24/05/2018, 15:18

Nội dung cơ bản của chính sách mặt hàng xuất khẩu.

Những quy định này được phép hoạt động hoặc không được phép lưu thông những mặt hàng hạn chế hay kinh doanh có điều kiện. - Danh mục hàng hoá cấm lưu thông, các dịch vụ và dịch vụ thương mại không được thực hiện sẽ được chính phủ công ...

Những quy định này được phép hoạt động hoặc không được phép lưu thông những mặt hàng hạn chế hay kinh doanh có điều kiện.

- Danh mục hàng hoá cấm lưu thông, các dịch vụ và dịch vụ thương mại không được thực hiện sẽ được chính phủ công bố. Đó là những sản phẩm gây ảnh hưởng đến an ninh quốc phòng, trật tự an toàn xã hội, truyền thống lịch sử, văn hoá đạo đức, thuần phong mỹ tục Việt Nam, môi trường sinh thái, sản xuất và sức khoẻ của nhân dân.

- Chính phủ công bố danh mục các mặt hàng này trong từng thời kì cùng với các mặt hàng hạn chế kinh doanh hoặc được phép kinh doanh với những điều kiện nhất định.

- Chính phủ cũng công bố các mặt hàng cung ứng cho đối tượng tiêu dùng thuộc diện chính sách xã hội.

- Ngoài các danh mục mặt hàng quy định trên, các mặt hàng còn lại pháp luật không cấm nên được lưu thông tự do trên thị trường nội địa.

- Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, chính sách về cạnh tranh thấp để xác định thời gian hội nhập, mở cửa phù hợp cũng như bảo hộ sản xuất trong nước hợp lý.

Để đánh giá hiện trạng và chính sách mặt hàng xuất khẩu quốc gia cần xác định rõ mục tiêu chính sách xuất khẩu của mình, xét về nguồn lực, nhân sự, tổ chức công tác quản lý, khả năng hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp. Đưa ra những điểm mạnh điểm yếu một cách trung thực chính xác vì đó là cơ sở để hoạch định chính sách mặt hàng kinh doanh sao cho phù hợp với tiềm năng của đất nước. Việc đánh giá hiện trạng và mục tiêu của chiến lược mặt hàng sẽ cung cấp thông tin cho việc hoàn thiện chính sách mặt hàng của quốc gia.

- Hoạt động phải xác định rõ mục tiêu, chiến lược được phản ánh và hoạt động cụ thể vừa thực hiện kế hoạch, vừa phải tiến hành thực hiện chính sách trên cơ sở đã có những hình thức điều chỉnh và bổ xung ở các khâu.

- Mục tiêu của chính sách phải phù hợp với mục tiêu phát triển kinh tế trong từng giai đoạn và đảm bảo khả năng thích ứng với các giai đoạn khác nhau của nền kinh tế. Nó thể hiện về khách hàng, giá cả cũng như loại hình công dụng sản phẩm thích ứng ở thị trường mục tiêu đó.

- Các giải pháp các chính sách phải thích ứng với từng thời cơ và xu thế biến động của thị trường đồng thời phải đảm bảo tính thống nhất và cụ thể hoá chính sách.

- Các thành viên tham gia hoạch định phải được lựa chọn xây dựng một cách cụ thể, đòi hỏi phải có năng lực nghề nghiệp, phải thông tin chính xác mục tiêu đã đề ra, các chỉ tiêu vẫn dựa trên nguyên tắc phân tích kĩ khả năng và tiềm lực của từng thành viên để đưa ra những yêu cầu phù hợp với khả năng của từng mặt hàng cho phù hợp.

- Mục tiêu lợi nhuận: Chất lượng và số lượng sự mở rộng và thu hẹp cơ cấu chủng loại sản phẩm, mức giá có thể bán được của mỗi mặt hàng đó là yếu tố có mối quan hệ hữu cơ với nhau quyết định mức độ lợi nhuận mà doanh nghiệp có thể thu được.

- Mục tiêu xã hội: Khi tổ chức và thực hiện chính sách mặt hàng phải đảm bảo:

+ Thực thi chính sách không làm vỡ môi trường sinh thái.

+ Thực thi chính sách không vi phạm các tiêu chuẩn dân tộc, xã hội.

+ Thực thi chính sách đảm bảo tính tích cực trong giáo dục giáo dưỡng nhu cầu thị trường.

+ Thực thi chính sách đảm bảo tính văn minh thương mại, kết hợp với tính hiện đại, tính dân tộc, phát triển bản sắc văn hoá dân tộc cho người tiêu dùng.

- Mục tiêu an toàn: Khi đưa ra các chính sách mặt hàng xuất khẩu cần phải nhìn rõ sự chắc chắn khi xuất khẩu có thu được lợi nhuận về không hoặc có thể thu được từ khách hàng không, tránh những rủi ro không đáng có.

Chính sách đối với hàng hoá xuất khẩu:

- Mục tiêu:

+ Không ngừng gia tăng tỉ trọng mặt hàng xuất khẩu chế biến năm 2001 (60% - 40%) đến năm 2003 (75% - 25%) qua đó đòi hỏi phải đủ, kế hoạch vào quá trình sản xuất chế biến.

+ Mặt hàng gia công xuất khẩu tỉ lệ nội địa hoá cho sản phẩm gia công ( vẫn tăng xuất khẩu), đạt hiệu quả quá trình sản xuất.

+ Nhóm mặt hàng nông - lâm - thuỷ - hải sản: Phải chú ý đến cây giống, con giống, công nghệ sản xuất chế biến để có được cạnh tranh cao hơn (có tiêu chuẩn ISO) đáp ứng tốt xâm nhập thị trường có tiềm năng, quy mô lớn.

+ Môi trường quan trọng chủ yếu là chính sách tạo mặt hàng xuất khẩu. Cần hình thành hệ thống ngân hàng dữ liệu quốc gia để cung cấp thông tin cho người sản xuất, người tiêu dùng, người kinh doanh, công nghệ chế biến, cung cấp thông tin thị trường đầu ra, thị trường xuất khẩu, thông tin liên quan đến môi trường…

- Xác lập cơ cấu hàng hoá xuất khẩu theo nhóm hàng:

+ Nhóm nguyên liệu, nhiên liệu: Tỉ trọng kim ngạch xuất khẩu 2005 (9%) tổng kim ngạch là 2,5 tỉ USD, 2010 chính sách chỉ còn (1%) kim ngạch là 5.000 triệu USD, hay 2010 khoảng 3,5%. Có ba phân nhóm cơ bản: Dầu thô 2005 xuất khẩu 12 triệu tấn và đến 2010 có hai phương án: Khai thác 14 đến 16 triệu tấn, xuất khẩu từ 2 đến 4 triệu tấn (xuất khẩu 1%) nếu khai thác 20 triệu tấn xuất khẩu là 8 triệu tấn.

Dầu thô thị trường xuất khẩu chính là úc, Singabo, Nhật bản, các nước Tây Âu, EU cần mở rộng thị trường sang Thái Lan, Trung Quốc.

Than đá: 2010 xuất khẩu 4 triệu tấn/ năm, nhập khẩu đạt 120 đến 159 triệu USD. Thị trường chính là Nhật Bản, Trung Quốc, các nước Tây Âu, EU cần mở rộng thị trường sang Thái Lan.

+ Nhóm nông - lâm - thuỷ sản: Có nhiều lợi thế gạo, cà phê, tiêu, điều…tốc độ tăng của nhóm này bình quân 4,5%/ năm tỉ trọng kim ngạch xuất khẩu giảm từ 22% (2005) xuống 17% (2010) kim ngạch 8 đến 16 tỉ USD.

Hướng chủ đạo là chuyển dịch cơ cấu, nâng cao năng suất chất lượng, giá trị gia tăng (sản lượng gạo, cà phê, chè…)

+ Nhóm sản phẩm chế biến và chế tạo: Là một trong những nhóm cần phải tăng trưởng cả kim ngạch và tỉ trọng, cụ thể là mục tiêu đặt ra kim ngạch xuất khẩu lớn hơn 4 tỉ USD so với năm 2010, tỉ trọng lớn hơn 30% tăng lên 20 đến 21 tỉ và tỉ trọng tăng 40%. Như vậy so với năm nay thì năm 2010 kim ngạch xuất khẩu tăng gấp 5 lần, lưu ý hai mặt hàng chủ yếu là dệt may và da dày, cần phải tăng trưởng hàng thủ công mỹ nghệ ….kim ngạch đạt 5 tỉ USD (2010).

+ Các sản phẩm công nghệ chất xám cao: Chính sách chỉ là hạt nhân là điện tử và tin học, vẫn thực hiện phương thức gia công, tăng tỉ lệ nội địa hoá rồi có chính sách phát triển nguồn lực với mục tiêu kim ngạch xuất khẩu 2,5 tỉ USD.

Chính sách đối với các dịch vụ xuất khẩu:

Đầu tư phát triển hệ thống để xuất khẩu dịch vụ như dịch vụ vận chuyển hành khách, hàng không, dịch vụ cảng biển và các dịch vụ vận tải nhằm có một hoạt động xuất khẩu thuận tiện hơn. Chuyên nghiệp hoá, nâng cao chất lượng và sức cạch tranh xuất khẩu hàng hoá để làm được chúng ta cần tham gia các hiệp hội quốc tế sản xuất kinh doanh, nâng cao sức sản xuất kinh doanh sản phẩm dịch vụ. Mở rộng loại hình dịch vụ xuất khẩu, phát triển hình thức xuất khẩu dịch vụ.

0