24/05/2018, 18:49

Những biện pháp và vai trò mở rộng xuất khẩu

Thị trường cho xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam cũng như nhiều nước khác luôn luôn gặp khó khăn. Vấn đề thị trường không phải chỉ là vấn đề của riêng một nước nào mà trở thành “vấn đề trọng yếu” của nền kinh tế thị trường. Vì vậy ...

Thị trường cho xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam cũng như nhiều nước khác luôn luôn gặp khó khăn. Vấn đề thị trường không phải chỉ là vấn đề của riêng một nước nào mà trở thành “vấn đề trọng yếu” của nền kinh tế thị trường. Vì vậy việc hình thành một hệ thống các biện pháp đẩy mạnh xuất khẩu trở thành trở thành công cụ quan trọng nhất để chiếm lĩnh thị trường nước ngoài. Mục đích của các biện pháp này là nhằm tăng cường sản xuất hàng xuất khẩu với những chi phí thấp tạo điều kiện cho người xuất khẩu cạnh tranh trên thị trường thế giới.

Gồm 3 biện pháp chính:

- Nhóm biện pháp liên quan đến tổ chức nguồn hàng, cải tiến cơ cấu xuất khẩu.

- Nhóm biện pháp tài chính.

- Nhóm biện pháp thể chế - tổ chức.

Các biện pháp cơ bản để tạo nguồn hàng và cải tiến cơ cấu xuất khẩu.

Xây dựng các mặt hàng chủ lực.

Hàng chủ lực là loại hàng chiếm vị chí quyết định trong kim ngạch xuất khẩu do có thị trường ngoài nước và điều kiện sản xuất trong nước thuận lợi. Ngoài hàng chủ lực còn có hàng quan trọng và hàng thứ yếu.

Hàng quan trọng là hàng không chiếm tỷ trọng lớn trong kim ngạch xuất khẩu, nhưng đối với từng thị trường từng địa phương lại có vị trí quan trọng.

Hàng thứ yếu gồm nhiều loại, kim ngạch của chúng không nhỏ

Hàng xuất khẩu được hình thành như thế nào ?. Trước hết nó được hình thành qua quá trình thâm nhập vào thị trường nước ngoài, qua những cuộc cọ sát cạnh tranh mãnh liệt trên thị trường thế giới, và nó kéo theo việc tổ chức sản xuất trong nước trên quy mô lớn với chất lượng và đòi hỏi cao của người tiêu dùng. Nếu đứng vững được thì mặt hàng đó liên tục phát triển.

Vì vậy, để có một mặt hàng chủ lực ra đời ít nhất cần có 3 điều kiện cơ bản:

- Có thị trường tiêu thụ tương đối ổn định và luôn cạnh tranh được trên thị trường đó.

- Có nguồn lực để tổ chức sản xuất và sản xuất với chi phí thấp để thu được lợi nhuận trong buôn bán.

- Có khối lượng kim ngạch lớn trong tổng kim ngạch xuất khẩu của đất nước.

Vị trí của mặt hàng xuất khẩu chủ lực không phải là cố định. Một mặt hàng ở thời điểm này có thể coi là một mặt hàng xuất khẩu chủ lực, nhưng ở thời điểm khác thì không.

Việc xây dựng các mặt hàng xuất khẩu chủ lực có ý nghĩa lớn đối việc mở rộng quy mô sản xuất trong nước, trên cơ sở đó kéo theo việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, mở rộng và làm phong phú thị trường nội địa tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu.

Để hình thành được mặt hàng xuất khẩu chủ lực, Nhà nước cần có những biện pháp, chính sách ưu tiên hỗ trợ trong việc nhanh chóng có được những mặt hàng chủ lực. Các biện pháp và chính sách ưu tiên có thể là thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước và các chính sách tài chính ... cho việc xây dựng các mặt hàng chủ lực.

Đẩy mạnh gia công hàng xuất khẩu.

- Gia công là sự cải tiến đặc biệt của các thuộc tính riêng của các đối tượng lao động được tiến hành một cách sáng tạo và có ý thức nhằm đạt được một giá trị sử dụng mới nào đó

- Gia công xuất khẩu là một hoạt động mà một bên gọi là bên đặt hàng - giao nguyên vật liệu, có khi cả máy móc thiết bị và chuyên gia cho bên kia gọi là bên nhận gia công. Khi hoạt động này vượt ra khỏi biên giới quốc gia thì gọi là gia công xuất khẩu.

+ Lợi ích của gia công xuất khẩu.

- ăn việc làm cho nhân dân mà còn góp phần tăng thu nhập quốc dân và đặc biệt là tăng nguồn thu ngoại tệ cho đất nước.

- Thúc đẩy các cơ sở sản xuất trong nước nhanh chóng thích ứng với đòi hỏi của thị trường thế giới, góp phần cải tiến các quy trình sản xuất trong nước theo kịp trình độ quốc tế.

- Tạo điều kiện thâm nhập thị trường các nước trong điều kiện hạn chế nhập khẩu do các nước đề ra.

- Khắc phục khó khăn do thiếu nguyên vật liệu để sản xuất các mặt hàng xuất khẩu , đặc biệt là trong ngành công nghiệp nhẹ. Tranh thủ vốn và kỹ thuật của nước ngoài.

Tăng cường đầu tư cho xuất khẩu

Đầu tư cho xuất khẩu là phải đầu tư vốn, xây dựng thêm nhiều cơ sở sản xuất mới để tạo ra nguồn hàng dồi dào, tập trung có chất lượng cao, đạt tiêu chuẩn quốc tế.

Đầu tư như thế nào để đạt được hiệu quả cao

Tỷ lệ phần trăm gia tăng xuất khẩu so với khấu hao tài sản cố định:

Lập khu chế xuất.

Khu chế xuất là một lãnh địa công nghiệp chuyên môn hoá dành riêng để sản xuất phục vụ xuất khẩu, tách khỏi chế độ thương mại và thuế quan của nước sở tại, ở đó áp dụng chế độ thương mại tự do.

Việc lập khu chế xuất có thể mang lại lợi ích sau:

- Thu hút được vốn và công nghệ.

- Tăng cường khả năng xuất khẩu tại chỗ.

- Góp phần làm cho nền kinh tế nước chủ nhà hoà nhập với nền kinh tế thế giới và các nước trong khu vực.

Nhóm các biện pháp tài chính, tín dụng nhằm khuyến khích sản xuất và đẩy mạnh xuất khẩu.

Để khuyến khích sản xuất Chính phủ đã sử dụng nhiều biện pháp nhằm mở rộng xuất khẩu chiếm lĩnh thị trường, những biện pháp chủ yếu:

- Tín dụng xuất khẩu.

- Trợ cấp xuất khẩu.

- áp dụng chính sách tỷ giá hối đoái hợp lý.

- Miễn giảm thuế và hoàn thuế.

Nhà nước đảm bảo tín dụng cho xuất khẩu.

Để chiếm lĩnh được thị trường nước ngoài, nhiều doanh nghiệp thực hiện việc bán chịu và trả chậm, hoặc dưới hình thức tín dụng hàng hoá với lãi suất ưu đãi đối với người mua hàng nước ngoài. Việc bán hàng này thường gặp nhiều rủi ro (các nguyên nhân kinh tế, chính trị) dẫn đến sự mất vốn. Trong trường hợp này, để khuyến khích các doanh nghiệp mạnh dạn xuất khẩu hàng hoá, Nhà nước đứng ra bảo hiểm đền bù nếu bị mất vốn. Tỷ lệ đền bù có thể đến 100% vốn bị mất, thường tỷ lệ đền bù khoảng 60 -70 % khoản tín dụng để doanh nghiệp phải có trách nhiệm kiểm tra khả năng thanh toán của khách hàng khi hết thời hạn tín dụng.

Hình thức này khá phổ biến trong chính sách ngoại thương của nhiều nước để mở rộng xuất khẩu chiếm lĩnh thị trường.

Nhà nước thực hiện trợ cấp tín dụng xuất khẩu

Nhà nước trực tiếp cho nước ngoài vay vốn với lãi suất ưu đãi để nước vay sử dụng số tiền đó mua hàng của nước cho vay. Nguồn vốn cho vay thường kèm theo các điều kiện kinh tế và chính trị có lợi cho nước cho vay.

- Hình thức này có tác dụng:

- Giúp doanh nghiệp đẩy mạnh được xuất khẩu vì có sẵn thị trường.

- Các nước cho vay thường là các nước có tiềm lực kinh tế, hình thức này trên khía cạnh nào đó giúp cho các nước này giải quyết được tình trạng dư thừa hàng hoá trong nước.

- Nhà nước cấp tín dụng cho các doanh nghiệp trong nước.

Nhiều chương trình phát triển xuất khẩu không thể thiếu được việc cấp tín dụng của Chính phủ theo điều kiện ưu đãi. Điều đó làm giảm chi phí xuất khẩu cho doanh nghiệp. Các ngân hàng thường hỗ trợ các chương trình xuất khẩu bằng cách cấp tín dụng ngắn hạn trong giai đoạn trước và sau khi giao hàng. Có 2 loại tín dụng:

- Tín dụng trước khi giao hàng. Loại tín dụng này cần cho người xuất khẩu để đảm bảo cho các khoản chi phí: mua nguyên vật liệu sản xuất hàng xuất khẩu; sản xuất bao bì xuất khẩu; chi phí vận chuyển hàng hoá ra cảng, sân bay để xuất khẩu; trả tiền bảo hiểm, thuế …

- Tín dụng sau khi giao hàng: Đây là loại tín dụng do ngân hàng cấp dưới hình thức mua (chiết khấu) hối phiếu xuất khẩu hoặc bằng cách tạm ứng theo các chứng từ hàng hoá.

- Trợ cấp xuất khẩu là hình thức ưu đãi mà Nhà nước dành cho các doanh nghiệp xuất khẩu khi bán hàng hoá ra nước ngoài. Có 2 loại:

+ Trợ cấp trực tiếp: áp dụng thuế suất ưu đãi đối với hàng xuất khẩu, miễn giảm thuế đối với các nhà xuất khẩu.

+ Trợ cấp gián tiếp: dùng ngân sách Nhà nước để giới thiệu, quảng cáo, triển lãm tạo điều kiện thuận lợi cho các giao dịch xuất khẩu của doanh nghiệp.

Chính sách tỷ giá hối đoái

Nhà nước dùng tỷ giá hối đoái để khống chế xuất khẩu và nhập khẩu . Để khuyến khích xuất khẩu, Nhà nước sẽ giảm giá trị đồng tiền nội tệ xuống để giá thành một số sản phẩm hạ và như vậy mặt hàng xuất khẩu sẽ cạnh tranh với thị trường nước ngoài hơn

Miễn giảm thuế và hoàn thuế

Theo luật quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 26/12/1991, và nghị định số 110/HĐBT ngày 31/2/1992 hướng dẫn thi hành luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu thì các hàng hoá sau được miễn giảm thuế và giảm thuế:

Hàng xuất khẩu được miễn thuế

Hàng xuất khẩu trả nợ nước ngoài của Chính phủ.

Hàng là vật tư, nguyên liệu nhập khẩu để gia công cho nước ngoài và xuất khẩu theo các hợp đồng gia công cho nước ngoài.

…………

Hàng xuất khẩu để tái xuất, tạm xuất tái nhập để dự hội chợ triển lãm.

Nhóm biện pháp thể chế - tổ chức

Nhà nước thường tạo điều kiện cho các doanh nghiệp thâm nhập thị trường nước ngoài bằng các việc sau:

Lập viện nghiên cứu cung cấp thông tin cho các nhà xuất khẩu

Lập các cơ quan Nhà nước ở nước ngoài để nghiên cứu tại chỗ tình hình thị trường hàng hoá, thương nhân và chính sách của nước sở tại

Nhà nước đứng ra ký kết các hiệp đinh thương mại hiệp định hợp tác, kỹ thuật, vay nợ, viện trợ… Trên cơ sở đó để thúc đẩy xuất khẩu.

Đối với nền kinh tế nông nghiệp là chủ yếu thì việc phát triển ngành chăn nuôi thành ngành mũi nhọn, trong những năm gần đây, tỉ trọng giá trị chăn nuôi trong cơ cấu tổng giá trị sản xuất nông nghiệp được nâng lên đáng kể, đến nay đã đạt mức 20,5 - 21,2%.

Vì là ngành mũi nhọn của Việt Nam nên hầu hết các hộ gia đình ở nông thôn Việt Nam đều chăn nuôi gà lợn, bò, dê... mà lợn là chủ yếu. Nhiều hộ gia đình mở rộng quy mô chăn nuôi, tạo khối lượng hàng hoá lớn. ở một số vùng các trang trại chăn nuôi nhỏ và vừa đã được hình thành.

Nắm bắt được vai trò to lớn của việc chăn nuôi lợn để xuất khẩu thịt lợn sang thị trường nước ngoài là một việc quan trọng nên Nhà nước ta đã đầu tư đúng mức vào việc chăn nuôi lợn. Một số trang trại và hợp tác xã nuôi lợn với quy mô lớn đã được mở ra liên kết với các trung tâm khoa học để áp dụng các thành tựu khoa học, kỹ thuật trong khâu lai tạo giống, chọn giống, phòng trừ bệnh tật, tăng khả năng chế biến ra các sản phẩm chăn nuôi từ lợn đạt chất lượng cao phục vụ không những cho người tiêu dùng trong nước mà còn xuất khẩu nhiều ra thị trường thế giới.

Chính vì nhận thức đó mà giống lợn thuần chủng của Việt Nam là giống lợn ỉn, có tỷ lệ nạc cao, thịt thơm nhưng trọng lượng thấp (khoảng 40kg/con), khả năng phòng bệnh không cao đã được lai tạo với giống lợn siêu nạc có trọng lượng cao, khả năng phòng bệnh cao của giống lợn Bắc Kinh, giống lợn Bạch Nga để cho ra một giống lợn mà ta thường gọi là “giống lợn lai kinh tế”. Giống lợn này có trọng lượng từ 85 - 120 kg, cho ra sản phẩm thịt lợn tốt đạt tiêu chuẩn quôc tế, ta mới có thể cạnh tranh trên thị trường quốc tế để xuất khẩu được thịt lợn. Đây là một mặt hàng chính trong việc xuất khẩu của ngành nông nghiệp Việt Nam. Một năm Việt Nam xuất khẩu các sản phẩm từ thịt lợn (lợn đông lạnh: 10 000 tấn/năm; lợn tươi: 3000 tấn/năm; các sản phẩm được chế biến 30 000 tấn/năm) sang thị trường Nga, SNG, Hồng Kông, Nhật Bản... Lợi nhuận thu được từ việc xuất khẩu thịt lợn ra nước ngoài đạt 1,2 triệu USD/ năm. Doanh thu từ viêc xuất khẩu thịt lợn ra các thị trường quốc tế đạt 15 triệu USD/năm (năm 1997).

So với toàn ngành chăn nuôi, doanh thu và lợi nhuận từ việc xuất khẩu thịt lợn ra nước ngoài là khá cao vì hiện nay chủ yếu Việt Nam mới chỉ xuất khẩu được các sản phẩm từ thịt lợn và thịt gà. Bảng dưới đây thể hiện tỷ lệ tăng trưởng và xuất khẩu thịt từ ngành chăn nuôi.

0