể xác lẫn tinh thần trong những ngày đêm Leningrad bị bao vây, đã "khóc một lần cho cả 900 ngày đêm ấy". Sau khi Molchanov qua đời, Olga đã đi bước nữa với Georgi Makogonenko, một đồng nghiệp.

Theo Lev Anninsky, Georgi Makogonenko đã làm mọi cách để Olga bình tâm lại, thậm chí, lấy quyền của một phó Phòng Văn nghệ BBT Đài Phát thanh Leningrad (nơi Olga làm việc suốt thời gian thành Len bị phong toả), ông đã "lệnh" cho bà phải viết cho xong thi phẩm "Nhật ký tháng Hai" kịp ngày lễ Quân đội 23-2-1942. Bởi ông nhìn rõ, chỉ có công việc mới cứu được Olga khỏi nỗi đau riêng. Bản trường ca ấy đã cứu được Olga, trả lại sự bình tâm cho bà, cũng như cứu được rất nhiều người đàn bà goá khác của Leningrad khỏi chìm đắm trong hồi ức đau thương. Và tình yêu, cho dẫu đầy ắp ghen tuông, day dứt, thì vẫn cứ là "hạnh phúc".

Hai người chính thức hoá quan hệ vợ chồng vào ngày 20-2-1949 (một sự trùng hợp kỳ lạ: đây cũng chính là ngày mất của Boris Kornilov!) mặc dù trước đó, ngay từ năm 1942, họ đã chung sống dưới một mái nhà. Con trai riêng của Georgi và thân phụ ông cùng sống với họ. Và hai vợ chồng cùng viết chung những vở kịch về Leningrad thời chiến; "Họ đã sống ở Leningrad" (1944), "Trên mảnh đất của chúng tôi..." (1947), kịch bản phim "Bản hợp xướng Leningrad" (1945), những trang bút ký đăng tải nhiều kỳ trên tờ "Tin tức" (Izvestia) "Dòng thơ Nga" (13-8-1944), "Phụ nữ Nga" (19-8-1944).

Nhưng năm 1959, họ đã chia tay nhau. Những ngày này, trên môi Olga không ngừng ngân lên những bài thơ tình yêu của Martynovski, của Pasternak, của Marina Svetaeva... Dường như, đó là "liệu pháp tinh thần" của bà vậy, để thấy mình không đơn độc chịu đựng nỗi đau chia lìa. Và cuối cùng, đương nhiên, bà tìm quên trong... thuốc lá và rượu. Thực ra, bà bắt đầu uống từ lâu, ngay từ khi bắt đầu chung sống với Georgi Makogonenko và thói quen xấu này đã khiến miệng lưỡi thế gian xúc xiểm bà khá nhiều. Họ thêu dệt đủ điều. Thật đau lòng khi tưởng ra cảnh người phụ nữ phúc hậu dịu dàng này chìm trong cơn mộng của ma men. Nhưng, nhìn lại những gì bà trải qua, chúng ta hoàn toàn hiểu bà. Đôi khi, cơn mê lại đem tới cho tâm hồn những khoảng lặng cứu rỗi vô cùng cần thiết.

Tuy vậy, Olga không chìm mãi trong "rượu, mê, quên". Bà còn làm việc, làm việc say mê, hết lòng, hết sức cho đến cuối đời. "Cây ngải đắng" của nền Thi ca Xô-viết trong mọi nỗi bất hạnh vẫn sống, vẫn nở hoa, vẫn toả mùi hương cay cực cùng đời:
Đời đã chia cắt đôi ta đã khiến mình xa mãi
Em vẫn tin anh sáng trí sáng lòng
Nhưng chưa bao giờ chạm tay vào mảnh đất kiệt cùng
Hẳn anh chưa từng biết mùi ngải đắng

Tôi mải mê hít căng mùi hương sâu lắng
Ngải đắng đây, đắng ngắt tình đời
Nỗi đau của loài người giản đơn vô hạn
Đã trở thành niềm cay cực của riêng tôi

Từ những cửa đập bê tông vẫn thoảng đưa về mùi hoa ngải
Mùi hương yêu bất tử bay đến tận nhà tôi
Thử hỏi làm sao tôi có thể chẳng cất lời
Trở về sau đắng cay nói lời yêu khác trước.
("Những lá thư viết trên đường", 1952-1960 - Thuỵ Anh dịch)
Olga Berggotlz mất năm 1975 tại Leningrad, để lại cho đời nhiều trường ca, các thi phẩm, các truyện ngắn, truyện vừa, nhiều kịch bản...:
- "Uglich" (truyện vừa - 1932)
- "Vùng sâu vùng xa" (tập ký về Kazakhstan - 1932)
- "Nhật ký tháng Hai" (1942 - trường ca)
- "Cuốn vở Leningrad" (1942)
- "Lòng trung trinh" (trường ca - 1954)
- "Những ngôi sao ban ngày" (1959 - văn xuôi tự sự trữ tình - tự truyện)

(Bài viết của Thuỵ Anh)
Olga Berggoltz là nữ thi sĩ Nga - Xô Viết, tên đầy đủ phụ danh là Olga Fiodorovna Berggoltz, sinh ngày mùng 3-5-1910 (theo lịch mới là ngày 16-5) tại Saint Petersburg (Petrograd).

Thân phụ bà - Phedor Kristophorovich Berggoltz - mấy chục năm là bác sĩ của một nhà máy, chữa bệnh cho công nhân, nhưng trước đó ông từng là bác sĩ phẫu thuật phục vụ trong quân đội, kinh qua chiến tranh chống Đức dưới đế chế Nga hoàng, rồi tham gia chống Bạch vệ thời Nội chiến. Sau thời nội chiến loạn lạc, năm 1921, ông cùng vợ là bà Maria Timopheevna, hai con gái Olga và Maria tái đoàn tụ ở thành phố bên dòng sông Neva. (Trước đó, năm 1918, vợ ông đưa hai con nhỏ lánh về thành phố nhỏ yên tĩnh Uglich, tiếng là tránh tên rơi đạn lạc nhưng kỳ thực là để tránh nạn đói!)

Olga đến với Thi Ca rất sớm. Những năm…

Linh cảm - Предчувствие

Khởi đầu - Начало

Trận chiến - Бой

Chiến thắng - Победа

Ký ức - Память

 

Ảnh đại diện

Olga Berggoltz - "cây ngải đắng" của nền Thi ca Xô Viết (phần 1)

Tác giả: Thuỵ Anh


LỜI NGƯỜI VIẾT: Đã có biết bao huyền thoại được thêu dệt về mối tình kéo dài trong ký ức (cho dù cuộc hôn nhân lại vô cùng ngắn ngủi) của nữ sĩ người Nga Olga Bergholtz (1910-1975) và nhà thơ Nga sớm nổi danh nhưng cũng sớm chịu số phận đắng cay Boris Kornilov (1907-1938). Nhiều thế hệ người yêu thơ Việt Nam từng yêu cùng “nàng Olga” qua những bản dịch Việt ngữ ngọt ngào của nhà thơ Bằng Việt, và cũng chỉ thường chỉ nhớ đến cái tên Olga Bergholtz qua những bài thơ tình mơ mộng đầy nữ tính của bà.

Mấy ai biết rằng, đường đời của Olga không chỉ có những mối tình. Bà đã trải qua vô vàn thử thách của số phận: sự ghẻ lạnh, hắt hủi của người đời, sự phản bội của bạn bè, những tháng ngày tủi nhục trong tù ngục, sự đau đớn khi mất những đứa con còn trứng nước… Song, điều đáng quý của Olga Bergholtz mà chúng ta đọc được đằng sau những dòng viết quằn quại bật máu của bà, là Olga vẫn giữ được tình yêu nồng nàn trong trái tim người phụ nữ, giữ được những suy nghĩ tha thiết với cuộc đời, giữ được niềm hy vọng đôi khi tưởng chừng đã tắt trong tâm. Chính nhờ những điều đó mà thơ của bà gần gũi với người đọc Việt Nam, một dân tộc luôn trân trọng tình người, và nhiều khi, phải nương vào tình người mà vượt lên trên mọi đau khổ.

Viết về nữ sĩ Olga Bergholtz không dễ dàng vì tư liệu thì nhiều, nhưng có vô số hướng gợi mở, phân tích khác nhau. Song, là một người vốn hâm mộ nhà thơ, tôi thấy bất kỳ thông tin nào về Olga cũng đầy hấp dẫn, từ những mẩu chuyện về thời thơ ấu ngắn ngủi của bà cho đến những chuyện “hậu trường” của nền thi ca Xô-viết, gắn liền với những năm tháng đầy đau khổ hậu bán thập niên 30 và thời kỳ chiến tranh vệ quốc vĩ đại (1) sau đó. Lần giở lại một số trang nhật ký của Olga, đọc một số đoạn trích trong “Những ngôi sao ban ngày”, hồi ký của những người trong gia đình, của mẹ và em gái bà, của các nhà văn Nga đương thời và cả những nhà văn Nga hiện đại, tôi thử ghép lại thành một bức chân dung tỉ mỉ về người con gái Nga kỳ lạ này.

Thực ra, tôi không muốn dùng từ “bà” để viết về Olga Bergholtz, mặc dù khi nằm xuống, Olga đã bước vào tuổi xế bóng đời người. Nhưng cuộc đời của nữ sĩ cùng những vần thơ Nàng viết không bao giờ “có tuổi” trong tâm khảm những người yêu mến Nàng, mặc dấu ấn của thời gian. Olga Bergholtz mãi mãi là “Nàng Thơ” của thành Petrograd của thành Len ngày nào. Nàng trẻ mãi. Và bất tử.

Nghĩ đến Olga Bergholtz, không hiểu sao tôi lại muốn nhớ đến một loài cỏ dại đã từng xuất hiện trong thơ của Nàng: “Cây ngải đắng” – loài thảo mộc có mùi hương gợi niềm bất trắc nhưng lại có sức sống bền bỉ và kiên cường đã từng là ám ảnh Olga suốt nhiều năm. Và ngải đắng cũng đã từng là biểu tượng cho sự dằn vặt trong Tình yêu của người con gái nồng nàn nhưng can trường ấy:

Rồi tôi vẫn nghiến răng bướng bỉnh
Ngẩng cao đầu khép chặt lòng đau
Hoa ơi hoa, hoa nở vì đâu
Hoa ngải đắng của tình tôi yêu dấu?

Chẳng làm gì nữa đâu lời âu yếm vô ngần
Của người dưng hay người tôi thương mến
Muôn nẻo quanh tôi loài cỏ hoa quyến luyến
Ngải đắng ơi, hoa ngải đắng tình tôi!
(trích “Cây ngải đắng”, 1928 - Thụy Anh dịch)



Phần 1: TUỔI THƠ NGẮN NGỦI VÀ HẠNH PHÚC

Ngắn ngủi… vì Olga Bergholtz rời bỏ những ngây thơ thiếu nữ rất sớm: 16 tuổi yêu và 17 tuổi đã lấy chồng, 18 tuổi sinh con… Bà cũng sớm bước vào cuộc đời sáng tác mà ban đầu tưởng chừng chỉ có những niềm vui lấp lánh đầy mê hoặc.

* Những người thân

Olga Bergholtz sinh ngày mùng 3-5-1910 (theo lịch mới là ngày 16-5) tại Saint Peterburg (Petrograd). Thân phụ bà - Phedor Kristophorovich Bergholtz - mấy chục năm là bác sĩ của một nhà máy, chữa bệnh cho công nhân, nhưng trước đó ông từng là bác sĩ phẫu thuật phục vụ trong quân đội, kinh qua chiến tranh chống Đức dưới đế chế Nga hoàng, rồi tham gia chống Bạch vệ thời Nội chiến. Sau thời nội chiến loạn lạc, năm 1921, ông cùng vợ là bà Maria Timopheevna, hai con gái Olga và Maria tái đoàn tụ ở thành phố bên dòng sông Neva. (Trước đó, năm 1918, vợ ông đưa hai con nhỏ lánh về thành phố nhỏ yên tĩnh Uglich, tiếng là tránh tên rơi đạn lạc nhưng kỳ thực là để tránh nạn đói!)

Ngôi nhà của gia đình Bergholtz ở cửa ô Nevski là một căn nhà gỗ hai tầng xinh đẹp với tám cửa sổ, nằm giữa những tán cây phong lớn và một mảnh vườn con trồng đủ các loại hoa. Phía sau nhà còn có một vườn táo với con đường mọc nhiều tử đinh hương thơm ngát. Cuối con đường, có một nhà bát giác nhỏ bằng kính nhiều màu, nơi mọi người có thể ngồi uống trà và trò chuyện cả trong những ngày Đông giá rét. Bây giờ, con phố nằm đằng sau ngôi nhà này được mang tên bà - phố Olga Bergholtz! Đại gia đình của Olga sống trên tầng hai, diện tích còn lại thì cho thuê. Gọi là cho thuê, nhưng quan hệ giữa chủ nhà và người thuê rất ấm áp như người một nhà. Căn nhà thuở ấu thơ ấy đã được Olga nhắc đến không ít lần một cách thân thương trong “Những ngôi sao ban ngày” (2), một cuốn sách có thể coi là tự truyện của bà.

Tâm hồn nhạy cảm và gần gũi thiên nhiên mà Olga nhận được từ thuở thiếu thời, đôi khi khiến bà mềm yếu nhưng sau này, lại chính là sức mạnh tiềm tàng giúp bà trụ lại trước những thử thách của cuộc đời. Nếu không có những mùa hè rớt dưới mái nhà cha mẹ êm ấm chở che, chắc hẳn Olga không cảm nhận được sự chuyển động kỳ diệu của thiên nhiên như thế này:

Có một mùa trong ánh sáng diệu kỳ,
Cái nắng êm ru, màu trời không chói,
Mùa hè rớt cho những người yếu đuối,
Cứ ngỡ ngàng như lúc mới vào xuân.

Trên má mơ hồ tơ nhện bay giăng,
Se sẽ như không, nhẹ nhàng, phơ phất...
Lanh lảnh bầy chim bay đi muôn nhặt,
Hoa cuối mùa sặc sỡ đến lo âu.

Những trận mưa rào đã tắt từ lâu,
Tất cả thấm trên cánh đồng lặng sẫm,
Hạnh phúc nhiều hơn mắt nhìn say đắm,
Ghen tuông dù chua chát... cũng thưa hơn.
(trích “Mùa hè rớt” - Bằng Việt dịch)

Sau này, hình ảnh ngôi nhà thân thiết của cha mẹ còn xuất hiện nhiều lần trong thơ Olga, luôn là gam màu ấm nóng, trầm xuống bồi hồi trong bức tranh sôi động về cuộc chiến hoặc công cuộc lao động xây dựng đất nước, lắm khi đầy những khẩu hiệu, những lời tung hô:

Chúng tôi ra mặt trận theo những đường phố quen thuộc
Nhớ đến mỗi con đường như một giấc chiêm bao
Đây hàng giậu của mái nhà tổ phụ
Đây, trước kia, có cây phong to lớn lá rì rào.

Xuân khi ấy, cây vươn tới chúng tôi qua cửa sổ
Buổi sớm mai, óng ánh, mát tươi
Nhưng đông này lạnh lùng u tối
Bạn xanh ơi, bạn cũng chết rồi.
(trích “Đường ra mặt trận”, 1942 - Xuân Diệu dịch)

Những năm ấu thơ, Olga sống khá đầm ấm và hạnh phúc trong vòng tay của những người ruột thịt: cha mẹ; hai người bà: bà Olia nghiêm khắc và bà Masha hiền hậu (tên của hai bà được trân trọng đặt cho hai chị em nàng); và những cô, chú, bác dịu dàng khác - thường gọi nàng với cái tên rất âu yếm là Lialia, còn cô em gái của nàng là Musia... Hai chị em có bà vú Avdochia, người đã ôm chặt lấy Olga khi năm 1917, thành phố quê hương nàng rung chuyển trong tiếng súng vang rền, khiến tâm hồn non nớt của bé Lialia đầy lo sợ. Sau này, khi ở trong nhà lao, nàng đã nhớ về mái ấm của mình, về hạnh phúc êm ả tuổi thơ:

Chị từng mơ thấy mái nhà xưa
Nơi tuổi thơ ngây mình đã sống
Nơi trái tim như thuở nào trông ngóng
Một tình yêu, một hơi ấm chốn nương lòng

Thấy cả đêm Giáng sinh và cả cây thông
Thấy em gái cười to vui thích
Thấy dịu dàng và đầy phấn khích
Ô cửa hồng mới sáng sớm đã rực lên

Và những món quà tặng nhau buổi đêm
Lá thông tỏa mùi hương cổ tích
Những đốm sao vàng đêm tĩnh mịch
Ngay trên mái nhà của chị em ta …
(trích “Gửi em gái”, 1939 - Thụy Anh dịch)

Olga được thừa hưởng từ người cha mái tóc vàng và chiếc mũi hếch nghịch ngợm, đôi mắt xanh biếc trong vắt và bướng bỉnh. Nhưng nàng lại là đứa trẻ sớm nhạy cảm, gương mặt đôi khi mang một nỗi buồn kỳ lạ không lý giải nối. Nỗi buồn ấy được nhà văn Anninski (3) gọi là “nỗi sầu không lời và vô duyên cớ của tâm hồn Nga”. Nó len lỏi vào lòng Olga sau những lần chứng kiến cảnh bà vú Avdochia trong những ngày lễ tết, sau khi đã uống vài ba chén thường cất giọng hát một bài dân ca có lời buồn da diết, mặc dù âm điệu lại rất đỗi nhịp nhàng. Thế rồi nửa chừng, bà vú lại ôm mặt thổn thức. Những giọt nước mắt đầy cay đắng chẳng hiểu vì sao cứ rơi ra, tuồng như chẳng ai và chẳng có gì an ủi được.

Olga - còn có tên thân mật là Olia hay Lialia - là cháu yêu của ông của bà, còn cô em gái Maria (Masha, Musia) là con yêu của mẹ của cha. Gia đình Bergholtz thường đùa như vậy, không phải vì Olia chỉ được ông bà yêu và Masha chỉ được cha mẹ chiều mà chỉ để nhấn mạnh sự quan tâm chiều chuộng của hai người bà đối với đứa cháu gái đầu Olia xinh xắn. Bà nội cũng tên là Olga có tính cách khá khắc nghiệt, và còn khắc nghiệt hơn nữa từ khi có con dâu (tức thân mẫu của Olga Bergholtz). Điều đó có thể lý giải bằng một sự ghen tuông rất thường tình của bà mẹ khi chứng kiến con trai yêu quý đắm đuối bên người vợ trẻ. Mọi tình cảm của bà dồn vào đứa cháu gái yêu như  một sự “trả thù ngọt ngào”. Nhưng cũng chính điều này khiến tình cảm của Olia không được ổn định: nàng luôn bị giằng xé trong những cảm nhận hạnh phúc, vui sướng lẫn lộn với lo lắng và căng thẳng.

Trong “Những ngôi sao ban ngày”, cô bé Olia nhận xét về bà mình: “Bà có những bức tranh thánh giống y nhau - toàn những gương mặt tối sầm giận dữ và dài ngoẵng… Bà chẳng cho chúng tôi động vào đồ vật gì trong nhà…- Bọn bay làm vỡ mất thôi, làm hỏng mất, làm sứt mất! Tránh tránh nào… Đừng động vào!”… Kể cả đồ chơi mà mọi người và chính bà tặng cho tôi bà cũng giữ gìn cấm đoán!” Nhưng rồi trong nhật ký ngày 20-1-1923, Olga lại ghi: “Hôm nay Olga Mikhailovna (bà nội nàng - ND) đã mở lòng với mình. Điều này khiến mình cảm động quá - Hóa ra bà nội thực chất rất bất hạnh và cô đơn khủng khiếp trong tâm hồn…”

Ông bà nội thay nhau mua tặng Lialia của ông bà hết nơ lại tất chân, lại cả găng tay ren điệu đà nữa khiến cô bé đôi khi cảm thấy mình như một nàng công chúa nhỏ xinh đẹp vậy.

Nhưng Olga cũng từng rất buồn, tâm trạng đôi lúc trầm uất khi bà nội luôn luôn tìm đủ mọi cớ để dày vò mẹ nàng, người mà bà cho rằng là nguyên nhân khiến cha nàng ngày càng gày yếu, vất vả đi… (đầu những năm 20, ông bị lâm bệnh sốt phát ban và nhiều thứ bệnh khác). Mẹ của Olia và Masha là một phụ nữ xinh đẹp, dịu dàng và chịu đựng. Sau mỗi lần mẹ chồng nổi cơn thịnh nộ thì Maria Timopheevna lại nhẫn nhịn xin lỗi, bắt chuyện làm hòa bằng giọng nói nhỏ nhẹ, hiền lành.

Bà ngoại của Olia và Masha cũng rất hiền hậu. Sau khi sinh con gái đầu lòng, Maria Timopheevna trở nên ốm yếu, lại bị không khí căng thẳng trong quan hệ mẹ chồng nàng dâu “đầu độc”, bà ốm liên miên, mấy lần phải nằm bệnh viện. Bà ngoại của Olia và Masha luôn có mặt chăm sóc con gái mình, nâng đỡ con về mặt tinh thần. Những năm bước vào tuổi 60, bà ngoại vẫn làm việc không ngừng, ít khi tỏ ra u sầu. Bà là người kiên cường trong vỏ bọc một phụ nữ lam làm, nhường nhịn.

Năm 1941, khi Olga Bergholtz đã bị cuốn vào vòng quay của cuộc sống đầy phức tạp trên thành phố, hiếm khi có dịp trở lại thăm cửa ô Nevski yêu dấu, bà ngoại ốm nặng rồi mất. Trong “Những ngôi sao ban ngày”, Olga tả những giây phút cuối cùng được gặp bà với nhiều xúc động:

“Bà nằm trên chồng gối, choàng chiếc khăn ren màu trắng móc theo kiểu nông dân. Gương mặt bà trở nên bé nhỏ, teo tóp với những nếp nhăng ngang dọc. Đôi mắt trũng sâu nhưng ánh nhìn từ dưới hố mắt sâu thẳm ấy rất sáng và minh mẫn, lấp lánh sống động kỳ lạ. Nhưng điều khiến tôi ngạc nhiên rung động hơn cả là đôi tay đang đặt trên ngực bà: sao đôi bàn tay của bà có vẻ như to quá cỡ, biết bao nhiêu là vết chai và cục sần gồ lên, những sợi gân xanh lớn quấn quanh chúng. Đó là đôi tay của người đàn bà đã làm việc không nghỉ trọn vẹn 80 năm trời trong tổng số 87 năm sống trên đời, đôi tay của người mẹ đã sinh nở, chăm chút, thay tã, bế ẵm 14 đứa con và nhiều cháu chắt, đã từng tự mình chôn cất cho cả cháu, cả con. […] Tôi chợt nhớ đến những lần bà đưa tôi đi tắm hơi, đặt tôi ngồi trong chậu gỗ đựng đầy nước lạnh, lau bọt xà phòng làm xốn mắt tôi… khi ra khỏi nhà tắm hơi công cộng, bà còn mua kem ốc quế cho tôi ăn và cho uống nước kvas chua nữa… Còn tôi? Tôi đã làm được điều gì tốt đẹp cho bà, cho dì Vera, cho cha tôi? Chẳng có gì hết…”

Trong gia đình, Olga rất gần gũi với cha, ông Phedor Kristophorovich. Giữa hai cha con có mối dây liên hệ vô thức nào đó khiến họ thông hiểu nhau, từ khi nàng còn là cô bé Lialia dễ vui sướng lại hay hờn giận cho đến lúc đã trở thành nữ sĩ tên tuổi. Thân phụ Olga cũng là người biết chịu đựng, không bao giờ than vãn về sự vất vả hay khổ sở của mình. Ngoài ra, ông còn không biết che giấu tình cảm, ông sôi nổi và đôi khi nông nổi nữa. Cả hồi nhỏ cho đến khi đã là quả phụ, Olga vẫn thường tìm về bên cha để hai cha con cùng ngồi im lặng trong căn phòng đạm bạc của ông. Khi đã rời mái nhà thân yêu bất chấp sự phản đối kịch liệt của cha, rồi bị bắt, nàng từng nhắc đến ông với niềm thương xót khôn nguôi trong bài “Gửi em gái”:

Trong chật chội và bực mình khổ sở
Nơi căn phòng đồ gỗ cũ mèm
Vò võ sống cô đơn mỏi mệt
Người cha mà ta đã nỡ bỏ quên

Cha Olga cũng rất chăm chút gia đình, yêu vợ và chiều chuộng hai cô con gái. Trong trí nhớ của Olga, cha nàng thời trẻ rất… điển trai và phong độ trong bộ quần áo nhà binh, nhất là hồi ông trở về sau cuộc chiến với nước Đức thời Nga Hoàng. Ông có mái tóc vàng xoăn xoăn, có bộ ria rậm như các binh sĩ Nga thời đó, bộ ria mà chị em Olga hay đùa là “chiếc đuôi thò ra từ dưới mũi cha!” Mỗi lần nghe con gái nói vậy, ông Phedor Kristophorovich lại xoắn xoắn bộ ria và cất giọng hát vui vẻ một bài ca vui nhộn của lính: “Râu hỡi, ria ơi, sao ngừng xoắn lại – cô nàng của ta lại sắp ba hoa…” Trong truyện vừa “Uglich” (4) và tác phẩm “Những ngôi sao ban ngày”, Olga có nhiều trang thuật lại những mẩu chuyện thật thân mật về cha và các con gái. Đoạn hồi tưởng về cuộc gặp gỡ với cha sau khi cuộc nội chiến kết thúc rất ngộ nghĩnh:

“Hai chị em chúng tôi đờ người ra vì sợ hãi: đầu cha nhẵn bóng, gương mặt gày tiều tụy, đen sạm và chẳng có tí ria nào, mà chúng tôi vẫn nghĩ là cha phải có bộ ria rất đẹp và mái tóc bồng bềnh cơ…

- Bác là cha chúng cháu ạ? - Musia trịnh trọng hỏi…”

Nhưng điều khiến Olga nhớ và ngưỡng mộ nhất là tình yêu giữa cha mẹ nàng. Họ yêu nhau nồng nàn, có ghen tuông, hờn giận, nhưng vẫn đầy lãng mạn trong khung cảnh thời chiến đói khổ. Những năm mẹ và hai cô con gái sống ở thành phố Uglich bên bờ sông Volga yên tĩnh, ông Phedor Kristophorovich có xin phép về thăm gia đình hai lần. Lần đầu tiên ông về có báo trước, khỏi phải nói thân mẫu Olga đã hồi hộp mong đợi thế nào! Bà viết trong nhật ký:

“Tôi sắp xếp lại phòng cho tôi và Phedia (tên thân mật của Phedor – ND) - phòng chúng tôi có cầu thang riêng dẫn lên. Căn phòng bé xíu sơn đỏ xanh, chẳng có cái gì thừa cả: một cái giường, cái bàn con…Tôi mang vào đây những bông cúc dại, cắm khắp nơi những bó hoa cúc tuyệt diệu vì chính sự giản dị của mình… Khi Phedia cùng tôi bước vào phòng, anh thốt lên:

- Trời, thật tuyệt! Anh rất thích!

Bỏ áo bành-tô ra, anh ôm tôi vào ngực. Trời ơi, tôi hạnh phúc quá! Cả thế giới này đang ở trong hai chúng tôi, và chúng tôi đã ngập chìm trong thế giới ấy…”

Có lẽ, sẽ không còn gì khó hiểu khi về sau, chúng ta được đọc những vần thơ viết về tình yêu say đắm và quay cuồng, như quên hết thảy mọi khái niệm không gian và thời gian, quên cả mọi lý lẽ… của nữ sĩ Olga Bergholtz:

Không phải thế! Anh được yêu, anh có biết
Vĩnh viễn anh là yêu dấu của em
Em không tha thứ cho anh điều gì hết
Cũng chẳng buông đôi tay ấm dịu hiền
(trích “Không phải thế! Anh được yêu!”, 1940 - Thụy Anh dịch)

Cảnh ấy, người ấy, không gian ấy... của tuổi ấu thơ đã như một tiền đề làm nên tâm hồn thi sĩ nhạy cảm, khao khát yêu thương của nàng!

* Tiếp nhận lý tưởng mới, cuộc sống mới

Gia đình Bergholtz tiếp nhận những biến đổi của thời cuộc một cách nhẹ nhàng, như thể cuộc sống vốn vậy. Họ không cần nghĩ ngợi gì nhiều, chỉ sống giản dị cùng với mạch sống của đất nước. Sau đây là một đoạn cảm động trong hồi ký của bà Maria - em gái của Olga Bergholtz - viết năm 1942, miêu tả cuộc đối thoại giữa người cha và cô con gái Olia khi ông chuẩn bị lên đường ra mặt trận sau một vài ngày được về thăm gia đình ở thành phố Uglich:

“Cha ngồi bên giường Olia, tôi thấy ông xoa cái đầu bé nhỏ trăng trắng của chị và nói: “Cha không ở lại được, con ạ” - Olia không khóc, nhưng hỏi với vẻ buồn rầu, không, đau buồn thì đúng hơn..: “Người bênh đợi cha?” Ông nói: “Thương binh, con ạ”. Và rõ ràng có thể hiểu rằng như thế là sự việc quan trọng hơn nhiều. Olia nói câu gì đó rồi cả hai người ngồi im lặng rất lâu…”

Rõ ràng, từ rất nhỏ, Olga đã cảm nhận được sâu sắc nghĩa vụ của người công dân đối với đất nước, con tim bà ngay từ hồi ấy đã biết buồn đau và biết dũng cảm chịu đựng nỗi buồn đau của mình vì những điều lớn lao hơn. Những điều này vẫn còn đó trên con đường mà Olga đã chọn, đã đi suốt cuộc đời mình, mặc cho những oan ức và dối lừa bà sẽ gặp... Chúng ta sẽ có dịp quay lại tìm hiểu sâu hơn “cảm hứng công dân” xuyên suốt một đời thơ Olga Bergholtz ở các phần sau.

Khi Lenin mất, bà nội của Olga đã thắp nến trong nhà để tưởng nhớ, và Olga thì cảm thấy một nỗi buồn sâu sắc mà thời ấy những người công nhân vùng quê nàng đều cảm nhận. Thực ra, đó là âm hưởng chung của con người của một thời đại. Thậm chí, người ông của nàng với dòng dõi quý tộc xa xưa cũng từng giảng giải cho cô cháu gái bé nghe về trạm thủy điện đầu tiên của chính quyền Xô-viết xây dựng ở Volkhov, rằng nhờ có Lenin và chính quyền mới mà họ sẽ có một dòng điện công suất mạnh hơn, những cái bóng điện sẽ “to hơn, tròn hơn, sáng hơn và cả ngày có điện, khắp nơi có điện...”  (“Những ngôi sao ban ngày”, trang 18).

Niềm tin ấy có chút ngây thơ, nhưng là cái nhìn trong trẻo của những con người mở lòng với cuộc sống mới. Cũng vậy, còn rất non nớt với tuổi 15, 16 của mình, Olga đã mang niềm tin ấy trong tâm, hăm hở bước vào cuộc đời lao động và cống hiến:

Thậm chí lũ chúng tôi còn cùng tưởng lại tuổi thơ xa vắng
Ôn lại thời nội chiến năm nao, lời hiệu triệu cứu đói năm nào
Rồi ánh điện đầu tiên từ Volkhov dâng trào
Rọi thẳng vào tuổi thanh xuân
Rọi vào ngôi trường yêu dấu

Tưởng lại ngày rời chiếc bàn học sinh thơ ấu
Bỏ lại cho các em, chúng tôi bước vào đời
Đến với hăng say lao  động, trải trước mắt sáng ngời:
Tấm bản đồ khai hoang đất ông cha máu thịt
Lấp lánh ngọn lửa nhiều màu vui say nồng nhiệt

(trích “Lại một mình đơn độc lên đường”, 1952 - Thụy Anh dịch)

* Tập làm thơ

Olga say mê văn học và đến với thi ca từ rất sớm. Người cha đóng vai trò quan trọng trong những sáng tác đầu tiên của cô thi sĩ bé bỏng, luôn muốn biết ý kiến của cha về những “tác phẩm” của mình.

Olga viết trong “Những ngôi sao ban ngày” về thời điểm đầu năm 1924 như sau:

“Trong gia đình mỗi người nhìn việc tôi làm thơ theo một kiểu khác nhau. Cha thì có bài thích bài không. Khi tôi đọc cho cha nghe bài thơ về khu vườn nhà chúng tôi, ông đã xoa đầu tôi rối bù cả lên và nói: “Tuyệt lắm… Y như Pushkin vậy!” và cả buổi chiều đi đi lại lại trong nhà theo thói quen, vò đầu tóc rối bù mà lẩm nhẩm dòng thơ đầu tiên trong bài ấy:

“Người mơ màng, khu vườn cổ phủ đầy băng giá…”

Khi tôi phải lòng một cậu chàng lớp chín bên cạnh thì tôi viết:

“Hoa chuông ơi! Nồng nàn
Ơi loài hoa dịu dàng
Lóng lánh như lệ bạc
Mộng thiếu nữ đa mang”

Cha nghe rồi nói “Hừm... Ờ…” rồi lầm bầm hát một đoạn ca cổ:

“Đa cảm! Đa cảm!..
Đa cảm quá, các ngài ơi..”

Tôi khóc òa lên vì buồn giận. Mẹ thì dịu dàng an ủi và nói là thơ “xúc động, tình cảm” lắm, chỉ có điều cha không hiểu được thôi. Mẹ thì thấy tôi viết cái gì cũng khen, còn cha thì khác… Tôi biết là cha hiểu hết!

Cha thường bảo: “Lialia, học đi con, học không phải với mục đích là sau này bị chồng bỏ thì có thể tự lo liệu cuộc sống cho mình. Con hãy học không phải vì cái tương lai kiểu ấy! Đừng có lúc nào cũng nghĩ ngợi và tấp tểnh chuyện chồng con, nghe chửa!”
(trích “Những ngôi sao ban ngày”)

Khi Lenin qua đời (năm 1924), Olga ngồi trong xó bếp, giấu mọi người viết những vần thơ:

Những tiếng còi nhà máy chúng tôi
Đang ca lên vang dội
Hình như tất cả các nhà máy
Đều quỳ gối
Bởi chúng đã mồ côi
Bởi Lenin đã mất
Lenin thân yêu đã mất…

Ấy thế mà chỉ lướt ngang qua sau lưng con gái đang ngồi thu lu với cây bút trong tay và cuốn vở nhỏ, ông Phedor đã hiểu ngay vấn đề. Ông động viên: “Con cứ viết đi, cha không làm phiền đâu. Nhưng nếu mà viết được thì cho cha xem nhé!”

Và “tôi đã đọc cho cha nghe khi chỉ có hai cha con, không có mẹ, không có Musia, không có Avdochia bên cạnh. Tim tôi đập mạnh kinh khủng và khi đọc xong bài thơ thì tim còn nhảy loạn cả lên, mà cha thì vẫn chưa nói gì, chỉ nhìn tôi với ánh mắt rất chăm chú và mới lạ, sau đó đưa tay ra cầm trang viết im lặng đọc rồi nói nghiêm túc:

- Con chép lại đi con, chép đẹp vào nhé. Cha sẽ đưa cho bích báo của nhà máy. Có thể họ sẽ in đấy. Cha cảm thấy là họ sẽ in…”
(“Những ngôi sao ban ngày”, trang 114)

Khi người cha sôi nổi thông báo tin bài thơ của cô con gái lần đầu tiên được đến với công chúng: “Chúc mừng con! Mọi người bảo là hay… Con đã trở thành thi sĩ thực thụ rồi đấy - họ đã in thơ con!”, không hiểu sao lúc ấy, cô bé Olga 14 tuổi cùng với sự vui sướng tột độ lại cảm thấy đôi chút sợ hãi, lo âu. Một linh cảm kỳ lạ chăng?

Dầu thế nào mặc lòng, từ bấy giờ, Olga đã thề sẽ trở thành một nhà thơ thực sự, hơn thế nữa, là một nhà thơ của giai cấp vô sản. Mặc dù luôn có những linh cảm lạ lùng, khi ấy, người thiếu nữ trong sáng không hề biết rằng cuộc đời đầy biến động phía trước đang chờ đợi nàng với tất cả nỗi thống khổ cùng cực.

Và, không phải ai cũng đứng vững được như bà, kiên cường đối mặt với mọi bất hạnh để giữ được trái tim tha thiết với tình yêu, với Tổ quốc, với số phận những con người…


(Còn nữa...)

(1) Người Nga phân biệt Chiến tranh Vệ quốc 1812 (chống quân đội của hoàng đế Pháp Napoleon) với Vệ quốc Vĩ đại 1941-45 (chống phát-xít Đức).

(2) “Những ngôi sao ban ngày” (1959) là cuốn sách văn xuôi tự sự trữ tình, tự truyện của Olga Bergholtz. Năm 1968, sách được chuyển thể thành kịch bản và dựng thành bộ phim cùng tên về nữ sĩ Olga.

Tác phẩm đã được Phan Quang dịch ra tiếng Việt (dựa trên bản tiếng Pháp của Jean Cathala), Nhà xuất bản Văn học in lần đầu năm 1963 (những đoạn thơ dài trong sách do Chế Lan Viên dịch).

3) Lev Alechsandrrovich Anninski (1934-): nhà phê bình văn học và điện ảnh Nga, tác giả bài nghiên cứu “Olga Bergholtz: “Tôi... người vợ góa của thành Leningrad” (tạp chí “Neva” số 6,  2005).

(4) Uglich là một thành phố nhỏ bên bờ sông Volga. Đây cũng là tên một truyện vừa của Olga Bergholtz, viết năm 1932.

Những đoạn dịch hồi ký, tư liệu... trong bài là của tác giả. Trong phần trích dẫn thơ, những phần có in đậm là tác giả mạn phép sửa của các dịch giả khác, mong được thể tất!

Nguồn: Nhịp cầu thế giới - Hungary. http://www.nhipcauthegioi.hu/modules.php?name=News&op=viewst&sid=416
"Xin anh đừng hỏi vì sao
Tên anh em để lẫn vào trong thơ..."
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Olga Berggoltz và một vài nghi án văn chương

Tác giả: Thuỵ Anh


Trong văn chương từ xưa đến nay, không hiếm những nhầm lẫn về tác giả, tác phẩm mà chúng ta vẫn hay gọi là kỳ án hay nghi án văn chương.

Ở bài viết này, tôi xin nói đến trường hợp một số bài thơ đã và đang được gắn liền với tên tuổi của nữ sĩ Nga Olga Berggoltz. Là một người hâm mộ nhà thơ và có cất công tìm hiểu một phần di cảo thơ văn của bà, tôi muốn góp chút ý kiến nhằm cải chính một vài “nghi án” liên quan đến những thi phẩm rất quen thuộc, vốn được coi là của bà.

1. Đầu tiên là về hai bài thơ, được rất nhiều bạn đọc - trong số đó, có những thành viên nhiều diễn đàn thơ văn - cho rằng tác giả của chúng là Olga Berggoltz. Thậm chí, một trong hai bài thơ đó còn được in trang trọng một cuốn niên giám về Phụ nữ nào đó dưới tên của Olga. Đó là bài “Anh đi tìm em trên bán đảo Bancăng” của tác giả Khổng Văn Đương, một lưu học sinh Việt Nam từng học tập tại Romania. Điều này, về sau đã được làm rõ trên báo chí. (*)

Tuy vậy, không ít địa chỉ trên mạng, các bạn trẻ vẫn tiếp tục nhầm lẫn.

Đến hôm nay, đọc bài thơ này, tôi chợt nhớ có lần trên diễn đàn 3M, có bạn đã tự tin phán rằng, đó là sáng tác của Olga Berggoltz.

Thông tin trên mạng lan rất nhanh, gần như ít ai nghĩ đến chuyện kiểm chứng nó, khiến một lần nữa, nữ sĩ Olga lại “được” đứng tên một tác phẩm “chưa chắc” đã phải của bà. Sở dĩ ở đây tôi nói “chưa chắc”, vì chưa dám khẳng định rằng mình thuộc nằm lòng hết các tác phẩm của nữ sĩ này. Song, có rất nhiều điều khiến tôi cảm nhận rằng, đó không phải là hơi thơ của Olga, kể cả là qua một bản dịch:

NHỮNG NGƯỜI ĐÃI CÁT TÌM VÀNG

Trên những dòng sông thế giới
có những kẻ đãi cát tìm vàng
năm tháng dài kiên nhẫn bền gan
nhặt từng mười phần một
người đãi vàng không bao giờ nóng ruột
năm tháng không hề nghiền nát niềm tin

tôi không tìm vàng, tôi chỉ tìm tình em
vất vả gấp trăm nghìn lần đãi cát
cát ở bờ sông lấy bao nhiêu chẳng được
người ở thế gian chẳng của riêng mình

tìm được một người yêu xây một mối tình
rung động, yêu thương, giận hờn, nung nấu
lúc điên cuồng như nước biển trào dâng
lúc âm thầm như sương đọng long lanh
không dám động sợ tan thành giọt nước

người đãi vàng quý chút vàng tìm được
anh thương em, anh quý mỗi nụ cười
gom góp bao nhiêu để có một cuộc đời
có giây phút rạng ngời hạnh phúc

đời quá chua cay
anh biến chua cay thành sức mạnh
cho đường đi dài rộng thênh thang
đời éo le nhiều ngõ dọc đường ngang
anh kiêu hãnh vững vàng bước tới
vì bên anh có tay em đón đợi
bàn chân anh không mỏi bao giờ

tôi từng lọc từng ý nghĩ vần thơ
trăn trở suốt đêm dài thao thức
để ca ngợi một mối tình đẹp nhất
mà khó khăn hơn đãi cát tìm vàng.

Đọc những tập thơ, ký, kịch bản của Olga Berggoltz xuất bản trong nhiều năm, tôi chưa một lần bắt gặp bài thơ nào bà viết đứng ở vị trí người con trai. Có thể tôi chưa được đọc hết, nhưng theo tôi được biết, nhân vật “tôi” trữ tình trong thơ Olga luôn luôn là nữ. Thơ tình của bà không nhiều. Những bài thơ viết trước khi bà bị rơi vào vòng oan ức thường mê đắm say sưa, nhưng không hề đơn giản. Chúng có tầng, có lớp, có thấp thoáng hình ảnh người con gái Nga đôi bím tóc vàng, có dòng Neva, ánh sao băng, những con đường mòn đầy hoa cỏ dại của rừng Nga, có tiếng lau sậy bên đầm lầy, những sân ga cô quạnh buổi chiều tà, v. v.

Những thi phẩm sáng tác sau năm 1938 mang nối đau âm thầm, tuy vẫn trong trẻo và sôi nổi, kể cả những bài thơ sau này được nhiều người gọi là “thơ công dân”, thơ “khẩu hiệu”. Không bài nào thiếu hình ảnh đặc trưng cho nước Nga như những cánh rừng thân trắng lá xanh, chiếc gàu bạch dương, rặng anh đào, cây thùy dương…

Vì những lý do ấy, bài thơ trên - hoàn toàn không có một hình ảnh, ý tứ nào gần gũi với tâm hồn Nga của Olga - cho tôi cảm nhận rõ rệt rằng, đó không phải là thơ viết ra từ ngòi bút sôi nổi yêu đời nhưng cũng mang nỗi đau day dứt trong tâm của nữ sĩ người Nga này.

2. Hai “nghi án” khác gián tiếp liên quan đến tên tuổi của Olga Berggoltz.

VỀ "BÀI THƠ CUỘC ĐỜI"
(được coi là do Bằng Việt dịch)

Đừng nhắc nữa em ơi
Lỗi lầm thời quá khứ.
Ngôi sao bùng đốm lửa
Đâu còn nữa màu xanh.

Con chim nhỏ chuyền cành
Cũng bay theo tiếng hát,
Tìm một chiều giá buốt
Hoa sặc sỡ lo âu.

Dòng sông trôi về đâu
Nói làm chi cho khổ
Tình yêu con thuyền nhỏ
Buồm trôi nơi xa khơi.

Gặp gỡ, rồi chia phôi
Yêu thương rồi oán trách
Bây giờ đã xa cách
Nhắc lại mà làm chi.

Thời gian mãi trôi đi
Buồn vui thành kỷ niệm
Bài thơ là câu chuyện
Của ban đầu tình yêu.

Bài thơ này cũng được “phát tán” qua mạng, xuất phát từ một vài bản chép trong sổ tay của những người yêu thơ từ thập kỷ 70, trong đó có dòng chú thích: “Bài thơ Kornilov gửi Olga Berggoltz để đáp lại bài "Bài thơ cuộc đời" của bà”. Thế nhưng, xét theo năm mất của nhà thơ Kornilov (1938) và năm Olga viết bài "Gửi Kornilov” mà nhà thơ Bằng Việt đặt tên là "Bài thơ cuộc đời" (1940) thì câu trả lời cho “nghi án” này đã quá rõ ràng: tác phẩm ấy không phải do ngòi bút của nhà thơ tài danh và bạc mệnh ấy viết, đơn giản vì khi ấy ông đã qua đời!

Vì thế, cho dù trong bài thơ “Về "Bài thơ cuộc đời” trên có nhắc đến rất nhiều những chi tiết quen thuộc từng xuất hiện trong thơ Olga (“ngôi sao bùng đốm lửa…”, “hoa sặc sỡ lo âu”) thì đó cũng không phải là cơ sở để nói rằng đây là thi phẩm của nhà thơ.

Rất tiếc, thông tin phát tán trên mạng, chẳng có gì kiểm chứng được. Trong cuốn “Thơ trữ tình thế giới” do nhà thơ Bằng Việt dịch và giới thiệu (Nhà xuất bản Văn học, 2005), tôi cũng không thấy có mặt bài thơ này, mặc dù ở những nơi khác mà nó xuất hiện, người ta vẫn ghi bên cạnh bài thơ dòng chữ: “Người dịch: Bằng Việt”!

Một bài thơ khác cũng gây nên những hoài nghi về nguồn gốc của nó, là bài “Chuyện mười năm trước”:

CHUYỆN MƯỜI NĂM TRƯỚC
(Người dịch: chưa rõ)

Chỉ có một lần thôi,
Em hỏi anh im lặng,
Thế mà em hờn giận,
Để chúng mình xa nhau.

Biết đi đâu về đâu,
Con thuyền không bến đợi?
Ôi cây xanh tình đời,
Có nghe lòng ta gọi?

Những mùa xuân đã qua,
Tiếng ve về thổn thức,
Gió thổi vào đêm hè,
Kể chuyện mười năm trước.

Chỉ có một lần thôi,
Em hỏi anh im lặng,
Thế mà em hờn giận,
Để chúng mình xa nhau.

Nơi tình yêu bắt đầu,
Cũng là điều khó nhất !
Trái tim dù biết hát,
Nhưng tình đời dễ đâu !

Những đôi lứa yêu nhau,
Có nghe tôi kể lại,
Chỉ một lần trót dại,
Thế mà thành chia phôi.

Chỉ có một lần thôi,
Em hỏi, anh im lặng...

Trên nhiều diễn đàn, thậm chí tuyển thơ, người ta thường ghi chú rằng đó là tác phẩm của một tác giả Bessonov nào đó, người yêu Olga! Nhưng thông tin này cũng có cơ sở để bác bỏ, vì trong tất cả các ghi chép, hồi ký của Olga và của những người đương thời, chưa ai nhắc đến nhân vật kỳ lạ này. Rất có thể do một sự nhầm lẫn nào đó từ phía người Việt. Người Nga hẳn không thể ngờ rằng nhà thơ nữ Olga Berggoltz của họ đã có thêm một mối tình nữa, mối tình do những người yêu quý Olga ở Việt Nam “thêu dệt” nên! Cho đến khi, một số người lại gán bài thơ ấy cho Kornilov, người chồng đầu tiên của Olga.

Âm hưởng bài thơ, theo tôi, rất gần gũi với cách viết của người Việt Nam: những “con thuyền không bến đợi”, những “tiếng ve”, “đêm hè”… khiến tôi chạnh nghĩ, phải chăng đây là thi phẩm của người Việt?


Thêm nữa, văn phong và giọng thơ của cả hai bài thơ trên (“Về bài thơ cuộc đời” và “Chuyện mười năm trước”) hoàn toàn không phải của Kornilov! Boris Kornilov (1907-1938) là một nhà thơ sớm nổi danh, hồn thơ phóng khoáng, chịu ảnh hưởng rất lớn của Yesenin, song vẫn có những đột phá riêng, gần như không theo khuôn mẫu nào cả, nhất là về vần điệu. Những bài viết về Olga sau khi họ chia tay, tình cảm nồng nàn bị nén giữa những giận hờn, day dứt:

... Thôi thế là xong.
Khi người đã lên đường
Anh chạnh nghĩ,
chỉ có điều không nói
Anh nghĩ về dòng sông,
về sân ga anh đã tới
Và về miền đất của mình giống hệt một nhà ga….
(trích “Que diêm nhỏ cháy bùng rồi tắt lịm..." *)

giữa những hằn học, bất cần:

Tôi sẽ im, không còn tin nữa
Vào tình yêu. Cô ấy đã đi rồi
Theo bông tuyết đầu mùa.. Chao, diệu vợi
Những nhảm nhí tràn vào óc tối hoang mang
...

Chia tay em, tôi sẽ cúi đầu chào
Thoải mái nhé em, được một mình một bóng
Tặng lại tôi chai dầu thơm mùi nóng
Kỷ niệm tôi cả những thỏi son môi

Bóng đèn cong quầng sáng mặt bàn tôi
Giường tôi nằm trên tầng ba cô độc
Còn cần gì nữa đâu? Hai lăm xuân lộc ngộc
Giờ tôi đã vui và dễ chịu lắm rồi.
("Tôi sẽ im, không còn tin nữa", 1933)

và cả những ghen tuông, giận dỗi:

Người thương ơi, em tìm được ai rồi?
Mà ngân nga bài ca trong trẻo
Thủ thỉ tâm tình, thay thế cho kẻ
U uẩn một thời… là tôi
Em đã hôn ai rồi
Bên dòng Dunai, bên dòng Oka nước mát?

(trích “Tôi từng có người thương”, 1935)

Trích dẫn những câu thơ trên để thấy rằng, giọng thơ của Boris Kornilov không êm ả như những gì ta đọc được trong “Về bài thơ cuộc đời” và “Chuyện mười năm trước”. Cái lý “gặp gỡ, chia phôi… nhắc lại làm chi”… không nằm trong “logic thơ” của ngòi bút sắc sảo này. Hơn nữa, cũng để thấy rằng, Olga Berggoltz  và Boris Kornilov có thời gian sống chung rất ngắn ngủi, nhưng chuyện hai người chia tay không đơn giản là “một lần trót dại: anh hỏi, em yên lặng”. Lý do họ chia tay, cho đến tận bây giờ vẫn được những nhà nghiên cứu tiểu sử phân tích và phỏng đoán. Một trong những giả thiết đặt ra, đó là sự khó hòa hợp giữa hai con người tài hoa, nhạy cảm trong khi cuộc sống sinh hoạt khi ấy đầy rẫy những khó khăn…
 
Qua những “nghi án” vừa nêu trên đây, tôi nghĩ: chúng ta may mắn được sống trong một thời đại “mở” về thông tin, có điều kiện tiếp xúc với thông tin nhiều chiều. Song, nếu không có bản lĩnh tiếp nhận và xử lý thông tin, không sàng lọc, so sánh, đã vội tin theo, và, thậm chí còn tiếp tục góp phần “dĩ ngoa truyền ngoa” thì thật là nguy hiểm.

Như trong trường hợp này, còn thật đắc tội với hai nhà thơ mà chúng ta yêu mến! (***)

Ghi chú:

(*) "Nhà thơ Khổng Văn Đương và mối tình đẹp trong ký ức" ("VnExpress" ngày 23-1-2005)

(**) Các bản dịch trong bài không đề tên dịch giả, là của người viết bài này.

(***) Để có thêm thông tin và "rộng đường dư luận", người viết bài này đã xin thỉnh giáo nhà thơ, dịch giả Bằng Việt về những dịch phẩm được coi là của ông kể trên. Ông cho biết: hai bài thơ trên chắc chắn không phải của Olga Berggoltz và cũng không phải của một Bessonov nào cả. Và, cũng không phải ông đã dịch các bài đó.

Nguồn: Nhịp Cầu Thế Giới online - Hungary http://www.nhipcauthegioi.hu/modules.php?name=News&op=viewst&sid=903
"Xin anh đừng hỏi vì sao
Tên anh em để lẫn vào trong thơ..."
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Olga Berggoltz, cây ngải đắng của nền thi ca Xô Viết (2)

Tác giả: Thuỵ Anh


(NCTG) "Khi người cha sôi nổi thông báo tin bài thơ của cô con gái lần đầu tiên được đến với công chúng: “Chúc mừng con! Mọi người bảo là hay… Con đã trở thành thi sĩ thực thụ rồi đấy - họ đã in thơ con!”, không hiểu sao lúc ấy, cô bé Olga 14 tuổi cùng với sự vui sướng tột độ lại cảm thấy đôi chút sợ hãi, lo âu. Một linh cảm kỳ lạ chăng?
Dầu thế nào mặc lòng, từ bấy giờ, Olga đã thề sẽ trở thành một nhà thơ thực sự, hơn thế nữa, là một nhà thơ của giai cấp vô sản. Mặc dù luôn có những linh cảm lạ lùng, khi ấy, người thiếu nữ trong sáng không hề biết rằng cuộc đời đầy biến động phía trước đang chờ đợi nàng với tất cả nỗi thống khổ cùng cực" (trích Phần 1 của bài viết)



Phần 2: NHỮNG MỐI TÌNH TRONG ĐỜI: SAY MÊ VÀ THỐNG KHỔ

Và thế là Olga dấn thân vào con đường xa xôi, kỳ ảo của Thi Ca.
Những năm đầu tiên bước vào đời, Olga đã từng rất thân thiết và ý hợp tâm đầu với người bạn thơ Iaroslav Smeliakov (1913-1972), nhưng đến khi gặp chàng trai 19 tuổi Boris Kornilov trong một lần sinh hoạt với bút nhóm có tên "Kế tục" vào tháng 2-1926, nàng đã rơi vào ánh hào quang của một tình yêu "từ cái nhìn đầu tiên".


Vẫn còn là trẻ thơ, non nớt nhưng say đắm, cô thiếu nữ 16 tuổi Olga Berggoltz đã đón nhận tình yêu đầu như đón nhận số phận của mình. Chàng trai trẻ có vóc dáng nhỏ bé, đội mũ kepka, biết đọc thơ mình sáng tác một cách lôi cuốn và say sưa đã khiến trái tim nàng rung động. Họ yêu nhau và chỉ mấy tháng sau đã thành vợ thành chồng. Olga sinh được một cô con gái Irina, nhưng về sau bé bị bệnh mà mất khi mới tròn 8 tuổi (1936).
“Tính cách khắc nhau”, thậm chí thơ của họ cũng mang những đặc điểm đối chọi nhau, nói như Lev Anninsky (1), nhịp thơ nặng nề, trơn chuội của Kornilov ít có thể hòa hợp với cung đàn dâng trào thẳng băng của Berggoltz. Và vì thế (mà cũng chẳng chắc đã vì thế, bởi chuyện yêu đương rồi xa cách vốn dĩ luôn là điều bí ẩn), đôi tình nhân mê đắm này đã chia tay. Họ xa nhau, nhưng mối dây liên hệ sâu sắc giữa hai người vẫn còn, không lời, không hình ảnh, nhưng thiêng liêng đến mức khó hiểu. Mãi đến sau này, Olga vẫn không nguôi nhớ và đây đó trong các bài thơ, người ta vẫn mơ hồ hiểu Olga nhắc đến mối tình đầu của mình với niềm day dứt khôn nguôi. Sở dĩ người viết bài này dùng từ “mơ hồ” vì chỉ duy nhất có một bài thơ nữ sĩ ghi rõ “Gửi Boris Kornilov” (mà nhà thơ Bằng Việt tạm đặt tên là “Bài thơ cuộc đời”), sáng tác năm 1940, sau khi Kornilov đã mất được hai năm. Bài thơ này đã trở thành huyền thoại trong lòng người yêu thơ Việt Nam, qua bản dịch uyển chuyển và rất thành công của nhà thơ Bằng Việt (2).
Khi viết bài thơ này, Olga mất liên lạc với Boris đã lâu, chỉ được biết rằng anh bị bắt – không ai rõ Kornilov bị đi đày giữa chốn Gulag xa hút, hay đã bỏ mình? Olga kiên nhẫn chờ đợi tin người, và không một phút nào tin vào cái chết của Boris Kornilov:
 
Không, chẳng bao giờ em chấp nhận nổi đâu
rằng anh đã qua đời, anh hãy tin em nhé
Ranh giới giữa sáng tâm và loạn trí
em bây giờ thường nhìn thấu được ra
(“Không, chẳng bao giờ em chấp nhận nổi đâu”, 1938*)

Đến Leningrad vào năm 1925, chàng trai 18 tuổi từ thành phố bên sông Volga đã từng rất nổi tiếng, là “cái hy vọng” của nền Thi ca Xô-Viết trẻ như lời khẳng định của nhiều người tại Đại hội lần thứ I các nhà văn Xô-Viết. Tháng 4-1925, “Ra biển!”, bài thơ đầu tiên của Boris Kornilov được đăng tải và rất được khen ngợi. Ảnh hưởng khá sâu sắc phong cách Esenin, nhưng anh vẫn giữ được cho mình nét riêng không trộn lẫn. Đó là những câu thơ mang nhịp điệu khá gập ghềnh, đôi lúc trúc trắc, khó đọc. Thi phẩm nổi tiếng nhất thời đó của Kornilov là “Bài ca chào đón” (1931) được nhạc sĩ tài danh Shostakovich (cũng là nhạc sĩ yêu thích nhất của Olga) phổ nhạc trong bộ phim “Người đón chờ” (1932):
Ban mai đón ta bằng hơi giá
Dòng sông đón ta bằng gió xa
Cô gái tóc quăn hỡi, cớ sao em vẫn
Không vui nghe tiếng còi tàu?
Đừng ngủ nữa, tóc quăn ơi, hãy dậy mau
Những đội thợ đã vào phân xưởng
Đất nước bừng dậy cùng vinh quang
Đón chào ngày mới
(Olga có mái tóc xoăn vàng óng rất đẹp và ngay ở bài thơ mang âm hưởng ngợi ca cuộc sống mới này, nàng vẫn hiển hiện bên chàng!)

Suốt hơn hai thập niên, cả nước hát bài ca ấy, ngợi ca nhịp điệu làm việc sôi nổi của một ngày mới trên đất nước Xô-viết. Có ai ngờ, chờ đón tác giả của nó lại là một ngày đen tối! Boris trở thành một trong những cái đích ngắm của nạn bạo hành thời Stalin sau khi anh
Bài liên quan

Doãn Mậu 尹懋

Doãn Mậu 尹懋 người Hà Gian, làm tòng sự cho Trương Thuyết 張說 ở Nhạc Châu, quan bổ khuyết.

Dư Đồng Lộc 余同麓

Dư Đồng Lộc 余同麓 đời Nguyên.

Pavel Grigorjevich Antokolsky Павел Григорьевич Антокольский

Pavel Antokolsky (1/7/1896 – 9/10/1978) sinh ở Sankt-Peterburg trong gia đình một luật sư. Từ bé đã rất say mê hội họa và đã trình bày một số cuốn sách của mình. Năm 1904 cả gia đình chuyển về Moskva, Pavel Antokolsky học ở trường gymnazy và sau đó học luật ở Đại học Moskva nhưng không tốt nghiệp. ...

Doãn Ngạc 尹鶚

Doãn Ngạc 尹鶚, người Thành Đô, nước Tiền Thục đời Ngũ Đại, giữ chức Hàn lâm giáo thư, đến hàng tam khanh. Ông tư chất thông minh, giỏi thơ từ.

Vladimir Aleksandrovich Lugovskoi Владимир Александрович Луговской

Vladimir Aleksandrovich Lugovskoi sinh năm 1901 tại Matxcơva, trong gia đình có thân phụ là giáo viên dạy văn, mẹ là ca sĩ. Tuổi thơ Lugovski trôi qua bên những trang sách, những bản nhạc và những câu chuyện cổ tích của nhũ mẫu. Năm 1919 học trường ĐH sư phạm quân sự rồi ra trận. Từ năm 1924 bắt đầu ...

Du Thứ Công 遊次公

Du Thứ Công 遊次公 tự Tử Minh 子明, hiệu Tây Trì 西池, Hàn Nham 寒岩, người Kiến An, là một nhà lý học. Cuối năm Can Đạo làm quan trong phủ của Phạm Thành Đại 范成大, cùng xướng hoạ. Năm Phù Ninh thứ 14 (1187) làm Nghị lang thông phán tại Đinh Châu. Tác phẩm có Xướng thù thi quyển 倡酬詩卷 và 5 bài từ.

Dương Đạt 楊達

Dương Đạt 楊達 (548-612) tự Sĩ Đạt 士達, là dòng dõi tông thất nhà Tuỳ, con của Dương Thiệu 楊紹, em trai của Dương Hùng 楊雄. Ông thi đỗ dưới triều Bắc Chu, làm Nội sử hạ đại phu. Năm 581, nhà Tuỳ lập, ông làm Cấp sự hoàng môn thị lang rồi thăng các chức Sử bộ thị lang, Thứ sử Thiện châu, Trịnh châu, Việt ...

Sergei Orlov Сергeй Орлов

Sergei Orlov (1921-1977) sinh tại làng Megra gần Belozersk. Là nhà thơ. Bắt đầu sáng tác thơ từ hồi còn ngồi trên ghế nhà trường. Những năm 1950-1960, thơ của ông đã được xuất bản thành sách. Ngày nay ở Belozersk có viện bảo tàng và tượng đài mang tên ông.

Semion Gudzenko Семен Гудзенко

Semion Gudzenko (1922-1953) là nhà thơ Xô Viết, từng tham gia chiến tranh Vệ quốc vĩ đại (1941-1945). Sinh tại Kiev, Ukraina. Năm 1939 thi đỗ vào học viện Văn Sử Triết tại Matxcơva. Năm 1941 xung phong ra trận. Bị thương nặng trong chiến đấu. Cuốn sách đầu tay được xuất bản năm 1944. Sau chiến tranh ...

Dương Bằng 楊憑

Dương Bằng 楊憑 tự Hư Thụ 虚受, người Hoằng Nông, trọng khí tiết, kết bạn cùng Mục Chất 穆質, Hứa Mạnh Dung 許孟容, Lý Dung 李鄘, Quyền Đức Dư 權德輿. Ông cùng hai em là Dương Ngưng 楊凝, Dương Lăng 楊凌 đều đỗ tiến sĩ. Ông từng giữ các chức Tiết độ phủ, Giám sát ngự sử, Hồ Nam quan sát sứ, quan đến Kinh Triệu doãn.

Mới nhất

THPT Đinh Tiên Hoàng

THPT Đinh Tiên Hoàng đang không ngừng nỗ lực phát triển trở thành một ngôi trường với chất lượng giảng dạy tốt nhất, tạo ra những thế hệ học sinh chất lượng

THPT Thực nghiệm

Trường THPT Thực Nghiệm trực thuộc Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam. Trường là cơ sở giáo dục đào tạo công lập trong hệ thống giáo dục quốc dân và trong hệ thống các trường phổ thông của thành phố Hà Nội. Trường dạy học theo chương trình giáo dục Trung học phổ thông của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Tiếp ...

THPT Đông Kinh

Khẩu hiệu hành động: “ Hãy đặt mình vào vị trí cha mẹ học sinh để giảng giải giáo dục và xử lý công việc ” “ Tất cả vì học sinh thân yêu ”

THPT Hà Nội Academy

Những rào cản còn tồn tại kể trên sẽ được vượt qua bởi những công dân toàn cầu tích cực với nhiệm vụ chung tay xây dựng một thế giới tốt đẹp hơn thông qua việc nghiên cứu và tìm kiếm giải pháp cho những vấn đề toàn cầu bao gồm, nhưng không giới hạn ở nhân quyền, đói nghèo và công bằng xã hội. Nhận ...

http://thptkimlien-hanoi.edu.vn/

Qua 40 năm nỗ lực phấn đấu trong các hoạt động giáo dục, vượt khó khăn, thiếu thốn về cơ sở vật chất, trường THPT Kim Liên đã tạo dựn được uy tín vững chắc, là 1 trong 5 trường THPT hàng đầu của Thủ đô có chất lượng giáo dục toàn diện không ngừng nâng cao và trở thành địa chỉ tin cậy của các bậc ...

THPT Tô Hiến Thành

Trường THPT Tô Hiến Thành được thành lập từ năm học 1995-1996, theo quyết định của Ủy Ban nhân dân tỉnh Thanh Hóa. Đến tháng 6/2010, trường chuyển đổi loại hình sang công lập. Suốt 20 năm phát triển, thầy, cô giáo, thế hệ học sinh đã phấn đấu vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, từng bước phát triển ...

THPT Mai Hắc Đế

Trường THPT Mai Hắc Đế được thành lập năm 2009, sau gần 10 năm xây dựng và phát triển, Trường đã trở thành một địa chỉ tin cậy trong đào tạo bậc THPT trên địa bàn Hà Nội.

Trường Trung học phổ thông Nguyễn Gia Thiều

Nhìn lại chặng đường gần 60 năm xây dựng và trưởng thành , các thế hệ giáo viên và học sinh trường Nguyễn Gia Thiều có thể tự hào về truyền thống vẻ vang của trường ; tự hào vì trường đã đóng góp cho đất nước những Anh hùng , liệt sĩ , những người chiến sĩ , nhà khoa học , trí thức , những cán bộ ...

Trường Trung học phổ thông MV.Lô-mô-nô-xốp

Sứ mệnh Xây dựng Hệ thống giáo dục Lômônôxốp có môi trường học tập nền nếp, kỉ cương, chất lượng giáo dục cao; học sinh được giáo dục toàn diện, có cơ hội, điều kiện phát triển phẩm chất, năng lực và tư duy sáng tạo, tự tin hội nhập.

Trường Trung học phổ thông Quốc tế Việt Úc Hà Nội

Trường thực hiện việc giảng dạy và học tập theo chương trình do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành, thực hiện thời gian học tập theo biên chế năm học do Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định. Song song với chương trình này là chương trình học bằng tiếng Anh được giảng dạy bởi đội ngũ giáo viên bản ngữ giàu ...