Những bãi đá nam châm: Đánh giá các chiến lược pháp lý của Trung Quốc tại Biển Đông Nam Á*
Sean Mirski Mục tiêu của Bắc Kinh: duy trì hòa bình và ổn định trong khu vực đồng thời thúc đẩy các yêu sách bành trướng. Liệu TQ có thể thành công? Trong bài viết đánh giá chiến lược pháp lý của các nước tuyên bố chủ quyền tại vùng biển Đông Nam Á, tác giả Sean Mirski ...
Sean Mirski |
Mục tiêu của Bắc Kinh: duy trì hòa bình và ổn định
trong khu vực đồng thời thúc đẩy các yêu sách
bành trướng. Liệu TQ có thể thành công?
Từ nhiều thế kỷ trước, ngư dân Trung Quốc (TQ) đã gọi các hòn đảo ở vùng Biển Đông Nam Á Nam là "những bãi đá nam châm" – một tên gọi ám chỉ những lực lượng kỳ lạ luôn lôi kéo những tàu có số phận không may mắn đến những bãi cát ngầm ở đây. Tuy nhiên, ngày nay thì vùng Biển Đông Nam Á lại lôi kéo sự chú ý mọi người vào một vấn đề khác. Trong sáu thập kỷ qua, vùng biển này đã trở thành trung tâm của một tình trạng rối loạn về địa chính trị bị thúc đẩy bởi quan hệ chính trị giữa các siêu cường, chủ nghĩa dân tộc độc hại, và trữ lượng dầu khí dồi dào. Sáu bên khác nhau - Brunei, TQ, Malaysia, Philippines, Đài Loan và Việt Nam – đã liên tục tranh chấp lãnh thổ với nhau trên các hòn đảo nằm trên Biển Đông Nam Á và cả vùng biển xung quanh các hòn đảo này nữa.
Trong sáu nước tranh chấp lãnh thổ nói trên, TQ đã trở thành đối thủ nặng ký nhất. Đây là quốc gia rộng lớn và hùng mạnh nhất, và nó cũng đưa ra những yêu sách mạnh mẽ nhất. Tuy nhiên, hành vi của Bắc Kinh không phải lúc nào cũng phản ánh sức mạnh và tham vọng phát triển của nó. Thay vào đó, chiến lược của TQ phức tạp hơn, được hình thành chủ yếu bởi mong muốn duy trì hòa bình và ổn định trong khu vực trong khi vẫn tiếp tục thúc đẩy những yêu sách có tính chất bành trướng của Bắc Kinh.
Tình thế lưỡng nan này đã khiến TQ nhấn mạnh việc trì hoãn đối với giải quyết xung đột, và điều này được chứng minh một cách rõ ràng nhất trong chiến lược pháp lý của nó. Nhưng chiến lược này gần đây ngày càng trở nên không còn phù hợp trong những năm gần đây khi TQ trở thành nạn nhân của sự thành công của chính mình. Các bên cùng tranh chấp đã nhận ra sự nguy hiểm của việc chơi theo các quy tắc của TQ, vì vậy họ đã đáp lại chiến lược trì hoãn của TQ bằng một tư thế chủ động hơn nhằm thúc đẩy Bắc Kinh phải ngưng cách ứng xử lòng vòng để đối mặt trực tiếp với tình thế lưỡng nan của nó. TQ cố gắng đáp ứng, và phản ứng của nó đã gây căng thẳng trong khắp khu vực khi nó không lường trước những tính toán của các đối thủ. Khi cuộc tranh chấp leo thang, TQ có thể sẽ cảm thấy áp lực phải từ bỏ chiến lược trì hoãn của mình và tìm kiếm một cách giải pháp nhanh chóng hơn cho cuộc xung đột này, như các sự kiện đang diễn ra bắt đầu bộc lộ.
Các lợi ích chiến lược đầy mâu thuẫn của TQ
Trỗi dậy hòa bình
Để hiểu rõ tình trạng khó khăn của Bắc Kinh, hãy xem xét các lợi ích chiến lược đầy mâu thuẫn của nó. Một mặt, TQ tìm cách kéo dài chuỗi tăng trưởng nhiều thập kỷ của mình. Các số liệu thống kê quen thuộc: nền kinh tế quốc gia phát triển với tốc độ trung bình hàng năm gần 10% trong ba mươi lăm năm vừa qua, và trong thời gian đó kích thước của nền kinh tế của nó đã có 5 lần tăng trưởng gấp đôi. Ngay cả khi tăng trưởng chậm phần nào trong thời gian tới, thì nền kinh tế TQ vẫn có khả năng – và gần như là chắc chắn – sẽ vượt qua nền kinh tế của Mỹ trong một tương lai không xa nữa.
Nhưng, xét về địa chính trị, sự tăng trưởng của TQ là tương đối khác thường. Thay vì tuân theo quy luật biện chứng của Charles Tilly là "tạo nhà nước" Charles Tilly và "tạo chiến tranh," Bắc Kinh lại tham dự vào cái trật tự kinh tế tự do quốc tế. Khi nhìn lại, quyết định này đã chứng minh lời tiên tri: TQ bắt đầu khởi sắc kể từ khi nó kết nối vào nền kinh tế toàn cầu hóa do Mỹ đứng đầu.
Tuy nhiên, sự phụ thuộc lẫn nhau trong kinh tế quốc tế chẳng phải đã xảy ra trong một khoảng chân không. Để có thể tạo ra những kết quả thần kỳ về thương mại, sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế đòi hỏi phải có một môi trường bên ngoài tương đối yên bình. Các cuộc xung đột có thể phá vỡ các mối quan hệ kinh tế vốn là trung tâm của một hệ thống thương mại mở và tách TQ ra khỏi các đối tác thương mại quan trọng, ngay cả khi bản thân Bắc Kinh đã tránh không dính líu. Tồi tệ hơn cả là bất kỳ một cuộc xung đột nào trong khu vực cũng có thể mở ra cho Mỹ thêm nhiều quyền lực chính trị và quân sự trong khu vực - là mối đe dọa đối với tham vọng chiếm ưu thế lâu dài trong khu vực (nếu không phải là sự thống trị ).
Để tiếp tục phát triển, TQ cần có một châu Á ổn định và hòa bình. Đó là lý do tại sao các nhà lãnh đạo TQ đã nhiều lần tuyên bố chính sách của họ về một "sự trỗi dậy hòa bình" hoặc "phát triển hòa bình". Đây không chỉ là lời nói suông: Trong ba thập kỷ qua, Bắc Kinh đã giải quyết nhiều cuộc tranh chấp biên giới; tham gia vào các hoạt động ngoại giao khéo léo trong khu vực; tích cực tham gia vào các tổ chức chính phủ trong khu vực và quốc tế; và ký kết hiệp định thương mại các bên cùng có lợi trên toàn thế giới. Quả thật, chẳng có gì ngạc nhiên khi TQ cũng đã hành xử khá ổn trong lĩnh vực quân sự: cuộc chiến tranh cuối cùng mà nó tham gia là từ năm 1979, kể từ đó nó chỉ tham gia vào một cuộc giao tranh nhỏ ở Biển Đông Nam Á (đảo Gạc Ma năm 1988). Nói vắn tắt, TQ đã cố gắng trở thành một công dân tốt của khu vực, tất cả nhằm phục vụ cho tham vọng kinh tế của nó.
Kiểm soát Biển Đông
Nhưng trong khi tham vọng lâu dài của Bắc Kinh khiến nó phải kiềm chế, thì mục tiêu gần hơn của nước này – trong đó có mục tiêu dành chủ quyền trên Biển Đông Nam Á – lại lôi kéo quốc gia này đi về hướng khác. Trong thế giới lý tưởng mà Bắc Kinh mong muốn, TQ bây giờ phải là chủ thể không tranh cãi của Biển Đông Nam Á.
Bắc Kinh tìm cách kiểm soát Biển Đông Nam Á để quản lý các mối đe dọa về an ninh quốc gia và thúc đẩy các mục tiêu kinh tế của nó. Biển đảo là đại diện cho một lỗ hổng chiến lược đối với TQ, vì đó là con đường xâm lăng trong lịch sử và là một mối đe dọa hiện nay về an ninh năng lượng và một nền kinh tế định hướng xuất khẩu. Kiểm soát Biển Đông Nam Á còn cung cấp nhiều lợi ích hữu hình. Vùng biển có trữ lượng cá dồi dào, là trụ cột của nhiều nền kinh tế trong khu vực. Dưới đáy đại dương, thậm chí còn có những tài sản có giá trị hơn đang chờ đợi. Mặc dù các chuyên gia có ý kiến khác nhau về độ lớn của những của cải tiềm tàng dưới đáy biển, tất cả đều đồng ý rằng ở đó có đủ dầu mỏ và khí tự nhiên để khiến cho bất kỳ quốc gia nào có biên giới sát bên đều mong muốn chiếm hữu.
Những yêu cầu chiến lược này được củng cố bởi tình hình chính trị trong nước của TQ. Tranh chấp hàng hải đã trở nên gắn bó chặt chẽ với chủ nghĩa dân tộc của TQ. Kết quả là, Biển Đông Nam Á không chỉ có ý nghĩa về chủ quyền lãnh thổ, mà còn xác định căn tính của TQ với tư cách là một quốc gia. Và vấn đề còn phức tạp hơn nữa, khi hành động rút lui khỏi bất kỳ tuyên bố nào của TQ cũng có thể gợi lại hình ảnh bất lợi về sự yếu kém của TQ dưới bàn tay của các đế quốc hung hãn trong "thế kỷ sỉ nhục" của đất nước này. Vì vậy, ngay cả khi các nhà lãnh đạo TQ thiên về việc rút lui các tuyên bố của TQ ở Biển Đông Nam Á, họ vẫn sẽ không thể làm như vậy do các phản ứng dữ dội không thể tránh khỏi trong nước. Thay cho sự thỏa hiệp, Bắc Kinh cảm thấy ngày càng bị áp lực bởi một công chúng đầy tinh thần của chủ nghĩa dân tộc để phải hành động quả quyết trong quan hệ với các bên tranh chấp khác.
Tình thế lưỡng nan của TQ
Như vậy, các lợi ích chiến lược của TQ thường xuyên mâu thuẫn với nhau. Một mặt, Bắc Kinh muốn giải quyết cuộc tranh chấp trên Biển Đông Nam Á một cách nhanh chóng và hòa bình nhất có thể. Cuộc tranh chấp đã cản trở việc hội nhập khu vực sâu rộng hơn, và trong những năm gần đây, TQ đã nổi tiếng vì các hành vi hiếu chiến làm nguội lạnh đi các mối quan hệ trong khu vực. Tuy nhiên, mặt khác thì TQ cũng không hề muốn bỏ mất quyền kiểm soát một khu vực chiến lược quan trọng như vậy. Vả lại, TQ cũng chẳng thể làm gì khác trước một công chúng đầy tinh thần dân tộc chủ nghĩa và đầy hiếu chiến luôn nghi ngờ bất kỳ hành vi nhượng bộ hoặc yếu đuối nào từ phía nhà cầm quyền của họ. Nói ngắn gọn, TQ có thể cố gắng giải quyết tranh chấp thông qua việc hoặc thỏa hiệp hoặc xâm lược, nhưng chẳng có lựa chọn nào là hấp dẫn cả.
Vì vậy, thay vì cố gắng giải quyết xung đột, Bắc Kinh đã né tránh và áp dụng chiến lược trì hoãn. Bị kẹt giữa các lợi ích chiến lược trái ngược nhau, TQ đã tìm cách duy trì một mức độ kiểm soát vừa đủ sao cho có thể bảo vệ yêu sách của mình mà không tạo ra sự khống chế quá lớn khiến những người cùng tranh chấp trở nên lo ngại. Vì vậy, trong khi TQ sẽ luôn bảo vệ yêu sách của mình đối với sự “xâm lược” của các quốc gia khác, nước này thường cố giữ không làm thay đổi tình trạng hiện tại. Tất nhiên, chiến lược trì hoãn cũng nhằm tận dụng sức mạnh lớn nhất của TQ: một siêu cường đang mở rộng và một quỹ đạo tăng trưởng lâu dài. TQ cần gì phải cố gắng giải quyết xung đột vào lúc này, khi vị thế trong cuộc đàm phán của họ luôn được cải thiện cứ sau mỗi quý trong năm tài chính?
Chiến lược pháp lý của TQ trong cuộc tranh chấp trên Biển Đông Nam Á
Nếu cần tìm một ví dụ tốt nhất của chiến lược trì hoãn để hiểu cách hoạt động của nó, chỉ cần nhìn vào chiến lược pháp lý của TQ. Chiến lược này là sự kết hợp một cách cẩn thận giữa một bên là nội dung pháp lý của các tuyên bố và bên kia là các chiến thuật đàm phán, tất cả đều nhằm mục đích bảo tồn nguyên trạng trong khi vẫn duy trì sự diễn giải linh hoạt tối đa trong tương lai.
TQ đã bám chặt lấy cách diễn giải mơ hồ như một trụ cột quan trọng của chiến lược pháp lý của mình. Ngay cả cho đến nay, sau nhiều thập kỷ tranh cãi, phạm vi các yêu sách của TQ vẫn chưa rõ ràng. Trong thực tế, TQ chỉ mới khuấy động vùng biển trong những năm gần đây khi nó chính thức đưa ra “đường chín đoạn” đầy tai tiếng. Trong năm 2009, Malaysia và Việt Nam đã nộp bộ hồ sơ chung đến cơ quan của Liên Hợp Quốc nhằm xác định ranh giới bên ngoài của các tuyên bố thềm lục địa của mình. Ngay ngày hôm sau TQ đã đáp trả bằng với một văn bản phản đối tuyên bố của hai nước nói trên. Bản lưu ý của phía TQ khẳng định, một cách khá mập mờ, rằng " TQ có chủ quyền không thể tranh cãi đối với các đảo ở Biển Đông Nam Á và các vùng biển lân cận, và được hưởng chủ quyền lãnh thổ và quyền tài phán trên các vùng biển liên quan cũng như thềm lục địa và cả lòng đất ở dưới đáy (xem bản đồ đính kèm)." Tấm bản đồ đính kèm cho thấy một đường chín đoạn bắt đầu từ bờ biển của TQ và bao gồm gần như toàn bộ Biển Đông Nam Á. Kể từ đó, các quốc gia và các nhà bình luận cũng như đã tự hỏi, nếu quả thật đường chín đoạn có ý nghĩa gì đó, thì thực ra nó chỉ cái gì vậy? Có vẻ như đã khá rõ ràng rằng TQ tuyên bố chủ quyền với tất cả mọi quần đảo nằm trong ranh giới mênh mông của đường chín đoạn. Tuy nhiên, điều vẫn chưa được làm rõ là phải chăng đường chín đoạn ấy cũng đồng thời tuyên bố chủ quyền trên toàn bộ vùng biển được bao quanh bởi đường chín đoạn ấy.
Đòi hỏi điều này sẽ là một sự vi phạm trắng trợn các nghĩa vụ quốc tế của phía TQ. Theo luật pháp quốc tế, các quốc gia bị ràng buộc bởi nguyên tắc "la terre domine la mer" (đất thống trị biển), tức nguyên tắc chủ quyền đối với vùng biển phải xuất phát từ chủ quyền đối với gần đất, chứ không phải là ngược lại. Phù hợp với nguyên tắc này, Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển (UNCLOS) cho phép các quốc gia kiểm soát vùng biển quốc nội chỉ trong một khoảng cách nhất định tính từ lãnh thổ có chủ quyền của họ. Ngay cả dưới cách diễn giải rộng rãi nhất đối với UNCLOS, thì Bắc Kinh cũng không thể đòi hỏi chủ quyền hợp pháp nhằm kiểm soát phần lớn vùng biển được bao bọc bởi đường chín đoạn.
Thay vào đó, nhà cầm quyền TQ đã cố tình áp dụng chính sách luật pháp mơ hồ có chủ ý về phạm vi tuyên bố của mình. Sự "mơ hồ chiến lược" chỉ là một khía cạnh của chiến lược lớn hơn của TQ – chiến lược trì hoãn. Đường chín đoạn tạo ra các không gian pháp lý cho cách giải thích mở rộng hơn các yêu sách của TQ trong tương lai, nhưng nó không đòi hỏi phải diễn giải rõ ràng ngay lúc này. Kết quả là, TQ duy trì tính linh hoạt trong thời gian dài trong khi vẫn tránh được các chi phí ngắn hạn của việc thúc đẩy các yêu sách không thực tế. Tất nhiên, ngay cả với chính sách áp dụng sự mơ hồ chiến lược cũng có chi phí của nó –TQ đã bị chỉ trích khắp nơi vì dựa vào đường chín đoạn, mà gần đây là sự chỉ trích của Hoa Kỳ. Nhưng sự sẵn sàng chấp nhận các chi phí này của TQ là bằng chứng mạnh mẽ nhất cho sự miễn cưỡng của quốc gia này trong việc lựa chọn dứt khoát một chính sách hoặc là thỏa hiệp hoặc là xâm lược.
(Còn tiếp một kỳ)
Vũ Thị Phương Anh dịch
Nguồn: http://nationalinterest.org/feature/magnetic-rocks-assessing-chinas-legal-strategy-the-south-10481?page=2
* Bản gốc tiếng Anh sử dụng từ South China Sea, tiếng Việt dịch là Biển Đông, nhưng chúng tôi chọn cách dịch ra là Biển Đông Nam Á, một cách gọi đã từng được đề nghị bởi một số tổ chức, để cổ vũ cho sự hợp tác của Đông Nam Á chống lại một Trung Quốc hung hãn xâm lăng. Ví dụ về cách gọi này có thể tìm thấy ở các trang sau đây: http://www.nippon-foundation.or.jp/en/what/projects/protecting_the_asean_sea/; http://koreanewsonline.blogspot.com/2012/05/southeast-asian-sea-asean-sea-to.html#.U3r4A9J_t9U.
Theo: tiasang.net.vn