18/06/2018, 16:13

Những trận hải chiến nổi tiếng trong lịch sử- Phần 7

Những trận đánh – những chiến dịch hải quân nổi tiếng trong Chiến tranh Thế giới I Biên dịch : hongsonvh Trận hải chiến Coronel Bản đồ trận hải chiến Coronel Trận hải chiến Coronel diễn ra trong chiến tranh thế giới I vào ngày 01 tháng 11 năm 1914 ngoài khơi ...

Những trận đánh – những chiến dịch hải quân nổi tiếng trong Chiến tranh Thế giới I

42

Biên dịch : hongsonvh

Trận hải chiến Coronel

27

Bản đồ trận hải chiến Coronel

Trận hải chiến Coronel diễn ra trong chiến tranh thế giới I vào ngày 01 tháng 11 năm 1914 ngoài khơi bờ biển miền Trung Chile gần thành phố Coronel. Một hải đội của Kaiserliche Marine do Phó Đô đốc Maximilian von Graf Spee chỉ huy đã chạm trán và đánh bại một hải đội của Hải quân Hoàng gia chỉ huy bởi Chuẩn Đô đốc Sir Christopher Cradock.

Trận đánh có lẽ đã diễn ra như là kết quả của một loạt các hiểu lầm. Không vị đô đốc nào dự kiến sẽ phải chiến đấu với một đối phương có đầy đủ lực lượng. Khi hai bên giáp mặt, Cradock cho rằng mệnh lệnh của ông là chiến đấu đến cùng, mặc dù ông lại hoàn toàn không chiếm được ưu thế. Mặc dù Đô đốc Spee đã có một chiến thắng dễ dàng, phá hủy hai tuần dương hạm bọc thép của đối phương và chỉ bị thương có ba thủy thủ, quá trình chiến đấu cũng làm tiêu hao đi một nửa nguồn dự trữ đạn dược của người Đức, mà đây lại là vấn đề không thể thay thế. Cú Shock vì thua trận tại Anh đã dẫn tới một phản ứng ngay lập tức và họ gửi thêm tàu chiến mà sau đó những tầu này đã tiêu diệt phần lớn hải đội của của Spee tại Trận chiến Quần đảo Falkland.

Khúc dạo đầu

Hải quân Hoàng gia, với sự hỗ trợ của các lực lượng hải quân khác thuộc Đồng minh ở viễn đông, đã sớm gây chiến để chiếm các thuộc địa của Đức như Kaiser-Wilhelmsland, Yap, Nauru và Samoa thay vì tìm kiếm hải đội Viễn Đông của Đức do Phó Đô đốc Maximilian von Spee chỉ huy khi họ đã bỏ căn cứ tại tại tô giới của Đức ở Thanh Đảo Trung Quốc vào lúc Nhật Bản tham chiến theo phe Anh. Cuối cùng nhận ra tiềm năng của hải đội Đức trong việc đánh phá tuyến đường giao thông tại Thái Bình Dương của Anh, Bộ trươ?ng ha?i quân đã ra quyết định tiêu diệt hải đội này như là một sự ưu tiên cao độ nhưng người Anh lại tập trung tìm kiếm tại phía tây Thái Bình Dương sau khi hải đội của Spee bắn phá Papeete.

Ngày 05 tháng mười, người Anh đã đọc được từ một thông tin vô tuyến về kế hoạch của Spee để tấn công các con mồi là tầu buôn ở các tuyến đường thương mại quan trọng dọc theo bờ biển phía tây của Nam Mỹ. Chịu trách nhiệm tuần tra trong khu vực này vào thời điểm đó là Hải đội Nam Đại Tây Dương dưới sự chỉ huy của Chuẩn Đô Đốc Sir Christopher Cradock, hải đội này gồm ba tàu tuần dương bọc thép, chiếc HMS Good Hope (Kỳ hạm của Cradock), HMS Monmouth và HMS Defence, chiếc tàu tuần dương hạng nhẹ hiện đại HMS Glasgow, ba tàu tuần dương hạng nhẹ khác, một chiếc tầu chở khách chuyển đổi, chiếc HMS Otranto và hai tầu buôn vũ trang.

Hải đội của Cradock không có các phương tiện chiến đấu hiện đại, hầu hết các thủy thủ đoàn không có kinh nghiệm đặc biệt với các chiếc Good Hope và Monmouth thì thủy thủ đoàn chủ yếu là lực lượng dự bị. Von Spee có một lực lượng hùng mạnh gồm năm tàu chiến, dẫn đầu là hai chiếc tàu tuần dương bọc thép Scharnhorst và Gneisenau cộng với ba tàu tuần dương hạng nhẹ, SMS Dresden, SMS Leipzig và SMS Nürnberg, tất cả các tàu này đều là tầu chiến hiện đại với các sỹ quan được giới thiệu bởi Đại Bộ trưởng Hải quân Alfred von Tirpitz. Tuy nhiên, Cradock chỉ nhận được mệnh lệnh đơn giản là “chuẩn bị chạm trán với đối phương trong đội hình chiến đấu” mà không chỉ rõ những nỗ lực mà Cradock sẽ phải thực hiện, hoặc không nói rõ ràng rằng ông ta nên phải truy tìm von Spee.

Ngày nhận được mệnh lệnh gửi đến cho mình, Cradock hỏi Bộ hải quân để xin phép chia hải đội của mình thành hai thê đội, mỗi thê đội có thể phải đối mặt với von Spee một cách độc lập. Các thê đội sẽ hoạt động ở bờ biển phía đông và phía tây của Nam Mỹ để đề phòng khả năng von Spee Cradock vượt qua và đánh phá vào Đại Tây Dương. Bộ Hải quân đồng ý và thế là chiếc tuần dương hạm bọc thép HMS Defence cùng ba tàu tuần dương và hai tầu buôn vũ trang tạo thành một thê đội ở bờ biển phía đông dưới sự chỉ huy của Chuẩn Đô đốc A.P. Stoddart

Các tàu còn lại thành lập thê đội ở bờ biển phía tây dưới sự chỉ huy của Cradock được tăng cường bởi một chiếc thiết giáp hạm cũ kỹ, chiếc HMS Canopus đến vào ngày 18 tháng mười. Chiếc này đã được thoát khỏi lịch trình tháo dỡ bán đồng nát bởi sự bùng nổ của chiến tranh I và vì cần một cuộc sửa chữa lớn nên tốc độ tối đa của nó chỉ đạt 12 hải lý mỗi giờ (đúng là một con rùa già ?” nhưng trong trận này vì chậm như rùa nên nó đã thoát chết trong trận Coronel). Bộ Hải quân nhận ra rằng tốc độ của nó quá chậm có nghĩa là hạm đội của mình sẽ không đủ nhanh để tham chiến và vì không có chiếc Canopus thì hạm đội không có đủ cơ hội để chống trả lực lượng của von Spee, do đó họ đã nói với Cradock sử dụng chiếc Canopus là “một thành trì và bao xung quanh các tàu tuần dương của chúng ta trong những vùng biển này và như vậy sẽ an toàn tuyệt đối”.

Tham mưu trưởng của Bộ hải quân, Phó Đô đốc Sir Doveton Sturdee, Yêu cầu thêm tầu được gửi để củng cố cho Cradock nhưng điều này đã được phủ quyết bởi First Lord of the Admiralty (Thành viên đứng đầu của Ủy Ban điều hành Bộ hải quân Lords of Admiral) – Winston Churchill và First Sea Lord of the Admiralty ( Chức tương đương với bộ trưởng Hải quân – First Naval Lord) – Hoàng tử Louis của Battenberg. Cradock sau đó yêu cầu chiếc HMS Defence tái gia nhập thê đội của ông nhưng đã bị từ chối với lý do chỉ chiếc Canopus là “đủ để tăng cường lực lượng”.

Thí tốt chốt xe

Ngày 22 tháng 10 Cradock đánh dây thép cho Bộ hải quân rằng ông ta sẽ đi tuần vòng quanh Cape Horn và để chiếc Canopus lại phía sau để hộ tống các tầu chở than của ông. Đô đốc John Fisher thay thế Battenberg làm First Sea Lord of the Admiralty vào ngày 27 tháng 10, và ngày hôm sau Fisher đã ra lệnh cho Cradock không tấn công von Spee mà không có chiếc Canopus. Sau đó ông ra lệnh cho chiếc tàu HMS Defence quay lại để củng cố cho Cradock.

Tuần trước Cradock đã gửi chiếc Glasgow đến Montevideo để nhận bất kỳ thông điệp nào mà Bộ Hải quân có thể đã được gửi đến. Von Spee, biết được sự hiện diện của chiếc Glasgow ở ngoài khơi Coronel, ông ta liền khởi hành từ phía nam Valparaíso với tất cả năm tàu chiến của mình với ý định tiêu diệt nó. Tuy nhiên chiếc Glasgow lại bắt được sóng vô tuyến điện từ một trong các tuần dương hạm của Đức và đã thông báo cho Cradock, làm ông ta quyết định quay hạm đội của mình về phía bắc để đánh chặn các tàu tuần dương của người Đức.

Do von Spee có ưu thế về tốc độ, hỏa lực và hơn hẳn về số lượng, vậy tại sao Cradock lại chọn phương án đối đầu là một câu đố cho các nhà sử gia. Người ta được biết rằng, một người bạn của Cradock tại thời điểm đó đang chờ để ra tòa án binh vì đã tránh đối đầu với một kẻ địch có ưu thế hơn nhưng ông này (bạn của Cradock) lại bị Bộ Hải quân nói rằng có ông ta thừa đủ lực lượng ( Tóm lại đánh thì chết ?” không đánh ra tòa án binh). Quan điểm được chấp nhận trong số các đồng nghiệp của Cradock là ông đã cho rằng “Không có quyền lựa chọn để từ chối đối đầu” Lời giải thích phổ biến hơn là Cradock biết nhiệm vụ của ông là không thể hoàn thành nhưng ông ta muốn gây thiệt hại cho von Spee và buộc ông này phải sử dụng số đạn dược mà ông (von Spee) không thể có bổ sung (Vì ngoài Thanh Đảo ra thì đức không có các căn cứ hải quân ở Hải Ngoại). Ngày 31 tháng 10, ông (Cradock) ra lệnh cho hải đội của mình để chuyển qua đội hình tấn công. Cả hai bên đều dự kiến rằng mình sẽ chỉ gặp một chiếc tàu duy nhất của đối phương cho đến khi họ nhìn thấy nhau vào lúc 04:40, ngày 1 tháng 11.

Trận đánh

Bản đồ có mầu về sự di chuyển của các tầu chiến trong trận hải chiến Coronel. Tàu Anh được thể hiện bằng màu đỏ, tàu Đức được thể hiện bằng màu xanh lam.

Bản đồ có mầu về sự di chuyển của các tầu chiến trong trận hải chiến Coronel. Tàu Anh được thể hiện bằng màu đỏ, tàu Đức được thể hiện bằng màu xanh lam.

Ngày 31 tháng 10 chiếc Glasgow vào cảng Coronel để thu thập tin tức từ lãnh sự Anh. Cũng trong bến cảng có một tàu hậu cần, chiếc Göttingen của hải đội Spee và nó ngay lập tức gửi thông tin bằng radio về việc con tàu Anh ?” chiếc Glasgow mới cập cảng. Trong khi đó chiếc Glasgow lại bắt được tin này và cho rằng tàu chiến của Đức đang ở rất gần. Nhầm lẫn đã xảy ra vì các tàu của Đức đã được hướng dẫn để sử dụng chung cùng một mật danh – đó là Leipzig. Spee quyết định chuyển tàu của mình đến Coronel để bẫy chiếc Glasgow, trong khi Đô đốc Cradock đã vội vã tiến về phía bắc để chặn đường chiếc Leipzig. Không bên nào nhận ra rằng lực lượng chính của hai bên đang tiến gần về phía nhau.

Lúc 9:15 sáng ngày 1 tháng 11 chiếc Glasgow rời cảng để gia nhập vào hải đội của Cradock lúc giữa trưa, ở khoảng 40 dặm về phía tây Coronel. Vùng biển lúc này đang có bão nên không thể gửi một chiếc thuyền để chuyển các thông báo giữa các con tầu lúc này đang trôi dạt thành một dòng trên biển. Vào lúc 13:50 các con tàu hình thành một dòng chiến đấu dài khoảng mười lăm dặm và bắt đầu đi về phía bắc với tốc độ 10 hải lý mỗi giờ tìm kiếm chiếc Leipzig. Lúc 16:17 chiếc Leipzig đi kèm với các con tàu Đức khác đã phát hiện thấy khói từ dòng tầu của Anh. Von Spee ra lệnh tăng tốc tối đa các chiếc Scharnhorst, Gneisenau và Leipzig để tiếp cận tầu Anh ở tốc độ 20 knot, còn các tàu tuần dương hạng nhẹ chậm hơn như chiếc Dresden và Nürnberg thì tụt lại một khoảng xa ở phía sau.

Vào lúc 4,20 các chiếc Glasgow và Otranto đã nhìn thấy khói của tầu Đức ở phía bắc, và sau đó thấy chiếc ba tàu kia ở một khoảng cách chừng mười hai dặm. Hải đội Anh vội đảo ngược hướng, vì vậy cả hai đội tầu cùng di chuyển về phía nam, và một cuộc đuổi bắt bắt đầu nổ ra và kéo dài khoảng 90 phút. Cradock phải đối mặt với một sự lựa chọn, hoặc là tăng tốc ba tuần dương hạm của mình lên tới hai mươi hải lý và bỏ lại chiếc Otranto(đây là một chiếc tầu buôn chuyển đổi ) và chạy thoát khỏi người Đức, hoặc ở lại và chiến đấu cùng với chiếc Otranto ?” mà chiếc này chỉ có thể cố gắng chạy đến 16 knot. Các tàu Đức chạy chậm lại và giữ khoảng cách chừng 15.000 yard để tổ chức lại và chọn cho mình các vị trí tốt nhất, và để chờ đợi thời điểm tấn công tốt nhất, khi người Anh chạy về phía tây và ngược với mặt trời lặn.

Vào lúc 5:10 Cradock quyết định rằng ông ta chấp nhận chiến đấu, và đã cố gắng cho các tàu của ông xích lại gần nhau hơn. Ông thay đổi hướng dịch chuyển để về phía đông nam và cố gắng để tiến lại gần các tàu của Đức trong khi mặt trời vẫn còn rất cao và lại chiếu từ phía sau tàu của ông sẽ làm chói mắt các pháo thủ Đức. Von Spee từ chối không tham chiến và quay tàu của mình đi nhanh hơn, duy trì khoảng cách song song giữa các hải đội ở khoảng 14.000 yard. Vào lúc 6:18 Cradock lại một lần nữa cố gắng để tiến đến gần, lần này ông cho hải đội lao thẳng vào đội hình của đối phương, nhưng lại một lần nữa tầu Đức lại chạy lùi và giữ ở khoảng cách lớn hơn 18.000 yard. Vào lúc 6:50 mặt trời đã lặn, Spee tiến lại gần tới 12.000 yard và bắt đầu nổ súng (von Spee đúng là một con cáo già ?” nhưng phải như vậy mới chắc thắng).

Một số bức ảnh về hạm đội hai phía

Chiếc tuần dương - kỳ hạm bọc thép HMS Good Hope của Đô đốc Cradock

Chiếc tuần dương – kỳ hạm bọc thép HMS Good Hope của Đô đốc Cradock

38

Chiếc tuần dương hạm bọc thép HMS Monmouth trong hải đội của Đô đốc Cradock

42

Chiếc thiết giáp hạm tiền Dreadnought chậm như rùa HMS Canopus, nhưng chính vì chậm chạp nên nó đã thoát chết trong trận Coronel

Ảnh chiếc tuần dương - kỳ hạm bọc thép SMS Scharnhorst trong hải đội của von Spee

Ảnh chiếc tuần dương – kỳ hạm bọc thép SMS Scharnhorst trong hải đội của von Spee

32

Ảnh chiếc tuần dương – kỳ hạm bọc thép SMS Scharnhorst trong hải đội của von Spee 

Ảnh chiếc tuần dương hạm hạng nhẹ SMS Leipzig trong hải đội của von Spee

Ảnh chiếc tuần dương hạm hạng nhẹ SMS Leipzig trong hải đội của von Spee

Ảnh chiếc tuần dương hạm hạng nhẹ SMS Leipzig trong hải đội của von Spee

Ảnh chiếc tuần dương hạm hạng nhẹ SMS Leipzig trong hải đội của von Spee

Các tàu Đức có mười sáu súng 8,2 inch khi so sánh với hai súng 9,2 inch trên chiếc Good Hope. Một trong số hai khẩu này đã bị trúng đạn trong vòng năm phút khi trận đánh bắt đầu. Những khẩu súng 6 in còn lại trên các tàu Anh đều được đặt trong các hầm súng dọc theo hai bên mạn của các con tàu, mà vùng biển này lại đang có bão không dứt, các con tầu của Anh sẽ bị ngập nước nghiêm trọng nếu các cửa này được mở ra để bắn súng. Chiếc tàu tuần dương chuyển đổi Otranto chỉ có súng 4-inch và đang trở thành một mục tiêu lớn hơn nhiều so với các tàu khác nên nó phải chạy té về phía tây ở tốc độ tối đa và hoàn toàn bị loại khỏi vòng chiến.

Súng 6-inch của các tầu Anh không đủ tầm xa để giao chiến với súng 8-inch của tầu Đức, Cradock vẫn cố gắng để áp sát các con tàu của Đức. Vào lúc 7:30 ông ta vào gần đến 6.000 yard, nhưng khi tầu của ông càng xáp lại gần thì đạn của tầu Đức lại trở thành chính xác hơn. Cả hai chiếc Good Hope và Monmouth đều bị bốc cháy và trở thành mục tiêu dễ dàng cho các pháo thủ Đức vì bây giờ bóng tối đã phủ xuống và lại làm cho tàu Đức biến mất vào bóng tối. Chiếc Monmouth lần đầu tiên trở nên câm lặng. Chiếc Good Hope tiếp tục bắn, tiếp tục áp vào gần tàu Đức hơn nữa và lĩnh nhiều phát đạn hơn và hơn nữa. Vào lúc 19:50 nó cũng ngừng bắn, sau đó phần phía trước của nó phát nổ, sau đó nó vỡ ra và chìm, không có một ai được chứng kiến tận mắt con tầu này chìm ( vì tầu Đức đã lảng vào bóng tối, tầu Anh chiếc thì bỏ chạy, chiếc cũng đang sắp chìm).

Chiếc Scharnhorst chuyển hướng và bắn vào chiếc Monmouth, trong khi đó chiếc Gneisenau quay sang cùng với chiếc Leipzig và Dresden đồng loạt tấn công chiếc Glasgow. Hai tuần dương hạm hạng nhẹ của Đức chỉ có súng 4,1 inch nên làm chiếc Glasgow tương đối ít bị tổn thương, nhưng lúc này nó lại bị tấn công bằng súng 8,2 inch của chiếc Gneisenau. John Luce, đội trưởng của Glasgow, xác định rằng chẳng còn mục tiêu gì để cố mà ở lại và tiếp tục chiến đấu. Ông cũng đã nhận thấy rằng mỗi lần tầu của mình khai hỏa thì ánh lửa lóe lên từ các khẩu súng của ông sẽ được người Đức sử dụng làm mục tiêu cho một loạt bắn mới, vì thế ông cũng cho ngừng bắn. Một khoang của con tàu đã bị ngập, nhưng nó vẫn có thể cố gắng chạy với tốc độ 24 hải lý mỗi giờ. Đầu tiên là ông cho tầu quay lại phía chiếc Monmouth, lúc này nó không còn lửa cháy nhưng vẫn còn nổi. Chẳng còn làm được gì cho con tàu, nó đang từ từ chìm dần nhưng vẫn cố gắng để tiến về phía bãi biển thuộc bờ biển Chile. Chiếc Glasgow chuyển hướng về phía nam và bỏ đi.

Có một số nhầm lẫn giữa các tàu của Đức về số phận của hai tàu tuần dương bọc thép lúc này đã biến mất vào bóng tối sau khi ngừng bắn, và một cuộc săn đuổi lại bắt đầu. chiếc Leipzig thấy một cái gì đó đang cháy nhưng khi đến gần lại chỉ thấy đó là đống đổ nát mà thôi (xác của chiếc Good Hope???). Chiếc Nürnberg, chậm hơn so với các tàu Đức khác nên đã đến muộn và không tham gia trận đánh, nhưng nó lại nhìn thấy chiếc Monmouth, chiếc này đã bị nghiêng và bị hư hỏng nặng nhưng vẫn di chuyển. Sau khi hướng đèn pha vào cột cờ hiệu của nó, một tín hiệu yêu cầu đầu hàng đã bị từ chối, nó nổ súng và cuối cùng đã đánh chìm con tàu này. Vì không có thông tin xác nhận nên von Spee quyết định rằng chiếc Good Hope đã trốn thoát và ra lệnh từ bỏ cuộc tìm kiếm vào lúc 22:15. Và nhớ đến những báo cáo rằng một chiến hạm của Anh đang ở một nơi nào đó, ông quay về phía bắc.

Không có một ai còn sống sót trong cả hai chiếc Good Hope hoặc Monmouth, gần 1.600 sĩ quan và thủy thủ Anh đã chết với Cradock nằm trong số đó. Cả hai chiếc Glasgow và Otranto đều trốn thoát (chiếc tầu chuyển đổi chỉ bị trúng năm phát đạn và có năm người bị thương). Chỉ cần hai phát đạn đã bắn trúng chiếc Scharnhorst, không phát đạn nào trong đó phát nổ: một trong 6-inch vỏ hit trên các vành đai giáp và xuyên vào một kho, nơi mà theo lời của von Spee, “những tạo vật này chỉ nằm đó như một loại thiệp chúc mừng.” Một phát đạn khác trúng vào chiếc ống khói. Đổi lại chiếc Scharnhorst đã cố gắng bắn ít nhất 35 phát đạn trúng vào chiếc Good Hope, nhưng đã phải dùng tới 422 viên đạn 8,2-inch, và chỉ còn lại 350 viên đạn. Bốn phát đạn đã bắn trúng chiếc Gneisenau, một trong số đó như gần như đã làm ngập phòng sĩ quan. Một phát đạn từ chiếc Glasgow bắn trúng tháp pháo phía sau và làm nó tạm thời rời ra. Ba thủy thủ của chiếc Gneisenau đã bị thương, và nó dùng hết 244 viên đạn của mình và chỉ còn lại có 528 viên.

Hậu quả

Ảnh Phó Đô đốc von Spee người đã chiến thắng với tổn thất ít chưa từng thấy tại trận Coronel nhưng lại thất bại và thiệt mạng cùng phần lớn thủy thủ của mình trong trận Falkland

Ảnh Phó Đô đốc von Spee người đã chiến thắng với tổn thất ít chưa từng thấy tại trận Coronel nhưng lại thất bại và thiệt mạng cùng phần lớn thủy thủ của mình trong trận Falkland

Von Spee sau đó nhận xét về các chiến thuật của Anh. Ông đã có những thông tin sai lạc rằng chiếc tàu chiến Canopus được nhìn thấy ở khu vực này lại được cho là một chiếc thiết giáp hạm tương đối hiện đại lớp Queen, trong khi thực tế thì chiếc tầu tăng viện lại là 1 thiết giáp hạm lớp Canopus loại đã cũ và đi biển rất kém, nhưng dù sao nó vẫn có tới bốn súng 12in và mười súng 6 in. Von Spee tin rằng ông có thể sẽ thua nếu tất cả các tàu Anh đều tham chiến đầy đủ (người Anh có chiếc Canopus đi quá chậm và chiếc Defence cùng vài chiếc nữa đi hướng khác). Mặc dù chiến thắng, ông vẫn bi quan về sự đe dọa của hải quân Anh, và cũng như cơ hội sống còn của mình. Cradock có rất ít thuyết phục về giá trị của chiếc Canopus vì nó quá chậm với tốc độ 12 hải lý để cho phép các tàu khác của mình có thể tự do di chuyển và người chỉ huy nó chỉ là sỹ quan dự bị thiếu kinh nghiệm chiến đấu.

Lời giải thích chính thức của thất bại này khi trình lên Hạ nghị viện bởi Winston Churchill là: “ông ta cảm thấy rằng ông không thể ép đối phương vào một trận chiến ngay lập tức nếu ông còn giữ chiếc Canopus, ông quyết định tấn công họ ngay với chỉ những tàu có tốc độ cao của mình, với niềm tin rằng ngay cả khi bản thân ông bị tiêu diệt … ông sẽ gây thiệt hại cho đối phương mà … nhất định sẽ dẫn đến sự hủy diệt tiếp theo của họ sau đó. “

Ngày 03 tháng 11, các chiếc Scharnhorst, Gneisenau và Nürnberg vào cảng Valparaiso và đã được chào đón như những anh hùng của người Đức. Von Spee từ chối tham gia vào các lễ kỷ niệm: xuất hiện với một bó hoa và ông nhận xét, ” Bó hoa độc đáo này sẽ làm đẹp cho ngôi mộ của tôi?. Ông đã chết với một phần lớn người trên tàu của ông khoảng gần một tháng sau đó tại Trận Quần đảo chiến Falkland ngày 08 tháng 12 năm 1914.

Sự chậm trễ của đường dây thông tin liên lạc

Ngày 30 tháng 10, trước khi trận chiến diễn ra nhưng sự chậm trễ của hệ thống thông tin liên lạc đã làm cho các mệnh lệnh đến quá muộn để có được tác dụng, Đô đốc Jacky Fisher đã được tái bổ nhiệm First Sea Lord thay thế cho Battenberg. Battenberg và Churchill đã mất khá nhiều thời gian để tranh cãi trong việc để giữ lại Battenberg, một hoàng tử Đức, là First Sea Lord chống lại các mối quan tâm rộng rãi rằng Đô đốc cấp cao của Anh đã điều hành một cuộc chiến tranh chống lại đất mà ông ta ra đời. Battenberg là một đô đốc đã được chứng minh là đáng tin cậy, nhưng cuối cùng đã phải bị thay thế vì sức ép của công luận. Tuy nhiên, toàn bộ cuộc khủng hoảng đã thu hút sự chú ý của các sĩ quan cao cấp nhất của bộ ha?i quân sự ra khỏi các sự kiện ở Nam Mỹ. Churchill sau đó nói rằng nếu ông đã không bị phân tâm, ông sẽ phải đặt câu hỏi sâu sắc hơn về những ý định của vị đô đốc của mình ở trên biển.

Churchill đã nhận được một bức điện tín từ Cradock vào ngày 27 Tháng 10, xin cố vấn cho ý định của ông để lại chiếc Canopus ở phía sau, vì tốc độ nó quá chậm, và cũng như những hướng dẫn để đưa những tàu còn lại vào tìm kiếm Spee. Ông này (Cradock) nói lại rằng ông vẫn hy vọng lực lượng tiếp viện sẽ vẫn là chiếc HMS Defence mà trước đó ông này đã được cho biết là sắp tới, và rằng ông đã đưa ra mệnh lệnh cho nó gia nhập hải đội của ông càng sớm càng tốt. Mặc dù chiếc HMS Defence đã từng được gửi đi để củng cố cho lực lượng của Cradock, sau đó nó lại được thu hồi và gọi trở về Địa Trung Hải và sau lại được gửi lại để tạo thành một phần của một hải đội mới đi tuần tra bờ biển phía đông của Nam Mỹ. Một sự bất đồng đã phát sinh giữa Cradock và bộ trươ?ng ha?i quân trong viêc giao nhiệm vụ và sử dụng con tầu này như thế nào?.

Cradock tin rằng ông đã được (các quan chức ngồi ở BHQ) lên kế hoạch để tiến lên và tiếp chiến với von Spee với những lực lượng ông có trong tay, trong khi Bộ Hải quân dự kiến ông nên tập trung các tầu chiến xung quanh chiếc Canopus để tăng cường phòng, và chỉ để trinh sát tình hình hoặc tận dụng bất kỳ tình huống lợi thế nào mà ông có để đánh bại chỉ một phần lực lượng của đối phương. Churchill trả lời qua điện tín rằng chiếc Defencesẽ ở lại bờ biển phía đông và rằng Cradock phải thực hiện nhiệm vụ với lực lượng hiện có của mình mà không đưa ra bất cứ bình luận nào về kế hoạch của Cradock để bỏ lại chiếc Canopus của mình. Churchill đã gửi thông điệp này đến các thành viên của bộ ha?i quân và nói rằng ông không hiểu một cách chính xác Cradock dự định những gì.

Ảnh Chuẩn Đô đốc Cradock, người đã chiến đấu theo kiểu tấn công cảm tử và anh dũng hy sinh trong trận Coronel.

Ảnh Chuẩn Đô đốc Cradock, người đã chiến đấu theo kiểu tấn công cảm tử và anh dũng hy sinh trong trận Coronel.

Cradock có thể nhận được thư trả lời của Churchill, vào ngày 01 tháng 11 với các thông điệp nhận được bởi chiếc Glasgow tại Coronel, và ông ta có thời gian để đọc nó trước khi trận chiến. Vì vậy Cradock đã có thể lấy được thông báo mà nó xác nhận lần cuối về những gì ông được mong đợi sẽ phải làm. Khởi hành từ Stanley ( thuộc quần đảo Falkland) ông để lại một lá thư được chuyển tiếp đến Đô đốc Hạm đội Sir Hedworth Meux trong trường hợp ông bị chết. Trong này, ông nhận xét rằng ông không có ý định phải chịu số phận của Chuẩn Đô đốc Troubridge, người trong tháng 8 đã phải ra tòa án binh vì lẩn tránh không tán công vào đối phương, mặc dù ông ta hoàn toàn mất ưu thế về lực lương trong khi ông ta truy đuổi các chiếc Goeben và Breslau. Trong trường hợp của Troubridge tàu Đức đã vượt qua tầu của ông ta và trốn thoát, và đã có thể là von Spee cũng sẽ làm điều tương tự, chạy xung quanh mũi Horn và trở về nước Đức nếu ông (Cradock ) không can thiệp. Viên thống đốc của Falklands báo rằng Cradock có thể đã không hy vọng rằng mình còn sống sót, đồng ý kiến với viên thống đốc, Luce, thuyền trưởng của chiếc Glasgow báo cáo rằng “Cradock không đưa ra lựa chọn lẩn tránh hoặc trì hoãn giao chiến ngay cả nếu có được cơ hội thành công nhỏ nhất”.

Ngày 03 tháng 11, Fisher tại London nhận được tin từ Valparaiso rằng người ta đã nhìn thấy Spee. Ông khẩn trương ra lệnh cho chiếc Defence ra nhập vào đội hình của Cradock, và nhấn mạnh sự cần thiết phải giữ chiếc Canopus cùng với các tàu khác thì vào ngày 04 tháng 11, các báo cáo của người Đức về kết quả của trận chiến đã lan tới được London.
Phản ứng của người Anh

Đây là lần đầu tiên hải quân Anh bị đánh bại đánh bại kể từ Trận Lake Champlain trong Chiến tranh năm 1812 và lần đầu tiên một hải đội hải quân Anh bị đánh bại kể từ Trận Port Grand vào năm 1810. Sáu tuần trước đó một chiếc tàu ngầm Đức đã đánh chìm ba tàu tuần dương Anh đang tuần tra tại English Channel.

Khi tin tức về quy mô của sự thất bại của người Anh, và hậu quả nhục nhã của nó đến được Bộ Hải quân ở London, một lực lượng hải quân mới đã được tập hợp dưới sự chỉ huy của Phó Đô đốc Sturdee. Lực lượng này đã tìm thấy và tiêu diệt lực lượng của Spee tại Trận chiến Quần đảo Falkland.

Chiếc Glasgow thoát khỏi trận chiến và liên tục chạy về phía Nam trong ba ngày với tốc độ 20 hải lý mỗi giờ đi qua Eo biển Magellan. Chiếc Canopus nhận được cảnh báo của chiếc Glasgow qua tin nhắn đã quay về với tốc độ tối đa mà nó có thể đi được – 9 hải lý mỗi giờ. Ngày 6 tháng 11 hai tàu đã gặp nhau và từ từ tiến về phía đảo Falkland. Hai lần trong suốt chuyến đi chiếc Canopus đã báo rằng con tàu đã không thể được kiểm soát. Sau khi ăn than, cả hai tàu được mệnh lệnh tiến về phía Bắc, nhưng một lần nữa chiếc Canopus lại bị vỡ (nồi hơi). Cuối cùng nó nhận được lệnh tiến vào bãi biển ở phần bên trong của Stanley Harbour, Nơi nó có thể phục vụ như là một khẩu đội pháo phòng thủ bờ biển.

Chiếc Otranto chạy 200 dặm và vào biển Thái Bình Dương, trước khi chuyển hướng về phía nam và đi xung quanh mũi Cape Horn. Ngày 04 tháng 11 bộ ha?i quân ra lệnh cho các tàu còn sống sót chuyển đến Abrolhos Rocks, nơi mà một lực lượng mới đã được tập hợp ở đó. Chuẩn Đô đốc Archibald Stoddart với các tàu tuần dương bọc thép Carnarvon và Cornwall gặp họ ở đó và chờ đợi sự xuất hiện của chiếc Defence. Sturdee được lệnh để đi cùng với các tàu chiến Invincible và Inflexible sau đó nhập vào Hạm đội Grand Fleed tại Bắc ha?i để chỉ huy một hải đội mới với các ưu thế rõ ràng hơn hẳn lực lượng của von Spee.

Trận Hải chiến Quần đảo Falkland

Bản đồ diễn biến trận chiến Quần đảo Falkland

Bản đồ diễn biến trận chiến Quần đảo Falkland

Tóm tắt trận đánh
Ngày Ngày 08 tháng 12 năm 1914
Nơi Nam Đại Tây Dương, gần Quần đảo Falkland
Kết quả Anh chiến thắng quyết định
Tham chiến
Hải quân Hoàng gia
Chỉ huy
Doveton Sturdee
Sức mạnh
2 tàu thiết giáp hạm chủ lực
3 tuần dương hạm bọc thép
2 tuần dương hạm hạng nhẹ và
1 thiết giáp hạm tiền Dreadnought
Thương vong
10 bị giết
19 người bị thương
Không có tàu bị mất
Kaiserliche Marine – Hải quân Đế chế
Chỉ huy
Maximilian von Spee ?
Sức mạnh
2 tuần dương hạm bọc thép
3 tuần dương hạm hạng nhẹ
3 tàu vận tải
Thương vong
1.871 thiệt mạng
215 bị bắt
2 tuần dương hạm bọc thép bị đánh chìm
2 tuần dương hạm hạng nhẹ bị đánh chìm
2 tàu vận tải bị bắt và sau đó bị đánh đắm

Trận chiến Quần đảo Falkland là một chiến thắng của Hải quân Anh trước Hải quân Đế quốc Đức vào ngày 8 tháng 12 năm 1914 trong Thế chiến thứ nhất ở Nam Đại Tây Dương. Người Anh nhục nhã vì một thất bại tại trận Coronel ngày 01 tháng 11 đã gửi một lực lượng lớn để theo dõi và tiêu diệt hải đội tàu tuần dương Đức và đã đánh bại họ trong trận Coronel.

Đô đốc Graf Maximilian von Spee chỉ huy hải đội Đức gồm hai tuần dương hạm bọc thép, SMS Scharnhorst và SMS Gneisenau, ba tuần dương hạm hạng nhẹ, Nürnberg, Dresden và Leipzig, và ba tầu vận tải đã cố gắng tấn công căn cứ tiếp vận của Anh tại Stanley trên quần đảo Falkland. Hai tầu tuần dương chủ lực của Anh gồm, các chiếc HMS Invincible và HMS Inflexible, ba tàu tuần dương bọc thép gồm các chiếc HMS Carnarvon, HMS Cornwall và HMS Kent, và hai tuần dương hạm hạng nhẹ gồm các chiếc HMS Bristol và HMS Glasgow đã cập cảng chỉ một ngày trước đó.

Tầm nhìn lúc đó là tối đa: mặt biển rất bình yên với các làn gió nhẹ thổi từ phía tây bắc, mặt trời rất sáng, bầu trời quang đãng. Các tuần dương hạm hải đội Đức đã bị phát hiện rất sớm, và vào lúc 9:00 sáng ngày hôm đó trong khi các tàu tuần dương chủ lực và tàu tuần dương còn lại của Anh đều đang gắt gao tìm tông tích của năm chiếc tàu chiến Đức thì các con tầu này dàn thành hàng và tiến về phía đông nam. Tất cả ngoại trừ chiếc Dresden và chiếc tầu phụ trợ Seydlitz số còn lại đều bị bắt và đánh chìm.

Các tàu tuần dương chủ lực của Anh được lắp tám súng 12-inch (305 mm) trên một chiếc tầu, trong khi các chiếc SMS Scharnhorst và SMS Gneisenau của Spee chỉ có tám súng 8,24-inch (209 mm). Ngoài ra, các tàu tuần dương chủ lực có thể chạy với tốc độ 25 ½ knot/ giờ so với tốc độ 22 ½ knot của các tầu của Spee. Vì vậy, các tàu tuần dương chủ lực của Anh có thể chạy nhanh hơn đối thủ của họ và có ưu thế đáng kể về chất lượng súng. Chiếc thiết giáp hạm lạc hậu tiền Dreadnought, HMS Canopus, cũng đóng tại Stanley để hoạt động như một pháo đài nổi để bảo vệ khu vực này.

Hải đội của Spee

Dữ liệu thống kê tóm tắt lực lượng của Phó Đô đốc Spee

Dữ liệu thống kê tóm tắt lực lượng của Phó Đô đốc Spee

Sau của sự thành công von Spee vào ngày 01 tháng 11 năm 1914 tại trận Coronel ở ngoài khơi bờ biển Valparaiso, Chile, nơi Hải đội Đông Á của Đức đánh chìm các tàu tuần dương HMS Good Hope (Kỳ hạm của Đô đốc Cradock) và HMS Monmouth, lực lượng của Von Spee tiến vào Valparaíso. Theo yêu cầu theo luật quốc tế đối với các tàu tham chiến tại các nước trung lập, các tàu ở lại đó trong vòng 24 giờ trước khi di chuyển đến Mas Afuera, 400 dặm ngoài khơi bờ biển Chile. Ở đó, họ nhận được tin tức về việc chiếc SMS Emden bị tiêu diệt, chiếc này trước đó đã tách ra khỏi hải đội và bị tấn công ở Ấn Độ Dương. Họ cũng biết được của sự sụp đổ của thuộc địa của Đức tại Thanh Đảo – Trung Quốc, vốn đã là cảng nhà của họ. Ngày 15 tháng 11 hải đội chuyển đến Bahia San Quintin trên bờ biển Chile, nơi mà một buổi lễ được tổ chức để phân phát huân chương 300 Iron Cross hạng hai cho các thủy thủ đoàn, và một huân chương chữ thập sắt hạng nhất được trao cho Đô đốc Spee.

Spee cũng nhận được các khuyến nghị nên trở về Đức nếu ông có thể. Các tàu của ông đã sử dụng một nửa số đạn dược của họ tại trận Coronel mà họ không thể có bổ sung, và có những khó khăn để có nhiên liệu – than. Tin tình báo cho rằng các tàu Defence, Cornwall và Carnarvon đang đóng tại sông Plate, và rằng có không có tàu chiến của Anh tại đảo Stanley khi 1 tàu hơi nước ghé qua vào thời gian gần đó. Spee đã quan tâm đến các báo cáo về một tàu chiến Anh, chiếc Canopus, nhưng không ai xác định được rõ vị trí của nó. Ngày 26 tháng 11 hải đội di chuyển tới Cape Horn và đến đó vào ngày 1 tháng 12, sau đó thả neo tại Picton Island, nơi họ ở lại trong ba ngày để lấy than từ một tầu chở hàng của Anh bị bắt giữ. Ngày 06 tháng 12 Spee đề nghị một cuộc tấn công vào quần đảo Falkland trước khi chuyển về phía bắc. Cuộc tấn công này là không cần thiết vì hải đội đã có nhiều than đá ở mức họ có thể mang được, và ý tưởng này bị phản đối bởi hầu hết các thuyền trưởng của Spee, nhưng ông này vẫn quyết định tiến hành cuộc tấn công.

Sự chuẩn bị của người Anh

Ngày 30 Tháng 10 vị Đô đốc về hưu Sir John Fisher được tái bổ nhiệm First Sea Lord để thay thế Đô đốc Hoàng tử Louis của Battenberg, người đã bị buộc phải từ chức vì sự phản đối kịch liệt của công chúng chống lại việc một hoàng tử người Đức đảm nhận việc điều hành hải quân Anh. Ngày 03 tháng 11 Fisher đã được báo rằng có người nhìn thấy Spee ở ngoài khơi Valparaiso và đã có hành động để củng cố Cradock bằng cách tăng cường thêm chiếc HMS Defence lúc này đã được gửi tới tuần tra bờ biển phía đông của Nam Mỹ để củng cố hải đội của ông ta. Khi ông nhận được tin tức vào ngày 4 tháng 11 về sự thất bại tại Coronel. Kết quả là các tàu tuần dương chủ lực Invincible and Inflexible được lệnh rời khỏi Hạm đội Grand Fleed và đi đến Plymouth để sửa chữa lớn và chuẩn bị cho nhiệm vụ ở nước ngoài. Tham mưu trưởng của Admiralty là Phó Đô đốc Doveton Sturdee, Fisher có một bất đồng lâu dài với Sturdee, một trong những người kêu gọi sa thải ông ta (Fisher ) trong lần nắm cương vị First Sea Lord đầu tiên trong năm 1911, do đó, ông nắm lấy cơ hội quyết định bổ nhiệm Sturdee chức Tổng tư lệnh vùng Nam Đại Tây Dương và Thái Bình Dương, để chỉ huy hải đội mới từ chiếc Invincible.

Ảnh Phó Đô đốc Sturdee người đã chiến thắng trong trận hải chiếc Falkaland

Ảnh Phó Đô đốc Sturdee người đã chiến thắng trong trận hải chiếc Falkaland

Ngày 11 tháng 11 các chiếc Invincible và Inflexible rời Devonport, mặc dù công việc sửa chữa của chiếc tầu vẫn chưa được hoàn tất và nó khởi hành với những thợ sửa chữa vẫn còn trên boong. Mặc cho tính cấp bách của tình hình và tốc độ tối đa của nó là khoảng 25 hải lý/ giờ, con tàu chỉ đi với tốc độ ổn định 10. Chạy tốc độ cao đòi hỏi phải sử dụng một số lượng than cực lớn, do đó, để hoàn thành cuộc hành trình dài nó là cần thiết để đi ở tốc độ hành trình đây là tốc độ kinh tế nhất. Hai chiếc tàu cũng tải theo rất nhiều vật tư. Tính bảo mật của chuyến hành trình được coi là tối quan trọng để làm Spee bất ngờ, nhưng ngày 17 tháng 11, Trung úy Hirst từ chiếc Glasgow nghe người dân địa phương thảo luận về sự xuất hiện của các con tầu sắp tới ở bờ của Cape Verde. Nhưng những tin tức này đã không đến được tới Spee. Sturdee đến Abrolhos Rocks vào ngày 26 tháng 11 nơi mà Chuẩn Đô đốc Stoddart chờ đợi ông ta với phần còn lại của hải đội.

Dữ liệu thống kê số tải trọng của hải đội Anh tại trận Falkaland

Dữ liệu thống kê số tải trọng của hải đội Anh tại trận Falkaland

Ảnh hải đội của Phó Đô đốc Sturdee

Ảnh chiếc HMS Invincible, chiếc tuần dương hạm chủ lực của Anh đã tiêu diệt hải đội của von Spee

Ảnh chiếc HMS Invincible, chiếc tuần dương hạm chủ lực của Anh đã tiêu diệt hải đội của von Spee

Ảnh chiếc HMS Invincible, chiếc tuần dương hạm chủ lực của Anh đã tiêu diệt hải đội của von Spee

Ảnh chiếc HMS Invincible, chiếc tuần dương hạm chủ lực của Anh đã tiêu diệt hải đội của von Spee

Sturdee thông báo ý định của mình để khởi hành đi quần đảo Falkland, ngày 29 tháng 11. Từ đó, các tàu tuần dương hạng nhẹ cao tốc Glasgow và Bristol sẽ tuần tra tìm kiếm Spee và gọi quân tiếp viện nếu họ tìm thấy ông ta. Thuyền trưởng Luce của chiếc Glasgow, người đã chạy thoát trong trận Coronel, phản đối rằng không có cần phải chờ đợi quá lâu và thuyết phục Sturdee khởi hành sớm hơn một ngày. Hải đội n

0