Nội dung cải cách hành chính ở Việt Nam
Thể chế ở đây được hiểu là toàn bộ các quy định của pháp luật về việc xây dựng các thiết chế và tổ chức thực hiện chúng trong quá trình thực thi. Cụ thể là: Xây dựng thể chế về tổ chức và hoạt động của hệ thống hành chính trước hết ...
Thể chế ở đây được hiểu là toàn bộ các quy định của pháp luật về việc xây dựng các thiết chế và tổ chức thực hiện chúng trong quá trình thực thi. Cụ thể là:
- Xây dựng thể chế về tổ chức và hoạt động của hệ thống hành chính trước hết là tổ chức và hoạt động của Chính phủ, các bộ, cơ quan ngang bộ, các cơ quan thuộc Chính phủ và Uỷ ban nhân dân các cấp về thẩm quyền quản lý Nhà nước đối với doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp Nhà nước nói riêng nhằm phân biệt rõ quyền của chủ sở hữu, quyền quản lý Nhà nước với quyền tự chủ kinh doanh của doanh nghiệp; về thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN trong đó chú trọng về thị trường vốn và tiền tệ, thị trường chứng khoán, thị trường bất động sản, thị trường khoa học và công nghệ, thị trường lao động và dịch vụ. Đồng thời xây dựng mối quan hệ giữa Nhà nước với nhân dân như: thu thập ý kiến của nhân dân trước khi quyết định các chủ trương, chính sách quan trọng; chưng cầu dân ý; xử lý các hành vi trái pháp luật của các cơ quan và cán bộ, công chức trong khi làm nhiệm vụ; thẩm quyền, trách nhiệm của cơ quan hành chính và Toà án trong việc giải quyết khiếu nại của nhân dân. Đây cũng là nhiệm vụ to lớn nhằm xác định lại mối quan hệ quyền lực giữa bộ máy hành chính với xã hội, doanh nghiệp và công dân.
- Đổi mới quy trình xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Quy trình này ở nước ta từ trước đến nay còn nhiều bất cập, ảnh hưởng trực tiếp đến việc thực thi pháp luật và hiệu quả của hệ thống pháp luật. Do đó, việc cải cách thể chế cũng nhằm “bảo đảm cho các văn bản quy phạm pháp luật có nội dung đúng đắn, nhất quán, khả thi”. Cần tập trung vào các nội dung sau đây:
+ Rà soát và hệ thống hoá các văn bản quy phạm pháp luật theo từng lĩnh vực, loại bỏ những quy định pháp luật không còn hiệu lực hoặc chồng chéo, trùng lặp. Phát huy hiệu quả của cơ sở dữ liệu quốc gia về văn bản quy phạm pháp luật;
+ Tăng cường năng lực của các cơ quan hành chính Nhà nước ở Trung ương và địa phương trong việc xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Khắc phục tình trạng luật, pháp lệnh “chờ” Nghị định và thông tư hướng dẫn thi hành;
+ Khắc phục các biểu hiện thiếu khách quan cục bộ trong việc xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của các bộ, ngành chủ trì soạn thảo bằng cách nghiên cứu, đổi mới phươg thức, quy trình xây dựng pháp luật từ khâu bắt đầu soạn thảo đến khi đưa ra Chính phủ xem xét, quyết định hoặc thông qua để trình Quốc hội theo hướng “cải tiến sự phối hợp giữa các ngành, các cấp có liên quan, coi trọng sử dụng các chuyên gia liên ngành và dành vai trò rất quan trọng cho tiếng nói của nhân dân, của doanh nghiệp”;
+ Bảo đảm tính minh bạch, công khai của pháp luật, cần tổ chức tốt việc lấy ý kiến của nhân dân, của những người là đối tượng điều chỉnh của văn bản trước khi ban hành; đồng thời, các văn bản quy phạm pháp luật sau khi ký ban hành hoặc có hiệu lực pháp luật phải được đăng Công báo hoặc yết thị, đưa tin trên các phương tiện thông tin đại chúng để công dân, các tổ chức có điều kiện tìm hiểu và thực hiện.
- Bảo đảm việc thực thi pháp luật nghiêm chỉnh của các cơ quan Nhà nước, của cán bộ, công chức. Các văn bản pháp luật cụ thể hoá thẩm quyền của mỗi một cơ quan, mỗi người trong bộ máy theo hướng “người nào việc nấy” và trách nhiệm của cơ quan, cá nhân trước pháp luật. Mặt khác, cần thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở; chế độ cán bộ chủ chốt của các ngành ở Trung ương và địa phương định kỳ trực tiếp gặp gỡ, đối thoại giải quyết các vấn đề cho doanh nghiệp và nhân dân đặt ra; phát huy hiệu lực của các thiết chế thanh tra, kiểm sát và tài phán để đảm bảo hiệu lực quản lý Nhà nước, giữ gìn kỷ cương xã hội; mở rộng dịch vụ tư vấn pháp luật cho nhân dân, cho người nghèo, người thuộc diện chính sách và đồng bào dân tộc ít người, vùng sâu, vùng xa. Tạo điều kiện cho hoạt động luật sư, hoạt động bổ trợ tư pháp có hiệu quả.
- Cải cách thủ tục hành chính nhằm bảo đảm tính pháp lý, hiệu quả, minh bạch và công bằng trong khi giải quyết công việc hành chính. Loại bỏ những thủ tục hành chính rườm rà, chồng chéo dễ bị lợi dụng để tham nhũng, gây khó khăn cho dân; xóa bỏ kịp thời những quy định không cần thiết về cấp giấy phép và thanh tra, kiểm tra, kiểm soát, giám định; thống nhất và mẫu hoá các loại giấy tờ về giải quyết các công việc liên quan đến sản xuất, kinh doanh của công dân, doanh nghiệp; mở rộng thực hiện cơ chế “một cửa” trong việc giải quyết các công việc của công dân, tổ chức với các cơ quan hành chính các cấp; công khai các loại phí, lệ phí, lịch công tác tại trụ sở làm việc của các cơ quan hành chính Nhà nước.
Hệ thống cơ quan hành chính từ Trung ương đến địa phương, đứng đầu là Chính phủ - cơ quan hành chính Nhà nước cao nhất cần được xác định rõ hơn về chức năng, nhiệm vụ; việc phân công, phân cấp giữa Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, trách nhiệm của Chính phủ, trách nhiệm của người đứng đầu các bộ, ngành; phân cấp Chính phủ với chính quyền địa phương phải “trên cơ sở tách chức năng quản lý Nhà nước với hoạt động kinh doanh, xúc tiến việc đổi mới tổ chức bộ máy, cơ chế hoạt động và quy chế làm việc của các cơ quan Nhà nước…; phân cấp trong hệ thống hành chính đi đôi với nâng cao tính tập trung thống nhất trong việc ban hành thể chế”. Cụ thể là:
- Chính phủ, các bộ, cơ quan ngang bộ tập trung thực hiện chức năng xây dựng, ban hành thể chế, kế hoạch chính sách quản lý vĩ mô đối với sự phát triển kinh tế – xã hội, chỉ đạo, kiểm tra việc thực hiện;
- Từng bước điều chỉnh những công việc của Chính phủ, các bộ, cơ quan ngang bộ, các cơ quan thuộc Chính phủ và chính quyền địa phương đảm nhiệm để khắc phục những chồng chéo, trùng lặp về chức năng, nhiệm vụ. Chuyển cho các tổ chức xã hội, tổ chức phi Chính phủ hoặc doanh nghiệp làm những việc về dịch vụ công không cần thiết phải do cơ quan hành chính Nhà nước trực tiếp thực hiện. Chính phủ thực hiện việc “cung cấp các dịch vụ công” khi xét thấy không có chủ thể nào trong xã hội đảm nhận được;
- Xây dựng các quy định mới về phân cấp giữa các cấp chính quyền địa phương, nâng cao thẩm quyền và trách nhiệm của chính quyền địa phương. Gắn phân cấp công việc với với phân cấp về tài chính, tổ chức và cán bộ. Định rõ việc nào địa phương được quyền quyết định, việc nào phải có ý kiến của Trung ương;
- Cơ cấu lại các bộ và bộ máy làm việc của Chính phủ một cách khoa học có hiệu lực, hiệu quả, giảm mạnh các cơ quan thuộc Chính phủ và tổ chức trực thuộc Thủ tướng Chính phủ. Chỉ duy trì một số ít cơ quan thuộc Chính phủ có tính chất chuyên môn, nghiệp vụ phục vụ cho công việc quản lý vĩ mô của Chính phủ.
- Cải cách bộ máy chính quyền địa phương (gồm HĐND và UBND các cấp) trên cơ sở xác định rõ chức năng, nhiệm vụ của chính quyền ở đô thị với chính quyền ở nông thôn; sắp xếp lại các cơ quan chuyên môn thuộc UBND các cấp theo tinh thần gọn nhẹ, tăng tính chuyên nghiệp cho các cơ quan loại này. Động thời, cần có những văn bản pháp lý có giá trị cao quy định các tiêu chí cụ thể đối với từng loại hình đơn vị hành chính ở nước ta để đi đến ổn định, chấm dứt tình trạng chia tách nhiều như thời gian qua.
- Cải tiến phương thức quản lý, lề lối làm việc của cơ quan hành chính các cấp, loại bỏ những việc làm hình thức, không có hiệu quả thiết thực, giảm hội họp, giấy tờ hành chính.
- Từng bước hiện đại hoá nền hành chính, triển khai và áp dụng công nghệ thông tin trong hoạt động chỉ đạo, điều hành của hệ thống hành chính Nhà nước, phấn đấu “tăng cường đầu tư để đến năm 2010, các cơ quan hành chính có trang thiết bị tương đối hiện đại, cơ quan hành chính cấp xã trong cả nước có trụ sở và phương tiện làm việc bảo đảm nhiệm vụ quản lý; mạng tin học diện rộng được thiết lập tới xã”. Đây cũng là bước khởi đầu cho quá trình xây dựng “Chính phủ điện tử” ở Việt Nam trong tương lai không xa.
Đây là nội dung mang tính “động lực” cho quá trình cải cách hành chính. Bởi lẽ,“cán bộ quyết định tất cả”. Tuy nhiên, đổi mới, nângcao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức phải được đặt trong lộ trình phát triển kinh tế – xã hội của từng thời kì, có bước đi thích hợp.
- Tiến hành tổng điều tra, đánh giá lại đội ngũ cán bộ, công chức; xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu về cán bộ, công chức. Trên cơ sở định hướng phát triển kinh tế – xã hội của đất nước, xu hướng phát triển của thế giới, xây dựng dự báo sự phát triển của đội ngũ cán bộ, công chức đáp ứng yêu cầu của thời kỳ công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước.
- Khắc phục tệ nạn quan liêu, cửa quyền, tham nhũng, hách dịch, lãng phí và xa dân. Muốn vậy,việc khẩn trương xây dựng luật công vụ không chỉ là yêu cầu cần thiết mà phải coi đây là việc cần làm ngay. Nhấn mạnh đạo đức “cần kiệm, liêm chính, chí công, vô tư” của người cán bộ, công chức phải là cốt lõi xuyên suốt toàn bộ đạo luật này. Vấn đề đạo đức công chức phải được coi là một tiêu chí trong việc xây dựng, củng cố và phát triển đội ngũ cán bộ, công chức. Đây là một nội dung rất quan trọng trong tiến hành cải cách hành chính. Bộ máy hành chính trì trệ một phần là do sự sa sút về đạo đức, đặc biệt là đạo đức công vụ của cán bộ, công chức. Đây cũng là một nguyên nhân làm cho bộ máy hành chính xa dân. Xử lý tốt vấn đề đạo đức công vụ sẽ khắc phục được những biểu hiện như thiên vị khi xử lý công vụ, kém hiệu lực của các quyết định hành chính, hành vi hc, hành vi hành chính, thiếu trách nhiệm khi thi hành công vụ, không trung thực hoặc thông tin thiếu chính xác khi báo cáo.
- Đổi mới cách đánh giá cán bộ, công chức cả khâu tuyển dụng và sử dụng. Người lao động được tuyển dụng hay bổ nhiệm, đề bạt phải xuất phát từ đòi hỏi của công vụ, phải qua kỳ thi. Thực hiện việc thi tuyển theo những quy định chặt chẽ bảo đảm được tính công bằng, công khai tạo điều kiện thuận lợi cho những người có nguyện vọng, tài năng, đức độ trong xã hội có cơ hội ngang nhau để trở thành cán bộ, công chức. Nội dung và hình thức thi tuyển phải linh hoạt, không dập khuôn, máy móc, tuỳ theo từng loại cán bộ, công chức và lĩnh vực hoạt động, đảm bảo thu hút được nhân tài thực sự vào làm việc trong bộ máy Nhà nước. Hàng năm, Ban Tổ chức cán bộ của Chính phủ hướng dẫn đánh giá cán bộ, công chức, nhưng tiêu chí rất chung chung, các cơ quan không có Hội đồng đánh giá, mà việc này thường giao cho thủ trưởng đơn vị. Cách quy định này vừa không chính xác vừa không dân chủ, còn nặng về tình cảm “nội bộ”. Đây là một khuyết điểm phổ biến trong công vụ cần được xoá bỏ. Cần phải lượng hoá công việc bằng một hệ thống điểm, điều này giúp chúng ta có thể đo lường được kết quả lao động của công chức, trên cơ sở này, công việc nhận xét cán bộ, công chức hàng quý hàng năm sẽ có kết quả tốt hơn.
- Có chính sách khuyến khích hỗ trợ vật chất để thu hút người tài giỏi vào nền công vụ. Hiện nay trên thực tế, do nhiều nguyên nhân, nhất là do tiền lương thấp và sự bố trí trái ngành nghề, nên nhiều người giỏi đã ra khỏi nền công vụ. Đây là một nguy cơ cần được khắc phục ngay, nhất là trước yêu cầu của nền kinh tế tri thức đang đòi hỏi không chỉ cần những người dũng cảm, dám nghĩ, dám làm mà cao hơn thế là dám làm với năng suất chất lượng cao, biết làm giàu và dám chịu trách nhiệm. Thực hiện cải cách cơ bản chế độ tiền lương nhằm khuyến khích cán bộ, công chức làm việc tận tuỵ, trung thành, công tâm. Một hệ thống tiền lương hợp lý và thoả đáng mới góp phần khuyến khích tinh thần trách nhiệm cao và phát huy tính tích cực, sáng tạo của cá nhân.
- Tiếp tục đổi mới nội dung chương trình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, chú trọng nâng cao kiến thức, kỹ năng hành chính cho đội ngũ cán bộ, công chức theo chức trách, nhiệm vụ đang đảm nhậ; các hình thức và phương thức đào tạo, bồi dưỡng phù hợp với mỗi loại cán bộ, công chức. Tạo điều kiện để các cơ sở đào tạo cán bộ, công chức từ Trung ương đến địa phương chủ động sắp xếp thời gian và giáo trình phù hợp với việc đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ cán bộ, công chức.
Phải khắc phục ngay thực trạng: côngtác quản lý tài chính lỏng lẻo; trình tự thủ tục đầu tư rất phức tạp, rườm rà; hoạt động thanh tra, kiểm tra không thường xuyên, không cương quyết; hoạt động kiểm toán không duy trì, thậm chí không được coi trọng. Với các biện pháp sau:
- Đổi mới phương thức quản lý tài chính công bằng cáchvừa tiếp thu, duy trì phương thức truyền thống là giao, giám sát, kiểm tra, báo cáo và tổng kết, vừa phải chú trọng xây dựng giải pháp bổ sung: tự chịu trách nhiệm. Khi ấy cơ quan hành chính Nhà nước và công chức sẽ phải tiết kiệm, phải chủ động, phải hạch toán, phải suy nghĩ để có được một tổ chức tinh gọn và hiệu quả.
- Mạnh dạn và cương quyết đổi mới cơ chế phân cấp quản lý tài chính. Phân cấp phải đi liền với phân quyền, nếu phân cấp mà không phân quyềnthì phân cấp cũng như không. Vì vậy, phân cấp, phân quyền quản lý tài chính cho địa phương, cho cơ sở để địa phương, cấp dưới phát huy tính chủ động, sáng tạo mà dám chịu trách nhiệm trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn mà dân giao cho.
- Cần đưa hoạt động kiểm toán là một hoạt động bắt buộc thường xuyên đối với các cơ quan; mỗi cơ quan, đơn vị nên bố trí một kiểm toán viên là biên chế của đơn vị mình. Thực hiện dân chủ, công khai về tài chính công, tất cả các chi tiêu tài chính đều được công bố công khai.
- Thực hiện thí điểm để áp dụng rộng rãi một số cơ chế tài chính mới như: cho thuê đơn vị sự nghiệp công; cho thuê đất để xây dựng cơ sở nhà trường, bệnh viện; chế độ bảo hiểm xã hội đối với cán bộ, công chức chuyển từ các đơn vị công lập sang dân lập…; thực hiện cơ chế hợp đồng đối với một số dịch vụ công tác trong các cơ quan hành chính.