Nuôi cá lóc thịt ở Trung Quốc
Nuôi ghép với cá khác Trong các ao nuôi cá mè, trôi, trắm, chép có thể nuôi ghép với cá lóc để diệt cá tạp, giảm tiêu hao thức ăn và hàm lượng oxy trong nước tạo điều kiện tốt cho các loài cá nuôi sinh trưởng nhanh. Ao phải có bờ cao (bờ cao hơn mặt nước ao 30 -40 cm), nước ở ao không rò rỉ. ...
Nuôi ghép với cá khác
Trong các ao nuôi cá mè, trôi, trắm, chép có thể nuôi ghép với cá lóc để diệt cá tạp, giảm tiêu hao thức ăn và hàm lượng oxy trong nước tạo điều kiện tốt cho các loài cá nuôi sinh trưởng nhanh.
Ao phải có bờ cao (bờ cao hơn mặt nước ao 30 -40 cm), nước ở ao không rò rỉ. Một mẫu ghép 50 – 300 con cá lóc cỡ 3 cm. Sap 5-6 tháng nuôi cá lớn được 0,2 -0,6 kg/con, tỉ lệ sống 80%. Năng suất cá lóc 20 – 50 kg/mẫu.
Nuôi cá lóc là chính
Diện tích ao:1-2 mẫu
Độ sâu:1,5 – 2 m.
Xung quanh ao thả bèo Nhật Bản rộng 0,8 -1 m (dùng cọc và sào ngăn lại) để phòng cá nhảy đi, tạo được môi trường râm mát cho cá lóc nghỉ ngơi, lớn nhanh.
Mật độ thả: Căn cứ vào nguồn thức ăn và chất nước để quyết định. Có thể thả 10 con (cỡ 3 cm) trên 1 m2. Đồng thời dựa vào tình hình cá lớn, bắt con cá lớn nhanh chuyển sang ao khác để tránh tình trạng cá lớn ăn cá bé, thường là 2 -3 con/m2. Nếu nguồn thức ăn phong phú mật độ có thể dầy hơn.
cỡ cá giống 12-18 cm/con, cuối năm đạt 0,5 – 0,6 kg/con. Ngoài ra có thể ghép một ít cá mè trắng, mè hoa để cải thiện chất nước.
Luyện cho cá ăn
Thức ăn gồm:
Thức ăn sống như: động vật phù du, tôm, tép con, cá con, giun, dòi… Nếu có khả năng cung cấp thức ăn sống thì cỡ cá giống thả có thể nhỏ hơn một ít. Song, cần lưu ý cho ăn thích hợp, thức ăn quá nhiều sẽ làm cá nổi đầu.
-Thức ăn chế biến: thường phối hợp 70% cá tạp nghiền nát, 20% bột đậu khô lạc… 5% men, còn lại là các vitamin, muối khoáng, thuốc kháng sinh.
Mỗi ngày cho ăn 2 lần: sáng, chiều.
Số lượng cho ăn bằng 5 -7% trọng lượng cá, mùa cá sinh trưởng nhanh cũng không cho ăn quá 10% trọng lượng cá.
Nếu cho chế biến phải tập luyện cho cá ngay từ còn nhỏ. Khi cá đạt cỡ 2 cm tập cho cá ăn, tốt nhất nuôi trong bể xi măng có nước chảy nhẹ thả 500 con/m2, lúc đầu dùng giun ít tơ đề làm mồi quyến rũ cho đến khi nó đã quen ăn giun rồi, số lượng giun giảm dần và tăng thêm thức ăn chế biến cho đến khi nó hoàn toàn ăn được thức ăn chế biến, lúc này cá đạt 4 – 5 cm (tỉ lệ sống khoảng 20%). Cần đặc biệt lưu ý trong thời gian luyện cho thức ăn chế biến không được cho thức ăn sống. Nuôi 1 năm cá đạt 0,5 kg/con. Năng suất 300 kg/mẫu.
Quản lý ao nuôi
Cá lóc thịt có thể nhảy cao đến 1,5 m, nếu mực nước ở ngoài ao thấp hơn mực nước ở trong ao, cá có thể nhảy qua ao được. Khi trời mưa hay có dòng nước chảy càng kích thích cá nhảy đi. Vì vậy sớm, tối phải thăm ao, đặc biệt là khi trời mưa phải chú ý nhiều hơn.
Thức ăn phải tươi, trước lúc cho ăn phải vệ sinh sàn cho ăn. Hàng ngày có thể thay nước mới vào ao, đảm bảo nước luôn sạch, tốt nhất là có dòng chảy. Nuôi ở ao có diện tích 3,5 mẫu năng suất đạt 300 kg/mẫu và 50 kg cá mè, đạt hiệu quả kinh tế cao.
Ở Ấn Độ nuôi cá lóc ở đầm rộng 1 ha thả 10.000 con, cho ăn bột cá. Năng suất đạt 3,2 tấn/ha/năm, nuôi ghép cá lóc với một số loài cá khác ở 1 000 m2 mật độ thả 33.000 con/1 ha, năng suất đạt 4 tấn/ha.
Nuôi cá lóc ở bè
Ở miền Nam đã vớt cá lóc con cỡ 3 -4 cm đem ương, nuôi ở bè rộng 1,5 x 1,5 x 1 m. Thả 5.000 con, cho ăn bằng cá linh băm nhỏ, phế phẩm ồ các chợ, đầu, ruột cá… xay nhuyễn đặt lên tấm vỉ bằng tre. Nuôi đến cỡ 10 -12 cm chuyển sang bè có kích thước lớn hơn. Thường nuôi 3 tháng đạt 1,2 kg/con.