24/05/2018, 16:54

Những thuận lợi và khó khăn ảnh hưởng đến sự phát triển chung của ngành Thuỷ sản Việt Nam

Việt nam là một nước nhiệt đới và cân nhiệt đới, với một bờ biển dài, một tiềm năng vô cùng dồi dào về mặt nước, một tài nguyên sinh học rất đa dạng, quý hiếm và phong phú, nước ta hoàn toàn có thể phát triển một cách mạnh mẽ ngành thuỷ sản. Tổng sản ...

Việt nam là một nước nhiệt đới và cân nhiệt đới, với một bờ biển dài, một tiềm năng vô cùng dồi dào về mặt nước, một tài nguyên sinh học rất đa dạng, quý hiếm và phong phú, nước ta hoàn toàn có thể phát triển một cách mạnh mẽ ngành thuỷ sản.

Tổng sản lượng thuỷ sản dự tính sẽ tăng bình quân 5,13%/năm trong 15 năm tới, sản lượng từ khai thác hải sản tăng không đáng kể, nuôi trồng thuỷ sản sẽ nhanh khoảng 8-10%/năm. Do GDP bình quân đầu người tăng nên xu hướng tiêu dùng sản phẩm thuỷ sản sẽ tăng nhất là tại các khu công nghiệp các thành phố lớn. Tỷ trọng đạm động vật từ cá sẽ duy trì ở mức 30% trong tổng lượng đạm cung cấp cho nhân dân. Vẫn tiếp tục duy trì các dạng mặt hàng tươi sống đông lạnh, tuy nhiên các dạng sản phẩm khác như đồ hộp sản phẩm nấu liền, ăn ngay sẽ tăng. Các dạng sản phẩm truyền thống sẽ giữ ở mức như hiện nay. Chất lượng sản phẩm phục vụ nội địa cũng như xuất khẩu sẽ nâng cao, sản phẩm sẽ đa dạng hơn.

Để phát triển ngành thuỷ sản vấn đề hết sức quan trọng là phải xác định được mức tiêu thụ. Thực tiễn đã chứng minh sức tiêu thụ ( cả thị trường trong và ngoài nước ) là yếu tố động lực cho sự phát triển của ngành thuỷ sản trong suốt 20 năm qua. Tuy vậy khái niệm sức tiêu thụ gắn với mặt hàng và thị trượng cụ thể chứ không phải là đối với sản xuất nói chung.

Sức tiêu thụ các sản phẩm tiêu dùng trực tiếp như các sản phẩm thuỷ sản thức chất là bộ phận nhu cầu có thể đáp ứng bởi mức độ thu nhập của dân chúng và hiệu quả kinh tế xã hội do các sản phẩm mang lại. Tuy rằng khi xây dựng chiến lược phát triển những ngành tạo ra lương thực, thực phẩm như nông nghiệp, thuỷ sản tất nhiên phải quan tâm tới nhiệm vụ chính trị đặt ra trước các ngành này ở tầm vĩ mô dưới giác độ ngành kinh tế quốc dân nói chung là không ngừng nâng cao mức sống của nhân dân và đảm bảo an ninh lương thực thực phẩm mà yêu cầu cụ thể là tăng nhiều đạm và vitamin cho thức ăn. Những dưới giác độ ngành như ngành thuỷ sản chẳng hạn thì mục đích chiến lược phải đạt được là phải đảm bảo thoả mãn sức mua của sản phẩm ngành này sản xuất ra nhưng không được vượt quá khả năng của sức mua ấy.

Thước đo của mức độ tối ưu trong chiến lược phát triển của ngành thuỷ sản là phải đạt được mức độ lợi nhuận không dưới mức độ lợi nhuận bình quân trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Do đó khi tính toán qui mô sản xuất của ngành thuỷ sản nhằm đáp ứng yêu cầu thực phẩm thì đồng thời ta cũng phải tính đến sức tiêu thụ của thị trường trong nước. Tuy nhiên trên thực tế trong 10 năm nữa mức thu nhập bình quân đầu người của nước ta vẫn chưa phải là cao dẫn đến hạn chế sức mua đặc biệt là đối với các mặt hàng thuỷ sản có giá trị cao tạo ra giới hạn tiêu dùng xã hội về sản phẩm này hay sản phẩm khác. Một mặt khác sau 10 năm (2010) mức thu nhập bình quân đầu người ở nước ta ước tính đạt dược khoảng 1.000 USD/người/năm. Khi đạt được mức thu nhập bình quân đầu người ở mức đó tiêu thụ sản phẩm sẽ theo qui luật giảm tương đối so với tăng thu nhập quốc dân bình quân và ở mức này sức mua các thuỷ sản cấp thấp cũng bị hạn chế. Do đó có thể thấy rằng từ nay đến năm 2010 sức mua của mặt hàng thuỷ sản trong nước nằm ở giai đoạn giao thời không phải là lớn lắm kể cả đối với mặt hàng cấp thấp và cả đối với mặt hàng cao cấp.

Sự bùng nổ dân số thế giới cộng với hậu quả của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ngày càng làm thu hẹp đất canh tác trong nông nghiệp cộng thêm với diễn biến phức tạp của thiên nhiên, môi trường tới sản xuất nông nghiệp làm cho lương thực thực phấm sẽ luôn là mặt hàng chiến lược trên thị trường thế giới và quá trình trao đổi buôn bán hàng hoá, lương thực thực phẩm trong đó có thuỷ sản chiếm một vị trí quan trọng, trên toàn cầu ngày càng rộng rãi. Trong điều kiện đó sản phẩm thuỷ sản ngày càng chiếm vị trí quan trọng để giải quyết nguồn dinh dưỡng thực phẩm cung cấp cho nhân loại, phạm vi và khối lượng giao lưu của các mặt hàng này trên thị trường thế giới ngày càng tăng và sẽ tiếp tục tăng với mọi sự đa dạng của nó. Như vậy phát triển thuỷ sản ở nhưng nơi có điều kiện không chỉ đơn thuần đòi hỏi cấp bách và lâu dài cho việc giải quyết thực phẩm tại chỗ, giải quyết công ăn việc làm, không đơn thuần mang ý nghĩa nhân đạo nữa.

Ngành sản xuất này đang và đầy hứa hẹn có thể trở thành ngành sản xuất kinh doanh có lãi suất cao với xu thế ổn định lâu dài trên thị trường quốc tế. Đó là tiền đề quan trọng bậc nhất của sự phát triển, của sản xuất kinh doanh thuỷ sản và tiếp tục là một trong những xuất phát điểm quan trọng cho việc xây dựng chiến lược và qui hoạch phát triển kinh tế xã hội ngành thuỷ sản nước ta trong giai đoạn 2000-2010.

Có 5 thuận lợi cơ bản :

-Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm, các tầng lớp nhân dân nhận thức rõ tầm quan trọng của bước đi đầu tiên là công nghiệp hoá nông nghiệp nông thôn : Coi ngành thuỷ sản là mũi nhọn- Coi công nghiệp hoá và hiện đại hoá nông thôn là bước đi ban đầu quan trọng nhất.

-Ngành thuỷ sản đã có một thời gian khá dài chuyển sang cơ chế kinh tế mới (khoảng 20 năm) của nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước: đã có sự cọ sát với kinh tế thị trường và đã tạo ra được một nguồn nhân lực khá dồi dào trong tất cả mọi lĩnh vực từ khai thác chế biến nuôi trồng đến thương mại. Trình độ nghiên cứu và áp dụng thực tiến cũng đã tăng đáng kể.

-Hàng thuỷ sản liên tục giữ thế gia tăng, thế thượng phong và ổn định trên thị trường thực phẩm thế giới.

-Việt Nam có bờ biển dài và khí hậu nhiệt đới với sự đa dạng sinh học cao, vừa có nhiều thuỷ đặc sản quí giá được thế giới ưa chuộng vừa có điều kiện để phát triển hầu hết các đối tượng xuất khẩu chủ lực mà thị trường thế giới cần, mặt khác nước ta còn có điều kiện tiếp cận dễ dàng với mọi thị trường trên thế giới và khu vực.

-Nhìn chung có thể phát triển thuỷ sản ở khắp nơi trên toàn đất nước. Tại mỗi vùng có những tiềm năng, đặc thù và sản vật đặc sắc riêng.

-Việt Nam chưa phát triển nuôi trồng thuỷ sản công nghiệp nên còn nhiều tiềm năng đất đai để phát triển nuôi, các vùng biển nuôi mà không ảnh hưởng đến môi trường sinh thái.

-Người Việt Nam cũng là người có khả năng thích ứng nhanh với thị trường đổi mới.

-Chúng ta có mối quan hệ rộng và sự chú ý của các thị trường mới.

-Chúng ta có nhiều lao động và nguồn nhân lực còn ít được đào tạo, sẽ thích hợp cho những lợi thế khởi điểm mang tính tĩnh khi dùng loại lao động này trong lĩnh vực nuôi trồng và chế biến thuỷ sản. Tất nhiên trong quá trình phát triển sẽ nảy sinh những lợi thế so sánh động (và thường lợi thế ấy chúng ta phải tự tạo ra như lợi thế về công nghệ cao, lợi thế về kỹ thuật yểm trợ).

Quá dư thừa lao động ở các vùng ven biển, nguồn nhân lực còn ít được đào tạo, cuộc sống vật chất thiếu thốn là sức ép lớn cả về kinh tế xã hội và môi trường sinh thái đối vơí nghề cá.

-Cơ sở hạ tầng yếu chưa đồng bộ cùng với trình độ công nghệ lạc hậu trong khai thác nuôi trồng chế biến dẫn đến năng suất và hiệu quả kinh tế thấp.

-Công nghệ sản xuất thuỷ sản của Việt Nam nhìn chung còn rất lạc hậu so với các nước cạnh tranh với ta.

-Những đòi hỏi rất cao ngày càng chặt chẽ về yêu cầu vệ sinh và chất lượng của các nước nhập khẩu.

-Sự hội nhập quốc tế với sự dỡ bỏ hàng rào thuế quan và phi thuế quan sẽ tạo ra sự cạnh tranh khốc liệt ngay trên thị trường Việt Nam với các nước khác.

0