03/06/2017, 23:36

Nhà văn Nga Lê-ô-nit Lê-ô-nốp có nói: "Mỗi tác phẩm phải là một phát minh về hình thức và một khám phá về nội dung". Anh (chị) hãy bình luận ý kiến trên. (Bài 3)

Không phải ngẫu nhiên mà Lep Tônxtôi, cây đại thụ của nền văn học Nga và của toàn thế giới, đã luôn nhắc nhở rằng: “Khi một nhà văn mới bước vào làng văn, điều đầu tiên tôi sẽ hỏi anh ta là anh sẽ mang lại điều gì mới cho văn học?”. Câu nói giản dị ấy thực ra đã đúc kết được một lẽ sinh tử của văn ...

Không phải ngẫu nhiên mà Lep Tônxtôi, cây đại thụ của nền văn học Nga và của toàn thế giới, đã luôn nhắc nhở rằng: “Khi một nhà văn mới bước vào làng văn, điều đầu tiên tôi sẽ hỏi anh ta là anh sẽ mang lại điều gì mới cho văn học?”. Câu nói giản dị ấy thực ra đã đúc kết được một lẽ sinh tử của văn chương nghệ thuật, một điều đã làm cho bao nhà văn chân chính xưa nay phải day dứt và trăn trở. Đó là vấn đề khám phá, sáng tạo cái mới trong văn học. Cũng chung một nghĩ suy trăn trở ấy, ...

Ý kiến của Lêônit Lêônôp đã khẳng định một điều mà từ xưa đến nay, mỗi nhà văn mỗi lần cầm bút, không ai không nghĩ tới, đó là: Những gì mà anh viết ra đây sẽ mang lại một điều gì mới không, có đóng góp cho văn học và cho độc giả những phát hiện, những khám phá mà trước đây chưa từng có hay không? Nghệ thuật vốn không chấp nhận sự sao chép và cũng không đi theo con đường mòn. Bởi vậy, thước đo rất cần thiết để đo lường giá trị của một tác phẩm văn học là ở những cái mới, những phát hiện mà nhà văn đã sáng tạo nên, cụ thể hơn, đó chính là những “phát minh về hình thức” và “khám phá về nội dung”.
 
Mỗi loài hoa đều vươn lên hít thở khí trời, đều bắt rễ từ sâu trong lòng đất mẹ nhưng mỗi loài hoa ấy lại góp cho đất trời những hương sắc riêng, những vẻ đẹp riêng. Hoa hồng, dẫu là rất đẹp và quyến rũ, nhưng có lẽ không một ai lại muốn bông hoa nhài thanh khiết nơi đồng nội phải là hoa hồng. Và nhà văn cũng vậy. Mỗi nhà văn đích thực mang những bản sắc riêng, những phong cách riêng, không được bắt chước những người đi trước, dẫu người đó có vĩ đại đến đâu đi chăng nữa. Sự bắt chước trong văn chương nghệ thuật, tự nó sẽ bị thủ tiêu. Không ai lại muốn đọc một tác phẩm chỉ nói những điều đã quá quen và được thể hiện trong cách viết đã quá nhàm. Văn học nói riêng và nguyên tắc nói chung luôn là lĩnh vực của cái mới, của khám phá và sáng tạo. Hiểu theo nghĩa ấy, câu nói Lêônit Lêônôp thực sự mang chứa một sức nặng trong công phu của nghề văn.
 
Theo ông, “mỗi tác phẩm phải là một phát minh về hình thức và một khám phá về nội dung”. Tức là cái mới phải chuyên chở theo nó cả phương diện nội dung và hình thức thì mới có thể làm nên một tác phẩm đích thực. Có phát hiện về nội dung nhưng nội dung mới mẻ ấy lại được thể hiện trong cách nói cũ, trong những phương tiện biểu đạt đã quen thuộc thì cái mới không đủ sức thuyết phục. Nhưng những phát hiện, những cách nói mới về hình thức mà không bao chứa nội dung thì cái mới lạ ấy hóa trò chơi duy mĩ, vô nghĩa và không mang lại giá trị gì cho văn chương nghệ thuật. Sức nặng trong ý kiến của Lêônit Lêônôp là ở đó, cái mới, sáng tạo phải xuất phát cả từ nội dung và hình thức. Trong một tác phẩm văn học, nội dung và hình thức không tách rời nhau, vì thế, nhà văn khám phá, sáng tạo cũng phải đi từ hai phương diện ấy.
 
Khi nhà thơ Xuân Diệu bước vào làng thơ mới, người ta ngỡ ngàng quá, ngạc nhiên quá. Bởi vì người đến với ta trong một bộ “y phục tối tân”, mang phong cách phương Tây và rất xa lạ với những cách nhìn truyền thống của người ngày ấy. Có ai không ngỡ ngàng cho được khi bắt gặp cách nói thật mới mẻ như thế này.
 
Hơn một loài hoa đã rụng cành
 
Hay như:
 
Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa.
 
Cái kiểu nói hơn một rất Tây và kiểu ngắt dòng thơ với kiểu câu thơ nghị luận rất có duyện ấy có lẽ thật lạ tai với những ai chỉ quen nghe những âm điệu du dương, bổng trầm của thơ Đường luật. Nhưng rồi, “ngày một ngày hai, cơ hồ ta không còn để ý đến những lối dùng chữ đặt câu quá Tây của Xuân Diệu”, đã quen với những lối nói mới mẻ lạ lẫm ấy và dần dần ta nhận ra rằng cái bản sắc riêng, điều làm cho Xuân Diệu còn sống mãi trong ta cũng một phần là ở những cách nói rất mới, rất riêng ấy. Và phải chăng, đó cũng chính là một phát minh rất mới mà ông đã đem lại cho làng thơ Việt Nam lúc bấy giờ? Cái thơ cổ xưa giờ đây đã quá chật hẹp so với dòng cảm xúc, suy tưởng đang tràn ngập. Bởi vậy, những khuôn khổ câu chữ phải lung lay, những ước lệ, khuôn sáo của thơ cổ điển ngày xưa đã phải nhường lại cho một lối thơ rất mực phóng khoáng, tự do, không câu nệ vào vần điệu, vào âm luật bằng trắc. Dòng cảm xúc cứ thế mà tuôn chảy, dệt thành những dòng thơ. Thơ mới thật sự neo lại trong trái tim của mỗi chúng ta một phần có lẽ cũng nhờ vào cách nói, cách thể hiện rất mới ấy. Hiểu theo nghĩa đó, thơ mới đã đem lại cho nền văn học Việt Nam một “phát minh về hình thức”.
 
Sự mới mẻ trong việc thể hiện nội dung là một điều rất cần thiết cho nhà văn để “đẻ” ra một tác phẩm văn học thực sự có giá trị. Sự mới lạ về mặt hình thức sẽ đem lại cho nhà văn một phương tiện quý giá để có thể biểu đạt được ý nghĩa, xúc cảm, tâm tư của mình. Nhà văn phải biết tìm tòi, phải biết khám phá, sáng tạo, phải lao động rất công phu và nhọc nhằn mới tìm được cho mình một lối nói, một kiểu viết, một phong cách thể hiện sao cho không giống ai, không bắt chước ai nhưng vẫn tìm được tiếng nói đồng điệu, tri âm từ người đọc. Mới lạ, sáng tạo nhưng không nên chạy theo những cái mục đích ấy mà quên đi tất cả. Bởi cái mới về hình thức, những sáng tạo về hình thức chỉ là những trò chơi lạ hóa, duy mĩ và vô nghĩa. Mới lạ, sáng tạo phải đi liền với cái có giá trị, có thẩm mĩ, mang tính chất nghệ thuật thì sự phát hiện ấy mới đem lại sức sống cho tác phẩm. Trong nền văn học hiện đại nước ta, có lẽ Nguyễn Tuân là nhà văn đã rất công phu trong việc tìm hiểu và sử dụng chữ nghĩa, trong các hình thức và lối biểu đạt rất mới mẻ và khác lạ. Nhà luyện đan ngôn từ Nguyễn Tuân đã có những khám phá rất độc đáo trong cách thể hiện. Chữ nghĩa, ngôn từ tiếng Việt, dưới bàn tay màu nhiệm của ông, trở nên thật sống động, có hồn và phập phồng hơi thở của sự sống, nóng rẫy, cựa quậy trên từng trang viết. Nhiều chữ, dưới ngòi bút của ông, đã trở nên có “năng suất hơn”, có sinh sắc hơn. Chỉ riêng một cách nói về “ngọc trai” mà ông đã tung ra trên trang văn của mình một vốn từ vựng thật giàu có và đầy ấn tượng: nào là hạt buốt xót, hạt đau, hạt xót... Nguyễn Tuân đã đem lại cho từ vựng Việt Nam bao nhiêu cách diễn đạt, bao nhiêu lối nói mới mẻ và đầy thú vị. Nhưng cái mới ấy, vốn rất nhiều trong văn ông, vẫn được người ta say mê và chấp nhận là bởi vì nó mang chứa giá trị và sức nặng của lao động nghệ thuật công phu của nhà văn. Hình thức rất mới mẻ trong văn Nguyễn Tuân, xét đến cùng, không phải là trò chơi duy mĩ mà thực sự đã có sức biểu đạt rất đắc lực cho những điều mà nhà văn muốn gửi gắm trên những trang văn. Và dĩ nhiên, các “phát minh về hình thức” phải luôn đi kèm với những mới lạ trong việc phát hiện, “khám phá về nội dung”. Những cái bơi chèo hình thức sở dĩ mới mẻ, sáng tạo cùng là để cho con thuyền nội dung được đi ra khơi xa. Hình thức và nội dung trong một tác phẩm văn học ràng buộc lẫn nhau, ảnh hưởng lẫn nhau và quy định lẫn nhau. Sự mới lạ về hình thức bao giờ cũng đi kèm với một điều kiện là nói phải gắn liền với nội dung.
 
Vậy cái mới trong mặt nội dung mà Lêônit Lêônôp muốn nhấn mạnh trong câu nói này là điều gì? Một điệu hồn cảm xúc mới? Một suy nghĩ mới? Hay những đối tượng thể hiện mới? Theo tôi, những khám phá quan trọng nhất về một nội dung là cái nhìn nghệ thuật của nhà văn về cuộc đời và về con người. Cái nhìn nghệ thuật ấy phải mới, phải có sức sáng tạo và chứa đựng những phong cách riêng, những trải nghiệm riêng của nhà văn trong hành trình khám phá cuộc sống. Nếu nói văn học là lĩnh vực của cái mới thì ý nghĩa của nó chủ yếu là ở chỗ: Nhà văn đã biết vượt thoát lên những cái chung, những mặt bằng mờ nhạt quen thuộc để nêu lên ý tưởng, tiếng nói riêng biệt của mình trong một cách nói cũng hết sức mới mẻ.
 
Có khi cũng đứng ở cùng một góc độ, cũng quan sát cùng một đối tượng, một cảnh ngộ như nhau, nhưng mỗi nhà văn lại có một tầm nhìn khác nhau và có những chiều sâu riêng trong việc khám phá hiện thực. Khi Nam Cao viết tác phẩm Chí Phèo, trên văn đàn văn học hiện thực phê phán lúc ấy đã sừng sững bao nhiêu hình tượng đầy sức sống như chị Dậu, anh Pha... Nam Cao cũng như Ngô Tất Tố và Nguyễn Công Hoan đều viết về người nông dân trong xã hội cũ nhưng như thế không có nghĩa là đi theo, là bắt chước. Ngược lại, chính bản lĩnh và tài năng nghệ thuật của riêng Nam Cao đã cho phép ông, cũng trên hành trình tìm hiểu người nông dân, nhưng không hề giẫm lên vết chân của những người đi trước; những cái bóng to lớn ấy không át nổi được phong cách của riêng Nam Cao. Với bản lĩnh và cái nhìn nghệ thuật sâu đau đáu của mình. Nam Cao đã nhìn ra ở người nông dân nỗi đau không chỉ ở miếng cơm manh áo, ở những bó buộc về vật chất, mà sâu hơn, đau đớn hơn, là nỗi đau tinh thần, là nỗi cơ cực bị tàn phá về mặt nhân phẩm, bị tàn phá về nhân cách. Chí Phèo sở dĩ lay động thổn thức trái tim ra là ở nỗi đau nhân cách, là tiếng kêu thương riết róng và cháy bỏng của con người trên hành trình tìm về cái thiện, cái đẹp, cái thiên lương, chứ đâu chỉ bởi những khổ sở vì miếng cơm manh áo đời thường! Bản lĩnh của Nam Cao và sức sống mãnh liệt ở những tác phẩm của ông chính là ở đấy. Ông biết khai thác những chiều sâu rất sâu của hiện thực, đã sống đến đáy của cuộc sống để tìm ra những điều mới mẻ về con người và về cuộc đời mà trước đó chưa ai thấy. Biết soi chiếu cho mình một góc độ riêng trong quá trình xử lí đề tài, biết nhìn cuộc đời trong trải nghiệm riêng, trong chiều sâu riêng của tâm hồn và trí tuệ để từ đó phát hiện ra những điều mới mẻ về nội dung chính là bản lĩnh, là tâm huyết của Nam Cao và của cả nhà văn chân chính xưa nay. Và để đạt được những khám phá mới mẻ ấy, nhà văn phải sống hết mình với cuộc sống, phải trải cả tâm hồn mình ra với cuộc đời, phải biết vượt thoát những lối mòn chung chung để làm dậy lên tiếng nói của chính mình.
 
Văn chương cũng như nghệ thuật nói chung không phải là một thứ nghề đơn thuần, chỉ nhờ những kĩ xảo, khéo léo mà có được. Nghệ thuật không phải lĩnh vực của “sự khéo tay” bởi “văn chương không cần đến những người thợ khéo tay, làm theo một vài kiểu mẫu đưa cho. Văn chương chỉ dung nạp những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi, và sáng tạo những cái gì chưa có” (Nam Cao). Một quy luật hết sức cần thiết và cũng vô cùng nghiệt ngã đối với văn chương nghệ thuật là sự đơn nhất. Mỗi tác phẩm mà nhà văn viết ra là một sản phẩm hoàn toàn riêng của nhà văn. Nó có thể giúp người đọc hình dung diện mạo của nhà văn hay không, điều đó phụ thuộc vào những phát hiện mới mẻ trong những cách thể hiện mới mẻ của nhà trong tác phẩm. Nhà văn chỉ có thể “sống” và “sống mãi” khi biết đứng vững với phong cách riêng của mình, với bản lĩnh nghệ thuật của riêng mình mà không phải làm theo hay bắt chước một ai. Câu nói của Lêônit Lêônôp đã khẳng định được một điều hết sức cần thiết đối với văn chương: Không có tiếng nói rieng, không mang lại những điều gì mới mẻ cho văn chương, mà chỉ biết giẫm theo đường mòn thì tác phẩm nghệ thuật sẽ chết. Có thể hiểu rằng Truyện Kiều là kiệt tác của đại thi hào Nguyễn Du, là niềm tự hào của mỗi người dân đất Việt nhưng mỗi nhà văn ở thế hệ sau không ai có thể làm nên một Truyện Kiều như thế nữa, bởi đó là sự làm theo, bắt chước, dù có khéo léo đến đâu chăng nữa. Đối với một nhà văn đích thực, có ý thức về nghề nghiệp cao quý của mình thì không gì đau đớn cho bằng khi nhận được “lời khen” (hay mỉa mai) rằng phong cách của anh rất giống với tác phẩm nổi tiếng của nhà văn nọ... Bởi nghệ thuật nói chung và văn chương nói riêng sẽ đào thải những gì chỉ bắt chước, làm theo. Lẽ sinh tử của văn chương là phải sáng tạo ra cái mới - đó là “phát minh về hình thức” và “khám phá về nội dung” như nhà văn Lêônit Lêônôp đã khẳng định.
 
Sáng tạo là một điều tối quan trọng trong văn chương nhưng cũng là cửa tử của mỗi nhà văn khi bước vào nghề cầm bút. Vượt qua được nó, tức là biết khám phá ra một điều mới mẻ mà chưa ai có, nhà văn sẽ sống cùng thời gian; không vượt được nó, tên tuổi và tác phẩm của anh sẽ bị lãng quên theo quy luật đào thải nghiệt ngã của thời gian và nghệ thuật.
 
Lẽ dĩ nhiên, văn học không chỉ được định đoạt ở cái mới, một tác phẩm văn học trường tồn với thời gian không chỉ ở chỗ nó đã nói lên được những điều mới mẻ mà trước đó chưa ai nói mà còn là ở chỗ nó kết tinh được những tinh hoa của tâm hồn và tài năng của nhà văn. Tiếp thu câu nói của nhà văn Lêônit Lêônôp, trên tinh thần sáng tạo, không lặp lại cái đã có mà phải phát hiện, phải khám phá, ta đã có thêm một cơ sở rất vững bền để đánh giá giá trị của một tác phẩm văn chương. Nhưng nếu chỉ dừng lại ở đó thì chưa toàn vẹn và chưa thật chính xác. Có khi, nhà văn viết về những điều tưởng như rất cũ, rất quen thuộc như tình yêu, tình bạn, tình mẫu tử, nhưng bằng tất cả tâm hồn yêu thương, bằng tất cả trái tim chan chứa xúc cảm và bằng tài năng của mình thì tác phẩm ấy vẫn lay động, vẫn làm cho người đọc phải thao thức và nhớ mãi về nó. Nghệ thuật, văn chương là lĩnh vực của cái mới nhưng không chỉ dừng lại ở đó. Tận trong sâu thẳm của nó, văn chương là tấm lòng, là nỗi niềm tha thiết, là tình yêu, ước mơ, khát vọng mà người cầm bút gửi gắm đến bạn đọc. Nghệ thuật không chỉ là bức thông điệp của cái mới mà cao hơn, sâu hơn, nghệ thuật là bức thông điệp của tình người, của trái tim. Những gì mà Nguyễn Du muốn gửi đến chúng ta đâu phải hoàn toàn mới: niềm xót xa và nỗi đau cho cái đẹp bị vùi dập, bị chà đạp, tình yêu thương, trân trọng, nâng niu cho cái trong sáng, cái thiên lương, cái hoàn mĩ đâu chỉ là của riêng Nguyễn Du mà là của muôn đời, của tất cả những ai có lương tri và phẩm giá. Nhưng những gì mà Nguyễn Du viết ra cách đây hơn hai trăm năm vẫn còn làm ta phải nghẹn ngào và thổn thức. Như vậy thì đâu chỉ cái mới mới làm nên văn học nghệ thuật! Còn có tình đời, tình người, còn có cái tâm trong sáng, cao quý và cái tài của người cầm bút. Và lẽ dĩ nhiên, khi cái tâm đẹp đẽ hòa nhập với cái tài của mình thì tác phẩm ấy chắc sẽ làm dậy lên tiếng nói của riêng nhà văn ấy, chứ không phải là sự bắt chước hay làm theo một ai.
 
Và ta cũng nên hiểu rằng nghệ thuật là lĩnh vực của cái mới, của tiếng nói riêng độc đáo của nhà nghệ sĩ; nhưng cái mới ấy chỉ có thể có được trên cơ sở của cái đã có. Nghề văn không chấp nhận sự bắt chước nhưng sự sáng tạo không thể bỗng nhiên mà có. Cái hôm nay phải phôi thai từ hôm qua và ngày mai cũng bắt đầu từ hôm nay. Nói văn chương không chấp nhận sự bắt chước là đúng nhưng văn chương của mỗi nhà văn hôm nay không phải là đoạn tuyệt với những thành tựu của các nhà văn đi trước. Nghệ thuật không cần sự làm theo nhưng lại hoan nghênh sự tiếp thu và kế thừa những truyền thống tốt đẹp của những thế hệ đi trước. Tiếp thu phần hồn chứ không phải chỉ dừng lại ở phần xác. Đón lấy hương vị mà vẫn giữ nguyên hương sắc của bản thân mình là điều mà các nghệ sĩ xưa nay vẫn làm. Có thể, Xuân Diệu - nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới - vẫn quả cảm khẳng định rằng: “Thơ mới vẫn nằm trong mạch dân tộc”.
 
Nhưng dù sao đi nữa, cái còn lại cuối cùng của một nhà văn đối với đời vẫn là tiếng nói riêng, rất riêng của nhà văn đối với cuộc đời. Những khám phá, những phát hiện độc đáo và cách thể hiện mới mẻ của nhà văn trong tác phẩm mãi mãi vẫn là một thước đo để định đoạt sức sống vững bền của tác phẩm, của nhà văn ấy. Câu nói của nhà văn Lêônit Lêônôp thoái thai từ những sự trải nghiệm của chính nhà văn nên nó dồn chứa một sức nặng và vì thế nó vẫn là niềm thao thức, trăn trở cho mọi nhà văn chân chính xưa nay để làm nên những tác phẩm đích thực còn lại với đời.

Mariazic1

0 chủ đề

23882 bài viết

Có thể bạn quan tâm
0