Những nguyên tắc của đạo đức mới
Các nguyên tắc của đạo đức mới mang tính khách quan, được quy định bởi địa vị và vai trò và sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản. Đây là những chuẩn mực khuyến khích, định hướng căn bản cho đạo đức cộng sản, do đó chúng nên cần có những đòi hỏi cao đối với ...
Các nguyên tắc của đạo đức mới mang tính khách quan, được quy định bởi địa vị và vai trò và sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản. Đây là những chuẩn mực khuyến khích, định hướng căn bản cho đạo đức cộng sản, do đó chúng nên cần có những đòi hỏi cao đối với chủ thể đạo đức cả trong nhận thức và thực tiễn. Đạo đức cộng sản có những nguyên tắc cơ bản sau:
Tập thể là một cộng đồng người được tổ chức trên cơ sở phân công và hợp tác với nhau, cùng hoạt động nhằm mục đích chung, qua đó đem lại lợi ích cho cộng đồng, cho từng thành viên trong cộng đồng trong xã hội.
Tập thể chân chính có một số đặc trưng sau:
- Mục đích đúng đắn, nghĩa là lợi ích tập thể thống nhất với lợi ích xã hội.
- Phải có tổ chức nhất định và bộ máy phải thực sự hoạt động. Nếu bộ máy tê liệt, các thành viên không hoạt động (hoặc mạnh ai nấy làm) thì thực chất không còn tập thể nữa.
- Các lợi ích của tập thể, cá nhân, xã hội phải được tôn trọng và phải được xử lý một cách hài hòa.
Tính tập thể của con người xuất hiện rất sớm trong lịch sử do nhu cầu lao động tạo ra vật phẩm để duy trì sự tồn tại và phát triển của con người. Chính lao động và nhờ lao động mà con người càng phát triển, hoạt động của con người càng phong phú. Suy cho cùng mọi giá trị vật chất, tinh thần của con người đều bắt nguồn từ hoạt động lao động. Tính tập thể của con người không chỉ biểu hiện ở những hoạt động cộng đồng có tính xã hội trực tiếp mà ở ngay cả những hoạt động độc lập, có tính chất cá nhân. Tinh thần tập thể nếu được thừa nhận là một giá trị cao đẹp, là một triết lý sống, một nguyên tắc sống thì phát triển thành chủ nghĩa tập thể.
Chủ nghĩa tập thể là sự thống nhất tự giác giữa cá nhân vì những lý tưởng cao quý của con người. Đó là sự thống nhất của tình đồng chí, tinh thần trách nhiệm, thái độ tôn trọng và chăm sóc lẫn nhau, nhằm bảo đảm cho các cá nhân phát triển cao nhất, phục vụ lợi ích xã hội.
Chủ nghĩa tập thể là nguyên tắc, là cơ sở khoa học và là trung tâm của đạo đức mới. Trong đó, con người không chỉ nghĩ và hành động vì mình mà còn vì người khác, có trách nhiệm và thái độ tôn trọng, chăm sóc lẫn nhau. Tập thể ở đây vừa là mục đích, vừa là phương tiện, là hình thức để cho các cá nhân phát triển.
Chủ nghĩa tập thể là kết quả của sự phát triển hợp quy luật của lịch sử loài người. Mỗi giai đoạn lịch sử đòi hỏi phải có kiểu tập thể thích hợp.
Dưới chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa tập thể trở thành quan hệ xã hội phổ biến, thể hiện trong mối quan hệ xã hội và trong mọi hình thức của đời sống xã hội. Với những hình thức thích hợp, chủ nghĩa tập thể quy định tính chất hoạt động của người lao động. Trong đó, con người không chỉ nghĩ về mình mà còn vì người khác với một tinh thần trách nhiệm, chăm sóc lẫn nhau, thực hiện mục tiêu chung phù hợp với sự tiến bộ của xã hội-, vì vậy nó chính là cơ sở của chủ nghĩa nhân đạo cộng sản.
Chủ nghĩa tập thể không dung nạp chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa phường hội vì chủ nghĩa phường hội chẳng qua là sự biến tướng của chủ nghĩa cá nhân. Biện pháp chống chủ nghĩa cá nhân không chỉ dừng lại ở việc giáo dục cá nhân mà điều quan trọng là phải xây dựng những tập thể thực sự tốt đẹp. Ở đâu tập thể tốt đẹp thì ở đó chủ nghĩa cá nhân ít có điều kiện nảy nở. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn luôn nhắc nhở cán bộ và nhân dân ta phải nâng cao tinh thần tập thể, chống chủ nghĩa cá nhân. Theo Người chủ nghĩa cá nhân là kẻ thù nguy hiểm mà mọi người chúng ta phải luôn luôn tỉnh táo đề phòng và kiên quyết tiêu diệt. Người cũng nhấn mạnh, chống chủ nghĩa cá nhân là một cuộc đấu tranh lâu dài, kiên quyết, phải kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân dưới mọi hình thức, chống chủ nghĩa cá nhân nhưng không chống lại lợi ích cá nhân.
Do đó nếu quá nhấn mạnh đến lợi ích cá nhân con người dễ sa vào chủ nghĩa cá nhân, và ngược lại chống chủ nghĩa cá nhân không thận trọng sẽ “giày xéo” lên lợi ích chính đáng của cá nhân. Cả hai khuynh hướng trên đều dẫn tới sự đối lập giữa lợi ích cá nhân và lợi ích tập thể.
Lao động “là lực lượng bản chất của con người” quá trình con người tác động vào giới tự nhiên để cải biến tự nhiên, xã hội và chính mình phù hợp với nhu cầu lợi ích bản thân mình vì sự phát triển và tiến bộ của xã hội.
Có nhiều chuẩn mực về phẩm giá của con người như: lương tâm, động cơ, hành vi,…thái độ đối với lao động. Nhưng thái độ đối với lao động là thước đo quan trọng nhất, bởi vì căn cứ vào đó mà ta đánh giá lao động nghiêm túc, trung thực có trách nhiệm, hay dối trá, qua quít, tiết kiệm hay hoang phí. Thái độ lao động đúng đắn, biểu hiện cụ thể ở những nội dung sau:
- Lao động cần cù, khoa học sáng tạo, lao động năng suất, chất lượng hiệu quả.
- Chăm lo thực hành tiết kiệm, chống tham ô lãng phí.
- Coi trọng lao động trí óc và lao động chân tay.
- Yêu quý lao động của mình, lao động của người khác.
Xã hội xã hội chủ nghĩa đòi hỏi thỏa mãn ngày càng cao nhu cầu đời sống của con người. Đòi hỏi đó hoàn toàn phụ thuộc vào lao động nhiệt tình sáng tạo với năng suất chất lượng cao của người lao động. Theo Lênin chủ nghĩa xã hội bắt đầu từ bắt đầu từ chỗ nào mà những công nhân bình thường biết quan tâm với một tinh thần hy sinh và không quản nặng nhọc đến việc nâng cao năng suất lao động. Đây là vấn đề mà Lênin cho là quan trọng nhất, căn bản nhất cho thắng lợi của chế độ mới so với nhiệm vụ chiến đấu để đánh đổ chế độ. Thái độ lao động tự giác, có kỷ luật, lao động sáng tạo thể hiện bản chất con người lao động cho xã hội, cho mình mà mình làm chủ. Đạo đức của con người trước hết được thẩm định bằng thái độ lao động, hiệu quả lao động đóng góp của họ đối với xã hội. Đạo đức mới hoàn toàn xa lạ với kiểu lao động hình thức, tắc trách, kém hiệu quả và vụ lợi. Chủ nghĩa hình thức, cảm tính chủ quan trong việc đánh giá đạo đức nhân cách của con người cần phải được phê phán và khắc phục.
Lòng yêu nước là tình cảm tự nhiên mang tính xã hội của con người với tổ chức mình. Mỗi con người sinh ra đều có cội nguồn, quê hương, đất nước, dân tộc và mọi người đều có quyền yêu cội nguồn, quê hương dân tộc ấy. Đây là một thuộc tính tự nhiên có ý nghĩa phổ biến.
Gắn bó với nơi chôn rau cắt rốn của mình, nơi ghi đậm những kỷ niệm vui buồn của tuổi ấu thơ là một nét tình cảm và tâm lý phổ biến mà ai cũng có. Đo đó, dù chốn quê hương là đồng khô cỏ cháy, nắng trải mưa dầm, nó vẫn có sức gợi nhớ sức lay động những gì ẩn kín tận đáy tâm hồn của chúng ta. Ai cũng tìm thấy nét tự hào về quê hương mình, song niềm tự hào chính đáng nhất, cao cả nhất có sức cổ vũ mạnh mẽ nhất là tự hào về truyền thống dân tộc. Chính lòng tự hào đó đem lại cho tình yêu Tổ Quốc một nội dung phong phú sâu sắc ở mỗi con người.
Một khi lòng yêu nước phát triển thành một triết lý nhân sinh, triết lý xã hội, một lối sống một trình độ nhận thức sâu sắc và có hệ thống chi phối một cách có ý thức mọi hành vi và ứng xử của con người thì trở thành chủ nghĩa yêu nước.
Chủ nghĩa yêu nước là tình yêu đối với đất nước, lòng trung thành với Tổ Quốc và khát vọng phục vụ những lợi ích của Tổ Quốc và nhân dân. Chủ nghĩa yêu nước “là một trong những tình cảm sâu sắc nhất, đã được cũng cố qua hàng trăm năm hàng nghìn năm tồn tại của Tổ Quốc biệt lập” – Như Lênin từng nhận định.
Chủ nghĩa yêu nước có quá trình phát triển có tính lịch sử lâu dài và trong xã hội có giai cấp nó mang tính giai cấp. Yêu nước theo quan niệm của giai cấp phong kiến là trung quân tức là trung với vua. Theo quan niệm của giai cấp tư sản là yêu chế độ tư sản. Chủ nghĩa yêu nước tư sản chứa đựng trong lòng nó tính bản vị dân tộc và tham vọng thống trị các dân tộc khác, phục vụ cho lợi ích của giai cấp tư sản. Cái gọi là lợi ích dân tộc mà giai cấp tư sản vẫn thường tuyên truyền thực chất chỉ là lợi ích riêng, ích kỷ của bản thân giai cấp tư sản. Yêu nước trên lập trường giai cấp công nhân khác hẳn về chất với quan niệm của giai cấp bóc lột. Nội dung của nó được thể hiện như sau:
- Yêu nước là yêu chủ nghĩa xã hội, yêu nhân dân lao động. Tổ Quốc xã hội chủ nghĩa là tổ quốc của nhân dân, chứ không phải là tài sản của riêng cá nhân nào. Lý tưởng xã hội chủ nghĩa và lý tưởng của dân tộc là thống nhất. Yêu nước xã hội chủ nghĩa đó là lòng tự hào của dân tộc, lòng tự hào về sức sáng tạo trong lao động sản xuất, lòng tự hào về những anh hùng bất khuất bảo vệ lợi ích của tổ quốc, của nhân dân, xả thân vì sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa, vì độc lập tự do của Tổ Quốc. Vì vậy, chủ nghĩa yêu nước của giai cấp công nhân luôn gắn liền với lợi ích của nhân dân lao động, gắn liền với mục đích giải phóng nhân dân lao động khỏi mọi áp bức bóc lột, nâng cao phát triển đời sống vật chất, văn hóa tinh thần, làm cho người lao động làm chủ đất nước mình.
- Yêu nước trên lập trường chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân. Chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân nhằm đoàn kết giúp đỡ và giải phóng nhân dân lao động toàn thế giới khỏi mọi xiềng xích áp bức bóc lột giai cấp thống trị. Thực tế lịch sử cho thấy, vấn đề dân tộc và giai cấp, dân tộc và quốc tế quan hệ hữu cơ không thể tách rời. Muốn hoàn thành nhiệm vụ cách mạng dân tộc phải làm tốt nhiệm vụ quốc tế. Đồng thời làm nhiệm vụ quốc tế cũng là để góp phần thúc đẩy sự nghiệp cách mạng dân tộc. Sự kết hợp chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế trở thành một nguyên tắc của xây dựng đạo đức mới có những yêu cầu sau:
+ Trong khi bảo vệ độc lập về lãnh thổ, kinh tế chính trị và văn hóa của dân tộc mình phải trân trọng dân tộc khác và trân trọng nền độc lập của họ. Đòi hỏi này nhằm chống chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, chủ nghĩa “nước lớn”, chủ nghĩa thực dân dưới mọi hình thức và tạo nên sự bình đẳng dân tộc mà thực chất là bình đẳng giữa những người lao động sống ở những quốc gia dân tộc khác nhau.
+ Yêu tổ quốc nhân dân mình đồng thời yêu nhân dân lao động các dân tộc khác, chống lại mọi thành kiến dân tộc, kỳ thị và phân biệt chủng tộc.
+ Lao động chiến đấu hoạt động với tinh thần đạo đức cộng sản để bảo vệ, xây dựng tổ quốc mình và tích cực đoàn kết ủng hộ và giúp đỡ đối với phong trào công nhân, phong trào cộng sản và phong trào giải phóng dân tộc trên toàn thế giới.
+ Chủ nghĩa quốc tế vô sản và chủ nghĩa dân tộc tư sản không chỉ là hai thế giới quan đối lập mà còn là hai chính sách, hai nguyên tắc đối lập về vấn đề dân tộc. Nếu nguyên tắc dân tộc chủ nghĩa phản ánh sự thù hận và ghen ghét giữa các dân tộc, thì nguyên tắc quốc tế chủ nghĩa đòi hỏi giữa người với người hoặc giữa nhân dân các dân tộc này với dân tộc khác đều phải có quan hệ trong sáng, hợp nhân tính. Đây là một nguyên tắc nói lên tính chất đạo đức chân chính của con người, là đặc trưng không thể thiếu được của đạo đức cộng sản.
Chủ nghĩa nhân đạo có gốc Latinh (Humanus) có nghĩa là về con người, về tính người, có học thức. Theo nghĩa hẹp, chủ nghĩa nhân đạo là một trào lưu tư tưởng thế tục của thời đại Phục hưng, gắn với việc nghiên cứu các di sản cổ đại trong triết học, luân lý học, nghệ thuật và mô tả đặc điểm của nền văn hóa thời kỳ Phục hưng.
Theo nghĩa rộng, chủ nghĩa nhân đạo là một trào lưu xã hội tiến bộ, là tổng hợp những quan điểm nhằm bảo vệ phẩm giá và quyền của con người, là sự chăm lo đến hạnh phúc và sự phát triển toàn diện của con người.
Ngay từ xa xưa những tư tưởng nhân đạo của nhân dân lao động đã hình thành một cách tự phát trong cuộc đấu tranh chống áp bức bóc lột và chống lại những hành vi vi phạm đạo đức. Chủ nghĩa nhân đạo chỉ được hình thành rõ nét từ phong trào Phục hưng thế kỷ XV – XVI ở Italia. Các đại biểu tư tưởng của giai cấp tư sản đang lên, đòi giải phóng con người, đòi tự do, bình đẳng, bác ái cho con người, phản đối chủ nghĩa khổ hạnh tôn giáo. Những tư tưởng nhân đạo chủ nghĩa thời Phục hưng được các nhà khai sáng thế kỷ XVIII và sau đó là những tư tưởng gia tư sản tiến bộ thế kỷ XIX tiếp thu. Đó là những tư tưởng tiến bộ phù hợp với yêu cầu của quần chúng đông đảo, vì thế nó trở thành ngọn cờ tư tưởng của cách mạng tư sản. Trước Mác, tư tưởng nhân đạo chủ nghĩa đã hình thành hai xu hướng sau:
- Thứ nhất: chủ nghĩa nhân đạo của các nhà tư tưởng tư sản tiến bộ thế kỷ XVII – XVIII, dựa trên cơ sở vật chất là chế độ tư hữu, cơ sở đạo đức là chủ nghĩa cá nhân. Tư tưởng này biểu hiện lợi ích và hệ tư tưởng phi tôn giáo của giai cấp tư sản đang lên tiến tới nắm chính quyền.
- Thứ hai: gắn liền với chủ nghĩa xã hội không tưởng biểu hiện lợi ích của những người lao động, những người nông dân, công nhân kể cả giai cấp bình dân thành thị. Họ chống lại hệ tư tưởng phong kiến và giáo quyền, bảo vệ lợi ích cá nhân mà trọng tâm chú ý của họ là vấn đề yêu cầu mọi người bình đẳng về tài sản, đòi lập một chế độ xã hội công bằng.
Hai khuynh hướng này tuy có khác nhau nhưng quan hệ với nhau, đều chống phong kiến, chống giáo hội. Nhưng có nhược điểm chung là:
+ Trừu tượng, kêu gọi tình thương chung chung.
+ Không thể thực hiện trong thực tế.
Chủ nghĩa nhân đạo cộng sản là sự kế thừa và phát triển trên quan điểm biện chứng những tinh hoa lý tưởng nhân đạo trong lịch sử nhân loại. Đây là chủ nghĩa nhân đạo “có tính chất hiện thực và trực tiếp nhằm vào hành động, nhằm giải phóng con người chứ không phải là những cảm nhận thương xót về thân phận con người”. Trên ý nghĩa đó chủ nghĩa nhân đạo cộng sản là nội dung cơ bản của đạo đức mới, vì “cái gốc của đạo đức, của luân lý và lòng nhân ái”.
Lý tưởng nhân đạo triệt để là tạo lập điều kiện xóa bỏ tận gốc mọi điều kiện áp bức, bóc lột và nô dịch con người. Chủ nghĩa cộng sản là chủ nghĩa nhân đạo triệt để nhất, hiện thực nhất.
Cần chú ý là, chủ nghĩa nhân đạo macxit đề cao tình yêu thương con người, thì đồng thời tỏ rõ thái độ phẫn nộ đối với những thế lực đối địch thù ghét người. Chủ nghĩa nhân đạo ở đây mang tính lịch sử cụ thể, nghĩa là mọi thời đại, mỗi dân tộc, mỗi giai cấp đều đưa vào chủ nghĩa nhân đạo những nội dung phù hợp với mình.
Chủ nghĩa nhân đạo cộng sản khác hoàn toàn về chất so với chủ nghĩa nhân đạo tư sản vì:
Chủ nghĩa nhân đạo cộng sản có nội dung toàn diện, triệt để và sâu sắc, nó thủ tiêu tất cả mọi áp bức bóc lột trong xã hội, mọi người đều được tự do, được thực hiện đầy đủ quyền làm người. Đây là chủ nghĩa nhân đạo tự do và đầy đủ nhất đối với nhân loại, là chủ nghĩa nhân đạo hoàn bị nhất trong lịch sử loài người.