25/05/2018, 09:09

Nội dung nghiệp vụ cho vay của Ngân hàng

Theo khái niệm trên đây thì nội dung của nghiệp vụ cho vay của ngân hàng và các tổ chức tín dụng có thể hiểu như sau: - Tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng giữa các ngân hàng với các doanh nghiệp và giữa các ngân hàng với nhau được ...

Theo khái niệm trên đây thì nội dung của nghiệp vụ cho vay của ngân hàng và các tổ chức tín dụng có thể hiểu như sau:

- Tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng giữa các ngân hàng với các doanh nghiệp và giữa các ngân hàng với nhau được thực hiện dưới hình thức tiền tệ.

Tín dụng ngân hàng mang các đặc trưng cơ bản sau đây:

- Đối tượng cho vay là vốn tiền tệ. Số vốn này không nằm trong quá trình tuần hoàn của chu kỳ sản xuất kinh doanh mà là một loại vốn riêng biệt: vốn nhàn rỗi dùng để cho vay.

- Chủ thể vay vốn chủ yếu là các doanh nghiệp.Trong một số trường hợp các ngân hàng cũng tiến hành đi vay của nhau. Chủ thể cho vay là các ngân hàng và công ty tài chính.

- Tín dụng ngân hàng vận động không hoàn toàn thống nhất với sự vận động của quá trình sản xuất kinh doanh thời kỳ sản xuất phát triển, nhu cầu về vốn vay rất lớn nhưng khả năng cung cấp vốn vay lại có hạn vì trong quá trình cạnh tranh người ta đều đổ xô vào việc đầu tư sản xuất nên cần nhiều vốn. Ngược lại số người có tiền đem gửi lại rất ít.

Thời kỳ khủng hoảng, trì trệ sản xuất, khả năng cung cấp vốn vay lại rất lớn vì nhiều người không bỏ vào sản xuất mà đem gửi ngân hàng. Trong khi đó, nhu cầu về vốn vay lại giảm vì không có lĩnh vực nào đầu tư có lợi , lúc này chỉ có một số ít người đi vay để đảm bảo khả năng thanh toán khỏi bị phá sản.

- Từ những đặc điểm trên mà tín dụng ngân hàng đã khắc phục được các hạn chế của tín dụng thương mại. Tín dụng ngân hàng với nguồn vốn rất lớn và vốn bằng tiền đã giải quyết linh hoạt mọi nhu cầu vốn phát sinh và ngày càng giữ vị trí quan trọng.

Một: sử dụng vốn vay đúng mục đích để thoả thuận trong hợp đồng tín dụng (cho vay có mục đích, có kế hoạch và có hiệu quả).

Cho vay có kế hoạch, có mục đích và có hiệu quả. Tức là, các đơn vị có nhu cầu vay vốn của Ngân hàng đều phải có kế hoạch, đơn xin vay gửi ngân hàng với đầy đủ các nội dung sau: Số tiền vay, thời hạn sử dụng vốn vay, mục đích sử dụng vốn vay và tính hiệu quả của vốn vay ngân hàng. Trên cơ sở đó ngân hàng kiểm tra xem xét, nếu thấy đồng vốn vay ngân hàng đem lại hiệu quả kinh tế và trả nợ đúng hạn thì mới quyết định cho vay. Mặt khác trên cơ sở kế hoạch xin vay vốn của người xin vay, bản thân ngân hàng phải xây dựng kế hoạch cho vay vốn của mình để chủ động trong việc đầu tư tín dụng. Nguyên tắc đảm bảo cho khách hàng vay vốn có đủ vốn và vay vốn có kế hoạch. Đồng thời nguyên tắc này nhằm tiết kiệm đồng vốn, đầu tư vốn có trọng điểm và có hiệu quả kinh tế cao. Ngoài ra nó còn tăng cường sự giám đốc bằng đồng tiền của ngân hàng đối với đơn vị vay vốn của ngân hàng.

Trường hợp khách hàng có nhu cầu vay vốn phát sinh ngoài kế hoạch, ngân hàng xét thấy cần thiết và hợp lý, cân đối với nguồn vốn của mình, có thể cho vay bổ sung cho người vay. Vốn vay phải sử dụng đúng cam kết và mục đích.

Hai: Người vay vốn phải hoàn trả đúng kỳ hạn cả vốn và lãi. Bởi vì, nguồn vốn cho vay của ngân hàng chủ yếu là nguồn vốn tập trung và huy động từ các thành phần kinh tế trong xã hội. Do vậy, những người vay vốn của ngân hàng sau một kỳ hạn nhất định nào đó đều phải hoàn trả đầy đủ cả gốc và lãi cho ngân hàng. Đơn vị vay vốn sau một thời gian nhất định phải trả cho ngân hàng một khoản lợi tức thoả thuận, vì đó là một trong những nguồn thu chủ yếu của ngân hàng và là một cơ sở cho ngân hàng tiến hành hạch toán kinh doanh và thực hiện nghĩa vụ với ngân sách nhà nước, đến thời kỳ trả nợ mà đơn vị vay vốn không trả cho ngân hàng thì ngân hàng sẽ chuyển sang nợ quá hạn và đơn vị phải chịu lãi suất cao hơn lãi suất thông thường. Đồng thời nó đảm bảo sự thống nhất giữa vận động của vật tư, hàng hoá và sự vận động của tiền tệ trong nền kinh tế , góp phần ổn định tiền tệ và ổn định giá cả. Với nguyên tắc này ngân hàng bảo toàn được vốn , kịp thời đưa vốn vào hoạt động kinh doanh của mình, có thu để bù đắp chi và có lãi nhằm duy trì và phát triển hoạt động của bản thân ngân hàng.

Ba: Cho vay có giá trị vật tư đảm bảo. Các đơn vị muốn vay vốn của ngân hàng đều phải xuất trình đầy đủ chứng từ, hoá đơn, hợp đồng mua bán hàng hoá. Trên cơ sở đó cán bộ ngân hàng tiến hành xét cho vay tương đương với giá trị vật tư hàng hoá đã được ghi trên chứng từ, hoá đơn hợp đồng. Điều này áp dụng với doanh nghiệp Nhà nước. Còn các doanh nghiệp ngoài quốc doanh muốn vay vốn của ngân hàng đều phải thế chấp bằng tài sản, ngân hàng xét cho vay thông thường bằng 60-70% giá trị thế chấp. Thế chấp có thể bằng hàng hoá thông thường hoặc các chứng từ có giá như tín phiếu , kỳ phiếu, cổ phiếu, giấy chứng nhận quyền sở hữu bất động sản. Hoặc có thể vay vốn thông qua sự bảo lãnh của các tổ chức kinh tế , tổ chức tín dụng có uy tín.

Trong suốt quá trình sử dụng vốn vay, các đơn vị vay vốn luôn có giá trị vật tư tương đương làm bảo đảm. Nguyên tắc này giúp cho các đơn vị sử dụng vốn vay một cách có hiệu quả. Ngân hàng cho vay vốn an toàn tránh những rủi ro không đáng có trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Bên cạnh, nguyên tắc này bảo đảm quan hệ cân đối giữa tiền tệ và hàng hoá trong lưu thông góp phần bình ổn giá cả.

Ba nguyên tắc cơ bản nói trên có quan hệ mật thiết, gắn bó với nhau thành một tổng thể thống nhất, có ảnh hưởng rất lớn đến quan hệ tín dụng giữa ngân hàng với các thành phần kinh tế , phòng ngừa được các yếu tố rủi ro đảm bảo an toàn tín dụng. Và cũng là để "Vừa tạo tiền đề, vừa gây sức ép buộc các đơn vị kinh tế tìm mọi biện pháp nâng cao hiệu quả kinh tế" , hoạt động tín dụng ngân hàng cần chuyển mạnh và đúng hướng sang hạch toán kinh doanh thực sự, thúc đẩy khẩn trương tổ chức sắp xếp lại nền kinh tế - khách thể của tín dụng ngân hàng, phù hợp với cơ chế thị trường có sự quản lý điều tiết vĩ mô của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đồng thời việc đổi mới khách thể là tiếp tục đổi mới, hoàn thiện chủ thể của tín dụng ngân hàng làm cho nó đủ sức tạo được thị trường "đầu vào" để tăng nhanh nguồn vốn và mở rộng thị trường "đầu ra" nghĩa là tín dụng ngân hàng phải đổi mới mạnh mẽ, sử dụng giải pháp "khơi trong , hút ngoài" và liên doanh liên kết kinh tế nhằm khai thác mọi nguồn vốn nhàn rỗi từ các thành phần kinh tế và thu hút vốn đầu tư của các chính phủ cũng như tư nhân nước ngoài để phát triển mạnh mẽ nền kinh tế và xây dựng đất nước.

0