18/06/2018, 15:23

Nhà Trần khởi nghiệp- kỳ 6

Trần Việt Bắc Kỳ 6 Trần Tự Khánh thao túng triều đình Lúc này, tháng giêng năm Giáp Tuất (1214), Trần Tự Khánh coi như đã làm chủ kinh thành. Binh lực họ Trần hùng hậu nhưng lại thiếu chính nghĩa để an dân. Dùng mũi giáo hay lưỡi kiếm kề cổ người dân bắt họ phải theo ...


Trần Việt Bắc

Kỳ 6

Trần Tự Khánh thao túng triều đình

Lúc này, tháng giêng năm Giáp Tuất (1214), Trần Tự Khánh  coi như đã  làm chủ kinh thành. Binh lực họ Trần hùng hậu nhưng lại thiếu chính nghĩa để an dân. Dùng mũi giáo hay lưỡi kiếm kề cổ người dân bắt họ phải theo mình, thì đầu môi chót lưỡi, người dân phải nghe, nhưng tâm địa không ai phục. Trần Tự Khánh biết điều này và ông ta muốn giả thần phục nhà Lý, dùng nhà Lý như một triều đình bù nhìn để mặc tình thao túng. Vì thế ông ta bèn đi một nước cờ mới:  “Vài ngày sau Trần Tự Khánh cắt tóc sai người dâng cho nhà vua và tâu rõ ý mình rằng là: “Tôi thấy bọn tiểu nhơn ở cạnh vua, chúng che lấp ngăn cản các bậc trung lương, dân tình thì uất ức không biết theo đâu mà chuyển đạt thấu lên trên. Cho nên nhân đó mà (tôi tụ họp) người trong nước khởi binh đánh bọn này, cắt bỏ gốc rể của sự hiểm họa để làm yên lòng dân. Và, đến phận mệnh của vua tôi thì không dám một tí xúc phạm, lại há có cái ý quá ỷ vào việc chăm đánh dẹp đó hay sao! Chẳng ngờ là tôi đã khiến cho xa giá phải lẫn tránh chỗ khác. Tôi tự lượng biết thân tôi. Tội tôi thật đáng muôn chết. Xin bệ hạ hãy tạm nguôi cơn giận mà đưa xa giá trở về kinh sư”.  (ĐVSL). Sau đó lại nhờ em của thái hậu là Đàm Kinh Bang  chuẩn bị đón vua Huệ Tông từ Lạng châu về kinh sư. Vua và quần thần muốn về lại kinh thành, nhưng Doãn Tín Dực (1) tâu với nhà vua và thái hậu :  “Kẻ kia từ lâu đã chứa sẵn cái lòng khác, nay muốn bày kế để bắt đấy thôi, chứ ai bảo đón rước đó? Xin bệ hạ hãy nghĩ lại ba lần đã”  (ĐVSL). Thái hậu không chịu về lại kinh thành, nhà vua thấy mẹ mình không muốn về nên muốn cùng thái hậu đi Cổ Lộng (Lạng Châu). Đàm Kinh Bang và một số quan lại cố khuyên nhà vua nhưng vua và thái hậu không nghe. Thế là hầu hết những quan lại cũng như những người hộ giá bỏ trốn, chỉ còn lại quan   “Nội thị Phán thủ là bọn Trần Hân 30 người đều cùng với vua và Thái hậu lên thuyền đi về núi Tam Trĩ (2) “( ĐVSL). Nhà vua, thái hậu và đoàn tùy tùng đi Lạng châu nhưng thấy “thủy thổ bất tiện” nên sau một tháng lại di chuyển sang Nam Sách.

Thấy mưu mô của mình không thành và không nắm được nhà vua trong tay, Trần Tự Khánh nổi giận bèn  “triệu tập các bậc Vương tước và trăm quan để nghị bàn về việc cải lập”  (ĐVSL). Tự Khánh sai người đi đón con của vua Anh Tôn (chú của vua Huệ Tông) là Huệ Văn Vương lập làm vua. Đồng thời để tránh những phản đối của phe ngoại thích; Tự Khánh ra lệnh bắt hết họ hàng của Đàm thái hậu, kể cả Đàm Kinh bang mang về giam tại Mỹ Lộc ( căn cứ địa của họ Trần).   “Tháng 3, Huệ Văn Vương lên ngôi vua ở điện Thiên An. Đổi niên hiệu là Càn Ninh và lấy hiệu là Nguyên Vương”  (ĐVSL).

Lời bàn của người viết:

Tuy Trần Tự Khánh dùng bạo lực để lập nên vua mới là Huệ Văn Vương, nhưng ông vua này đã không được triều đình nhà Lý, toàn dân cũng như các sử gia đời sau công nhận là một triều vua. Vì vua Huệ Tông vẫn còn tại thế, không bị Tự Khánh kiềm toả lúc này và hiện đang là vua chính thức của Đại Việt. Huệ Văn Vương, đối với cái nhìn của các Nho gia thì  ông này chỉ là một phản thần của triều đại nhà Lý. Vì thế không thấy hai bộ chính sử là Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục cũng như các bộ sử khác ghi lại, ngoại trừ Đại Việt Sử Lược.

Lịch sử đã lập lại, Trần Tự Khánh đã hành động giống như Tào Tháo thời Tam Quốc. Tào Tháo đã  thao túng nhà Đông Hán là phế Hán Linh Đế  (Lưu Hoành, 156-189) và tự ý lập Lưu Hiệp lên làm Hiến Đế (189- 220). Tuy nhiên có một điểm hơi khác là Tào Tháo nắm cả Linh Đế và Hiến Đế trong tay, còn Trần Tự Khánh chỉ nắm được Huệ Văn Vương mà không nắm được Huệ Tông, vì thế Hán Hiến Đế được công nhận là một ông vua thực thụ của Trung Quốc còn Huệ Văn Vương chỉ là một ông vua “hờ”, được dựng nên bởi một kẻ loạn tặc và hầu như không được ai biết tới.

 Trần Tự Khánh bị các bộ tướng phản.

Trần Tự Khánh công khai làm chuyện phản nghịch, các tướng dưới quyền của Trần Tự Khánh  chống lại ông ta. Tháng 4, cùng năm (1214), Tại Cam Giá (3), Phan Cụ phản, nhưng bị Tự Khánh bắt được và đem về giam ở Mỹ Lộc. Đỗ Bị cũng là một viên tướng của Tự Khánh đóng ở Cam Giá làm phản, Trần Tự Khánh sai Phan Lân đang đóng ở Siêu Loại (Bắc Ninh) đi bắt Đỗ Bị, nhưng bị thua. Tự Khánh sai Lại Linh ở Nghĩa Trụ tới cứu Phan Lân, Lại Linh cũng thua nữa.  “Thái Tổ (NV: Trần Thừa) thấy hai vị tướng quân đều thua bèn tự làm tướng đánh Đỗ Bị, nhưng đánh không nổi phải rút lui”  (ĐVSL).

Phan Lân và Lại Linh là hai tướng thuộc loại khá của Trần Tự Khánh, Trần Thừa là anh của Tự Khánh, những người này đã có khá nhiều kinh nghiệm chiến trường mà vẫn bị Đỗ Bị đánh bại, chứng tỏ Đỗ Bị là một vị tướng có tài. Tuy nhiên sau cuộc binh biến này, không thấy ĐVSL hay các sử liệu khác viết về Đỗ Bị.

Nguyễn Nộn lúc này là tướng dưới quyền của Trần Tự Khánh đang cai quản Bắc Giang, vùng núi Đông Cứu (4) thuộc Bắc Giang bị người ở vùng Hồng là Đoàn Nhuyễn mang quân tấn công  “đốt phá nhà cửa, giết hại sinh vật, bắt cướp gà, chó gần hết”  (ĐVSL). Nguyễn Nộn mang quân tới đánh Đoàn Nhuyễn, Nhuyễn bị Nộn giết nhưng Nộn lại bị phục binh của họ Đoàn là Đoàn Nghi đánh bị thương nên phải rút quân. Dù bị thương nhưng thấy các bộ tướng của T ự Khánh nổi lên chống lại ông này, Nguyễn Nộn cũng muốn tìm hướng đi riêng cho mình – trở thành bá chủ một cõi, nên Nguyễn Nộn thông đồng với Nghĩa Tín Vương phản Trần Tự Khánh. Nghĩa Tín Vương bị Tự Khánh bắt giết. Đại tướng của Khánh là  “Phan Lân muốn cất binh hưởng ứng thao Nguyễn Nộn. Âm mưu bị tiết lộ, Trần Tự Khánh chém Phan Lân ở châu Đại Thông (5) “  (ĐVSL).

Trần Tự Khánh tàn phá Thăng Long

Trần Tự Khánh thấy các bộ tướng thay phiên nhau phản mình, bèn như nổi khùng và có những hành động tồi tệ. Đối với Nguyễn Nộn, Tự Khánh trả thù ông này một cách bỉ ổi, thấy  “Nguyễn Nộn ở Bắc Giang làm phản. Trần Tự Khánh nhân đó mà đi về nhà vợ y”(6)  (ĐVSL), Tự Khánh đã đào sâu thêm cái hố thù hận không thể hàn gắn giữa họ Trần và Nguyễn Nộn. Sau đó Tự Khánh ,  “đón Nguyễn Vương (7)  đi đến hành cung Lị Nhân . Rồi sai Lại Linh  đốt cung thất ở kinh đô, gồm có 19 sở   (ĐVSL). Nguyễn Nộn mang quân về kinh đô,  “Tháng 6, Trần Tự Khánh đánh Nguyễn Nộn ở cung Thánh Nghi, rồi đốt cung ấy”.  (ĐVSL). Không thấy tác giả của ĐVSL nó về kết qủa của trận giao tranh giữa Nguyễn Nộn và Tự Khánh, nhưng người viết phỏng đoán là Nguyễn Nộn thua trận và kéo quân về lại Bắc Giang.

Thấy lực lượng của Tự Khánh đã yếu vì bị các bộ tướng phản, vua Huệ Tông và thái hậu tìm hậu thuẫn mới là Nguyễn Nộn,  “phong cho tướng quân ở đạo Bắc Giang là Nguyễn Nộn tước Hầu”  (ĐVSL), và dùng lực lượng của Nộn để bảo vệ triều đình về lại Thăng Long. “Đến đại nội, bà Thái hậu ngầm hạ chiếu cho tướng quân ở đạo Phù Nhạc là Phan Thế dụ Ô Kim hầu là Nguyễn Bát (8)  để giết đi. Nhưng rồi việc không xong chỉ đánh Bát bị thương”  (ĐVSL).

Trần Tự Khánh thấy vua và triều đình về lại Thăng Long, ông này vẫn chưa bỏ ý định nắm toàn bộ triều đình nhà Lý trong tay, dù đã lập vua mới là Huệ Văn Vương.  “Trần Tự Khánh sai Đàm Bật dâng thổ vật. …Sai Nguyễn Ngạnh đưa Đàm Kinh Bang về kinh sư tâu rõ rằng mình chẳng có ý gì khác. Nhà vua nghe Nguyễn Ngạnh đến lại càng sợ mới sang nhà Doãn Bá ở ngõ Phiên Cầm. Nguyễn Ngạnh đi rồi nhà vua mới trở về cung” (ĐVSL) . Không được như ý nên  “Trần Tự Khánh dẫn binh xâm phạm cửa khuyết”  (ĐVSL). Vua và thái hậu cố gắng tập họp được quân để chống giữ, nhưng cũng chẳng làm được gì, chỉ đủ sức tạm cản trở để chạy khỏi kinh thành và không bị Trần Tự Khánh bắt.  ” Ngày đó Trần Tự Khánh thả quân sĩ đi cướp lấy các tài vật trong phủ của nhà vua. Rồi lại đốt phá gần hết cung thất và nhà dân ở trong kinh thành ”  (ĐVSL). Thế là gần như toàn bộ  thành Thăng Long bị Trần Tự Khánh phá hủy, đến độ khi  “nhà vua cùng với Thái hậu trở về kinh sư thấy  cung thất bị thiêu hủy hư hỏng hết  cả mới trọ lại ở đền Chúa Thánh bên cạnh cầu Thái Hòa.  Nhà vua sai dựng ngôi nhà tranh để ở ”  (ĐVSL) và hạ chiếu kêu gọi các đạo quân khắp nơi đánh Trần Tự Khánh.

Lời bàn của người viết :
Qua những sử liệu trong ĐVSL thì toàn bộ cung thất nhà Lý tại Thăng Long đã bị phá huỷ bởi Trần Tự Khánh. Bài chiếu của vua Huệ Tông viết :  “Trần Tự Khánh tụ tập đảng tặc hung bạo cướp phá trộm cắp chốn kinh sư. Dưới nước, trên cạn đều có quân tiến đánh làm phương hại đến tông miếu xã tắc mà trong mùa đông qua, cái khí thế mạnh lại càng bốc mạnh hơn. Trần Tự Khánh đốc xuất lũ buông tuồng tham tàn bạo ngược. Chúng cướp bóc tài vật của ta. Chúng đốt sạch cung thất của ta. Cho đến nỗi các khu xóm ở kinh thành hóa thành đống tro tàn”  (ĐVSL) .
Mới đây (2003), phái đoàn khảo cổ Việt Nam khai quật cổ thành Thăng Long và nói là tìm được hàng triệu di chỉ thời Lý, Trần. Người viết lạm nghĩ rằng đây chỉ còn lại những di chỉ đời Trần (từ đầu thế kỷ 13) và không còn di chỉ bắt đầu từ thời Lý  (từ đầu thế kỷ 11), nếu có thì có lẽ còn lại rất ít hoặc là những di chỉ các đời trước (thành Đại La) đã bị chôn vùi dưới thành Thăng Long đời Lý. Người viết đưa ra nhận xét thô thiển để bàn luận, hầu được hiểu biết thêm.

Trần Tự Khánh biết là các đạo quân sắp đánh mình, bèn  “phân chia cho các tướng sĩ của y đóng quân ở Cửu Cao và Cửu Ông (9) để ngăn ngừa Nguyễn Nộn. Rồi sai tướng quân ở Khoái Lộ là Nguyễn Đường và Nguyễn Giai lại giữ dân đất ấy. Nguyễn Đường và Nguyễn Giai lại cùng với Nguyễn Nộn thông đồng mưu sự với nhau để đánh Trần Tự Khánh”  (ĐVSL). Bị hai bộ tướng là Đường và Giai phản, Tự Khánh “sai Lại Linh giữ An Duyên Phù Liệt (10) ” (ĐVSL). Để lấy lòng Nguyễn Nộn và dùng ông này làm một viên tướng bảo vệ mình, vua Cao Tông phong Nguyễn Nộn từ tước Hầu (phong Hầu cho Nộn tháng 6, 1214) lên tước Vương (tháng 2, 1215). Sau đó nhà vua sai quân (?) (11) đánh Lại Linh, Lại Linh thua.

Thấy tướng của mình người thì phản, kẻ bị thua, Tự Khánh “giận cá chém thớt” mang quân  “đánh làng Khoái, san bằng làng nầy”  (ĐVSL).Rồi kéo quân đi đánh Nguyễn Nộn, Nguyễn Đường, Nguyễn Giai. Đường và Giai thua trận, Tự Khánh chấp nhận cho hai bộ tướng cũ của mình đầu hàng. Có lẽ Tự Khánh thấy là  mình đã mất khá nhiều bộ tướng nên không giết hai ông này, Nguyễn Đường còn được Tự Khánh lấy lòng một cách đặc biệt: gả em gái là Trần Tam Nương cho ông này.Tự Khánh sai các tướng của mình đắp lũy Hoàng, An Giá, Công Chúa để phòng Nguyễn Nộn và các đạo quân khác. Nộn mang quân tấn công Đường và Giai ở lũy An Lợi, Đường và Giai thất trận, Trần Tự Khánh mang quân đi cứu và thắng được Nguyễn Nộn.

Nguyễn Nộn thua trận và kéo quân về Bắc Giang, thế là chung quanh vua Huệ Tông không có một đội quân nào có thể bảo vệ được triều đình. Nhà vua thấy nhà Lý đang từ từ lọt vào tay họ  Trần, quá chán nản.  “Nhà vua bảo quần thần rằng: “Trẫm muốn nhường ngôi, các khanh thấy như thế nào?” Quần thần đều ứa lệ mà ngăn cản vua. Nhà vua không nghe mới cùng với Thái hậu lấy dao cắt tóc”  (ĐVSL).  Không thấy ĐVSL nói là nhà vua muốn nhường ngôi cho ai lúc này. Vua Huệ Tông không có con trai, có được mấy người em (khác mẹ ) thì bị mẹ mình là thái hậu giết chết. Vậy nhà vua muốn nhường ngôi cho Huệ Văn Vương, người mà Trần Tự Khánh tự ý lập làm vua? Hay  Ô Kim Hầu Lý Bát (sau này được phong Hiển Tín Vương) hay một hoàng thân  nào khác (12) ? Đây là lần đầu vua Huệ Tông chán ngán thế sự và có ý muốn thí phát, về sau này dưới sự kềm kẹp và uy hiếp của họ Trần (Thủ Độ) , nhà vua đã nhường ngôi cho con gái và bỏ đi tu.  Một lần nữa nhà vua lại phải bôn đào:  “Ngày ấy nhà vua từ dinh Thái Hòa đi đến nhà của Trương Canh và Đặng Lão rồi cho xa giá trở về nhà của nội Ký Ban là Đỗ An ở trong ngõ Chỉ Tác thuộc vùng cầu Tây Dương (13) ”   (ĐVSL).

Trần Tự Khánh vẫn chưa giữ được vua Huệ Tông trong tay và hành động càng lúc càng càn rỡ :  “Mùa thu, tháng 7, Trần Tự Khánh đốt cung Động Nhân. Nhà vua sai rước thần chủ Thái Hậu Linh Nhân (14) về đền Chúc Thánh”  (ĐVSL). Rồi Tự Khánh mang quân đánh Đại Hoàng(15), tại đây em rể của Khánh là bộ tướng Nguyễn Đường bị chết đuối.

Trần Tự Khánh phò vua Huệ Tông.

Từ tháng 12, năm1211, khi Trần Tự Khánh kéo quân về kinh đô tới tháng 7, năm 1215, gần 4 năm trời Trần Tự Khánh hoành hành ở Thăng Long, tàn phá từ cung điện nhà Lý tới gia cư của người dân tại đây, biết bao đau thương và tang tóc cho vùng này. Người viết không thấy các bộ sử lớn (ĐVSKTT, VSKĐTGCM) của nước Việt ghi lại, nhưng những hành vi của Trần Tự Khánh đã được ĐVSL chép lại rõ ràng (cách hành văn cũng như sự sắp xếp có vẻ khó đọc theo lối văn cổ, người viết chỉ xếp đặt lại theo thiển ý riêng).

Sau 4 tháng, từ tháng 7 tới tháng 11 năm 1215, không có những biến chuyển lớn nào xảy ra, Trần Tự Khánh như “hồi tâm” (16) khi thấy vua Huệ Tông và thái hậu đã có vẻ như không muốn rời khỏi kinh thành :  “Tháng 11, Trần Tự Khánh đưa trả cái mũ Bình Thiên. Tháng chạp, dựng ngôi điện bằng cỏ ở khu vườn nhà của Đỗ An. … Tháng giêng, (1216)  nhà vua cùng với Thái Hậu  ngự ở thảo điện (điện bằng cỏ-ND) để thị triều. Trần Tự Khánh trả lại cái ghế bằng vàng”  (ĐVSL).

Tháng giêng năm 1216, dù đang ở kinh đô, nhưng vua Huệ Tông cảm thấy khó có thể bảo vệ ngôi vua của mình và hình nhưđã có ý định muốn về với Trần Tự Khánh:   “Nhà vua sai bắt kẻ trộm ở ngõ Cơ Xá. Những người đi bắt ấy bị tướng quân là Đỗ Ất người đất Cảo đánh. Nhà vua sai người đi triệu Đỗ Ất về. Ất không nghe theo. Vua sai Hiển Tín Vương là Nguyễn Bát đánh Ất. Rốt cuộc Ất cũng không phục. Tháng 5, tướng quân Đỗ Nhuế người đất Cảo đánh nhà vua. Ngày Mậu Thìn, vua đi thăm ngoài trại, nhân đó sai sứ xin binh của Trần Tự Khánh để đánh Đỗ  Nhuế. Đỗ Nhuế chạy về với Nguyễn Nộn. Ngày Kỷ Tỵ, vua đày Liệt hầu Đỗ Nhuế, bắt làm Cảo giáp”  (ĐVSL)

Vua Huệ Tông cuối cùng đã phải về với phe Trần Tự Khánh (có lẽ do cô em gái của Tự Khánh là Nguyên phi họ Trần dụ).  “Ngày Giáp Thìn, nhà vua cùng với phu nhân là Trần thị, ban đêm sang trại quân Thuận Lưu để theo về với Trần Khánh (17). Ngày hôm sau nhà vua gặp viên tướng của ngài là Vương Lê đem thuyền đến đón. Lúc bấy giờ Thái hậu và con của nhà vua là Công chúa đều lẫn tránh ở Ô Kim. Trần Tự Khánh thấy nhà vua thì mừng rỡ lắm. Các tướng sĩ đều đánh trống, nhảy múa hoan hô nhà vua. Từ đó nhà vua cùng với Trần Tự Khánh có ý cương quyết đánh Vương tước ở Bắc Giang là Nguyễn Nộn, Hiển Tín Vương là Nguyễn Bát (18) cùng người vùng Hồng là Đoàn Văn Lôi, và người Qui Hóa là Hà Cao v.v…”  (ĐVSL).

Vua Huệ Tông đi một nước cờ mới là dùng Trần Tự Khánh để dẹp các lực lượng khác với hy vọng duy trì sự nghiệp của họ Lý. Nhà vua dám quyết định vì không có thái hậu bên cạnh (bà này và hai công chúa con vua Huệ Tông đang ở tại Bắc Giang). Lúc này, tại Thăng Long và vùng kế cận có quân của Nguyễn Nộn, Nguyễn (Lý) Bát và quân của Hà Cao (phiá tây bắc Thăng Long). Hiển Tín vương Lý Bát đầu hàng, tuy nhiên chỉ 3 tháng sau ông này phản lại nhà vua và Trần Tự Khánh.

Nguyễn Nộn ở Bắc Giang; thấy Trần Tự Khánh được vua Huệ Tông trong tay, bèn hợp với Hà Cao kéo quân đánh chiếm vùng phía tây thành Thăng Long   “Thái hậu đến An Xưởng. Lúc bấy giờ Nguyễn Nộn và Hà Cao lấy mệnh lệnh của Thái hậu  đánh Từ Liêm. Các ấp ở đó đều đánh đổ hết cả ”  (ĐVSL).

Thấy vua và triều đình nhà Lý thuận với mình  “Trần Tự Khánh dựng điện cỏ ở Tây Phù Liệt, khuôn mẫu của điện nhất nhất đều bắt chước theo như ở trong đại nội” (19) (ĐVSL) để vua Huệ Tông lâm triều, rồi  “sai Trần Tự Khánh đánh Nguyễn Nộn.  Nhà vua hạ chiếu đày Nguyễn Nộn làm lính thường”  ( ĐVSL). Sau đó nhà vua phong chức tước một loạt cho họ Trần và các bộ tướng:

Trần Thừa được phong tước Liệt hầu, làm Nội thị phán thủ. Khi có lễ tiệc lớn được cho ngồi dự tại điện Thiên An.

Trần Tự Khánh được phong chức Thái úy, những lúc triều bái không phải xưng tên.

Trần Liễu con Trần Thừa làm Quan nội hầu.

Trần Hải con Trần Tự Khánh tước Vương.

Phùng Tá  Chu là ” quan văn ” được phong tước Quan nội hầu, chức Chiêu Thảo sứ.

Lại Linh được phong tước Quan nội hầu.

Họ Trần giúp vua Huệ Tông dẹp các loạn quân

Anh em họ Trần giờ đây đã thật sự trở thành các tướng của triều đình nhà Lý . Tháng 4 năm 1217, Trần Thừa được cử đi đánh Nguyễn Nộn, ông này chia quân ra làm 6 đạo tiến về phủ Từ Liêm để tấn công Nguyễn Nộn. Được tin sắp bị tấn công, Nộn ra tay trước; bất ngờ mang quân đánh Phạm Ân, vây Ân ở Lãnh Kinh và đánh úp Ải Đạo (20). Trần Thừa kéo quân đến đánh, Nguyễn Nộn thua và rút về lại Bắc Giang.  Đoàn Thượng ở vùng Hồng biết là mình khó chống nổi anh em họ Trần đang theo chiếu chỉ của vua Huệ Tông để dẹp loạn lạc, nên Thượng ra hàng nhà Lý. Đoàn Thượng được vua Huệ Tông phong tước Vương (đã được nhà vua phong tước Hầu khi Đoàn Thượng mang quân về kinh thành lần trước). Thế là vùng Hồng được tạm yên.

Tháng 5 năm 1217,  không phải lo về họ Đoàn ở vùng Hồng và Nguyễn Nộn thì mới thua trận,  “Trần Tự Khánh dẫn binh đánh Chân Na thuộc Phong Châu  (21) . Xứ ấy đều bị đánh tan hoang cả. Ngày Đinh Mão, các thuộc ấp ở Phong Châu đều ra hàng.Thái úy lại dẫn quân đánh Hiển Tín Vương Nguyễn (Lý) Bát  (22) và hương ấp đều được bình yên”  (ĐVSL). Nguyễn Nộn rút về Bắc Giang, Hà Cao kéo quân về đóng ở Qui Hóa. Vậy là phía tây kinh đô Thăng Long loạn lạc đã được dẹp yên, tuy nhiên để tránh sự nổi loạn ở đây sau này, nhà vua phong “cho quan Minh tự tên là Bạch Lãng, người Sơn Lão ở sách Ma Luân làm Liệt hầu”  (ĐVSL).

Nỗi lo lắng của anh em họ Trần là Nguyễn Nộn, ông này đã có mối thù với Tự Khánh (đã được trình bày trong phần trước) nên không thể hoà hay hàng, khi Trần Tự Khánh đang làm tướng giúp nhà Lý. Để giải trừ mối lo cho họ Trần, Trần Thừa tung toàn bộ lực lượng  “bao vây Nguyễn Nộn ở Bắc Giang, , đồng thời sai mở đê để đưa nước vào các làng ấp . Lại Linh theo cái thế nước ấy mà đánh. Quân của Nguyễn Nộn thua to. Vợ con của Nguyễn Nộn đều bị bắt. Nguyễn Nộn đem hơn một trăm người lui về giữ Phù Ninh (nay thuộc tỉnh Bắc Ninh- ND) “ (ĐVSL).  Quân của Nguyễn Nộn gần như tiêu tán hết, tuy nhiên là một viên tướng có khí phách, ông này đã nhanh chóng tu bổ lại lực lượng và chiếm ấp Bình Cảo(23) làm cứ địa. Biết Nguyễn Nộn chưa chết, dù đã bị Trần Thừa đánh bại,  Trần Tự Khánh nhất định bằng mọi giá phải diệt Nguyễn Nộn. Trên đường mang quân đi đánh Nam Sách, Tự Khánh mang hai bộ tướng là Nguyễn Cải và Nguyễn Mộc theo đường tắt đến tấn công  Bình Cảo, nhưng Nguyễn Nộn đã mang quân sang động An Đinh, Tự Khánh đánh động này nhưng không thắng.

Sau đó theo ĐVSL thì Nguyễn Nộn bị bệnh và chết năm 1219, các tướng của Nguyễn Nộn đầu hàng :  “Ngày Canh Ngọ, tướng của Nguyễn Nộn là Phí Thám đưa Thái hậu và các người con của vua là bọn Công chúa ra hàng nơi Thái úy. Đại tướng của Nguyễn Nộn là Nguyễn Doanh chạy trốn trong khu rừng hiểm trở ở Thị Hàng hơn năm ngày, rồi tìm cách tự cứu lấy mình, nhưng cái Ké đã cùng bèn đem con doanh mã (ngựa hay có tiếng) ra dâng mà xin hàng. Bắc Giang được yên”   (ĐVSL).

ĐVSL nói về Nguyễn Nộn khác với hai bộ chính sử là ĐVSKTT, và KĐTGCM cũng như Việt Sử Tiêu Án và Đại Việt Sử Ký Tiền Biên của Ngô Thời Sỹ. Các bộ sử này đều viết là Nguyễn Nộn vẫn còn sống cho tới khi nhà Trần lên ngôi. Nguyễn Nộn đánh thắng Đoàn Thượng ở vùng Hồng, giết ông này, Trần Thủ Độ đã ra công đánh dẹp nhưng không có kết quả. Nguyễn Nộn đã tạo nên một lực lượng đáng ngại cho nhà Trần, đến độ họ Trần phải gả công chúa cho Nộn, tuy nhiên ông này vẫn không hàng, chỉ khi Nguyễn Nộn bị bệnh chết (năm 1229), nhà Trần mới hoàn toàn hết lo lắng (đã được trình bày trong phần trước trong tiết mục “Sứ quân” Nguyễn Nộn). Từ đây về sau người viết xin theo các bộ sử vừa nêu trên khi nói về Nguyễn Nộn.

Về lực lượng tại Nam Sách:  “Tướng Nam Sách là Hoàng Cá lìa trần, bọn Nguyễn Lợi đều ra hàng. Nam Sách được yên”  (ĐVSL).

Lực lượng vùng Hồng dù đã hàng nhà vua nhưng cũng vẫn là mối lo cho họ Trần.  “Đoàn Văn Lôi là người dũng cảm có trí lược, có tài năng và được lòng dân chúng, cho nên người vùng Hồng, đa số theo về với ông”  (ĐVSL). Để bớt lo lắng, Trần Tự Khánh gả em gái của ông là Trần Tam Nương cho Đoàn Văn Lôi để kết thân với họ Đoàn (24). Từ thời điểm này trở đi, không thấy sử liệu nào nó tới binh biến giữa họ Trần với họ Đoàn tới khi nhà Trần lên ngôi.

Họ Trần đã tạm dẹp yên được các địch thủ đáng ngại, ngoại trừ đám quân của Hà Cao đóng tại Qui Hoá, phía bắc sông Hồng (khúc sông này được gọi là Qui Hóa giang). Hà Cao có một lực lượng quân sự tương đối mạnh. Để chắc thắng, quân họ Trần chia làm hai đạo.  “Thái úy và Thái Tổ theo đường sông Quy Hóa. Lại Linh và Phan Cụ theo đường sông Tuyên Quang  (25), quân của Hà Cao đều tiến đánh, Phan Cụ bị hãm ở nơi cái đầm và bị tướng của Cao là Nguyễn Nải chém. Hà Cao nghe quân của Thái úy bốn mặt bao vây mới vội vàng cùng với vợ và con của ông đều thắt cổ mà chết. Từ đó Lộ Thượng Nguyên (26), sông Tam Đái (27)  v.v… đều được yên ổn cả”  (ĐVSL). Ngoại trừ họ Đoàn ở vùng Hồng đã hàng và kết thân với họ Trần, chỉ còn lại hai lực lượng không đáng kể của Nguyễn Nộn (sẽ khôi phục lại sau này) và đám quân Sơn Lão (bị Tự Khánh dẹp tan tháng giêng năm sau 1223) , họ Trần coi như đã dẹp xong các loạn lạc và chuẩn bị âm mưu thay nhà Lý làm vua Đại Việt.

Để dọn sạch các chướng ngại cho âm mưu, Trần Tự Khánh đi thêm một bước nữa là giết các võ tướng đã từng theo mình xông pha trận mạc. Từ lúc Tự Khánh kéo quân về Thăng Long, mang theo hai đại tướng là Phan Lân và Lại Linh cùng những viên tì tướng khác. Phan Lân phản và đã bị Tự Khánh giết (tháng 4, 1214). Nay không thấy nói vì lý do gì,  “Tháng giêng (NV:1222), Thái úy Trần Tự Khánh sai người bắt Bảo Tín hầu là Lại Linh. Lại Linh tự thắt cổ mà chết”  (ĐVSL).  Thế là hầu như các võ tướng còn lại hầu hết là họ Trần như Trần Thừa, Trần Thủ Độ, Trần Hiến Sâm, Trần Báo. Một biến cố đáng ngờ xảy ra: ông vua do Trần Tự Khánh lập nên là con vua Anh Tông khi vua Huệ Tông không ở kinh thành là  “Huệ Văn Vương tức là Nguyễn (NV: L ý) Vương từ trần, nhà vua cho bãi triều năm ngày, ăn chay ba ngày”  (ĐVSL). Thế là các vương hầu nhà Lý chẳng còn ai, chung quanh vua Huệ Tông chỉ có toàn người họ Trần, nhà Lý coi như đã cáo chung.

Nội bộ đã tạm yên nhưng những de dọa từ phương bắc là Trung Hoa và từ phương nam là Chiêm thành lúc này như thế nào?

Phương bắc: đời vua Tống Gia Định thứ 15, 1222, nhà Nam Tống ( từ sông Dương Tử tử trở về phía nam) đã suy yếu rất nhiều. Phía bắc đã bị Kim chiếm, nhà Tống đang lo khôi phục lại đất này. Mông Cổ đã có chiến tranh với Kim và chiếm kinh đô của Kim là Tây Kinh năm 1210. Nhà Nam Tống đang lo sự bành trướng của Mông Cổ, dù năm 1234 Tống liên minh với Mông Cổ diệt Kim. Vì vậy sự đe dọa của phương bắc đã không là mối lo của Đại Việt.

Phương nam: tháng 10, 1218,  “Chiêm Thành và Chân Lạp đến cướp châu Nghệ An, Lý Bất Nhiễm đánh tan được, thăng tước hầu, ban thực ấp 7.500 hộ, thực phong 1.500  hộ”  (ĐVSKTT).

Từ lúc này cho đến khi nhà Trần làm vua Đại Việt, Chiêm Thành không mang quân quấy nhiễu.

Phần 4: Nhà Trần thay nhà Lý

Sau khi giúp vua Huệ Tông dẹp xong loạn lạc, họ Trần coi như làm chủ Đại Việt. Trần Tự Khánh đã được vua Huệ Tông phong đến chức Phụ quốc thái úy (28) là chức cực phẩm. Tuy nhiên chuyện bất ngờ xảy ra:  “Tháng chạp (NV: 1223), ngày Kỷ Mão. Phụ quốc Thái úy Trần Tự Khánh lìa trần trong ngôi nhà ở Phù Liệt. Nhà vua cùng Thái hậu đến viếng tang rồi khóc hết sức thảm (29). Trần Tự Khánh được đặt cho tên thụy là Kiến Quốc Vương”  (ĐVSL). Trần Tự Khánh vùng vẫy vùng châu thổ sông Hồng 14 năm, làm giặc 7 năm (1209-1216), phò vua Huệ Tông 7 năm, “đánh đông dẹp bắc”, những loạn lạc gần như tạm yên. Trần Tự Khánh chết, anh là Trần Thừa nắm trọn binh quyền họ Trần, thừa hưởng những thành công của Tự Khánh.

Tháng giêng năm 1226,  vua Huệ Tông   “cho Thái Tổ (Trần Thừa) làm Phụ quốc Thái úy,  làm Nội thị Phán Thủ, cất cử quan Thượng phẩm hầu là Trần Báo làm tước Vương và thụy hiệu  (30) là Hiển Thành” (ĐVSL). “Trần Tự Khánh chết, truy phong làm Kiến Quốc Đại Vương; lấy Trần Thừa làm Phụ quốc Thái uý, khi vào chầu không xưng tên” (ĐVSKTT).

 Sức khỏe của vua Huệ Tông và việc Chiêu Thánh công chúa lên ngôi  

Vua Huệ Tông và hoàng hậu họ Trần không sinh được hoàng tử nào mà chỉ có được hai công chúa là Thuận Thiên (31) (sinh năm 1216) và Chiêu Thánh (Lý Phật Kim, sinh năm 1218).  “Bính Tý, [Kiến Gia] năm thứ 6 (1216) ….Vua có bệnh trúng phong, chữa thuốc không khỏi mà chưa có thái tử, trong cung chỉ sinh công chúa mà thôi.  …. (1217) vua dần dần phát điên, có khi tự xưng là Thiên tướng giáng, tay cầm giáo và mộc, cắm cờ nhỏ vào búi tóc, đùa múa từ sớm đến chiều không nghỉ, khi thôi đùa nghịch thì đổ mồ hôi, nóng bức khát nước, uống rượu ngủ li bì đến hôm sau mới tỉnh. Chính sự không quyết đoán, giao phó cả cho Trần Tự Khánh. Quyền lớn trong nước dần dần về tay kẻ khác.(ĐVSKTT). Vậy là từ khi chưa về với Trần Tự Khánh (1216) nhà vua đã không khỏe từ thể xác tới tinh thần.

Từ bé tới khi lên làm vua lúc 17 tuổi (vua Huệ Tông sinh năm 1194, lên ngôi 1211), nhà vua đã  quen sống trên nhung lụa nhưng tháng giêng năm 1214 (bôn tẩu khỏi kinh thành) tới tháng giêng 1216 (về theo Trần Tự Khánh), đúng hai năm, vua Huệ Tông đã  phải lang thang từ kinh thành cho tới Lạng Châu là miền rừng thiêng nước độc. Thật là  khó mà tránh được bệnh tật  cho một người không quen với hoàn cảnh này. Làm vua thì bị mẹ và đám ngoại thích họ Đàm kềm kẹp và bị Trần Tự Khánh thao túng. Rồi lại phải chứng kiến cảnh cực kỳ đau lòng là mẹ ruột giết những em của mình mà không làm gì được. Nhà vua còn phải chứng kiến cảnh chém giết triền miên, cung điện bị tàn phá, dân chúng điêu linh. Bản thân nhà vua, tự cầm quân mấy lần nhưng đều thất trận, có lần sắp bị vong mạng vì đám giặc cỏ. Việc này ảnh hưởng tới tâm thần nhà vua rất nhiều và nhà vua đã  “dần dần phát điên“.

ĐVSL không nói rõ về sức khỏe của vua Huệ Tông, chỉ viết là nhà vua khi còn bôn ba ngoài kinh thành đã cắt tóc (“thí phát”, các vua nhà Lý rất trọng Phật Giáo) và có ý nhường ngôi vua, nhưng không nói rõ là muốn nhường ngôi cho ai. Lúc này, năm 1224,  khi lúc mới được 30 tuổi, Huệ Tông đã chán ngán thế sự. Người con gái thứ hai là Chiêu Thánh công chúa, 7 tuổi, được nhà vua rất thương yêu nên nhường ngôi cho cô công chúa này:  “Tháng 6, nhà vua nhường ngôi cho con thứ hai là Công chúa Chiêu Thánh. Chiêu Thánh lên ngôi lấy thụy hiệu là Chiêu Vương, tôn vua Huệ Tông làm Thái Thượng Vương, đổi niên hiệu là Thiên Chương Hữu Đạo”  (ĐVSL). Sau khi nhường ngôi vua Huệ Tông đi tu ở chùa Chân Giáo, tuy nhiên vẫn theo dõi những diễn biến trong triều đình .

Biến cố này được ĐVSKTT ghi lại như sau:  “Giáp Thân, [Kiến Gia] năm thứ 14 [1224] , (Từ tháng 10 về sau là niên hiệu cuả Chiêu Hoàng Thiên Chương Hữu Đạo năm thứ 1; Tống Gia Định năm thứ 17). Bệnh của vua ngày càng tăng mà không có con trai để nối nghiệp lớn, các công chúa đều được chia các lộ làm ấp thang mộc, uỷ nhiệm cho một mình chỉ huy sứ Trần Thủ Độ quản lĩnh các quân điện tiền hộ vệ cấm đình.  Mùa đông, tháng 10, xuống chiếu lập công chúa Chiêu Thánh làm Hoàng thái tử để truyền ngôi cho. Vua xuất gia ở chùa Chân Giáo trong đại nội. Chiêu Thánh lên ngôi, đổi niên hiệu là Thiên Chương Hữu Đạo năm thứ 1, tôn hiệu là Chiêu  Hoàng “.

Một cô bé 7 tuổi lên ngôi vua, biết đổi niên hiệu, lấy tôn hiệu? Bắt buộc phải có bàn tay đạo diễn nhúng vào. Đương nhiên là họ Trần làm đạo diễn, nhưng người nào là đạo diễn chính, ai là  đạo diễn phụ và ai là người chủ xướng trong biến cố này?

Vai trò của Trần Thủ Độ

Trần Thủ Độ là em con ông chú của Trần Thừa và Trần Tự Khánh. Trần Thủ Độ là một võ tướng có tài dưới quyền Tự Khánh. Lần đầu xuất trận lúc khoảng hai mươi tuổi (Thủ Độ sinh năm 1193), khi theo Tự Khánh đánh kinh đô Thăng Long (năm 1213) và thắng trận, sau đó lại đánh thắng hai nhân vật cự phách ở vùng Hồng là Đoàn Thượng và Đoàn Văn Lôi trong lúc trên đường đi trấn nhậm Lạng ải.

Năm 1224, Trần Thủ Độ được triệu về Thăng Long  làm Điện tiền chỉ huy sứ (lúc 31 tuổi), chỉ huy lực lượng bảo vệ nội cung, đây là một chức vụ rất quan trọng, có thể duy trì hay lật đổ một triều đại nếu có hậu thuẫn bên ngoài. Vua Thái Tổ nhà Lý là Lý Công Uẩn đã giữ chức vụ này và đã thay thế nhà Tiền Lê, làm vua đầu tiên của nhà Lý. Trần Thủ Độ với chức vụ Điện tiền chỉ huy sứ muốn bắt chước việc này để nhà Trần thay nhà Lý.

(Người viết xin sao lại những đoạn trích trong hai bộ sử là ĐVSL và ĐVSKTT song song, để những sử liệu này bổ túc lẫn nhau, ngõ hầu có thể tìm hiểu rõ hơn về giai đoạn biến chuyển quan trọng này)

Một năm sau khi Lý Chiêu Hoàng lên làm vua, Trần Thủ Độ bắt đầu“đạo diễn” cảnh thay đổi triều đại. Thủ Độ cho người “viết dùm” Chiêu Hoàng tờ chiếu  “Ất Dậu, Thiên Chương Hữu Đạo năm thứ 2 [1125]…. mùa đôngtháng 10 , xuống chiếu tuyển con em của quan viên trong ngoài sung vào các sắc dịch trong nội, như lục hỏa thị cung ngoại, Chi hậu, Nội nhân thị nội  (32), ngày đêm thay phiên nhau chầu hầu”  (ĐVSKTT). Với tờ chiếu này, Thủ Độ chính thức đưa thân quyến họ Trần vào cung, tiếng là hầu hạ, nhưng là để bao vây cô nữ chúa nhỏ bé, dò xét động tĩnh trong nội cung và chờ cơ hội thuận tiện :  “Điện tiền chỉ huy sứ Trần Thủ Độ coi giữ mọi việc quân sự trong ngoài thành thị. Cháu gái Thủ Độ bằng chú là Trần Bất Cập làm Cận thị thự lục cục chi hậu  (33), Trần Thiêm làm Chi ứng cục, Trần Cảnh làm Chính thủ”  (ĐVSKTT).

Trần Cảnh là con thứ của quan Phụ quốc thái úy Trần Thừa, một cậu bé cùng tuổi với Chiêu Hoàng (sinh năm 1218) và có tướng mạo đẹp, Thủ Độ đưa cậu bé này đi sát với Chiêu Hoàng. Dù là vua đi nữa, đứa bé nào mà chẳng muốn có bạn chơi chung, ngoại trừ bị bệnh tâm thần. Chiêu Hoàng, một cô bé mới 8 tuổi, không thể nào ngoại lệ. Thấy Trần Cảnh gần mình  “Chiêu Hoàng trông thấy làm ưa, mỗi khi chơi đêm cho gọi Cảnh đến cùng chơi, thấy Cảnh ở chỗ tối thì thân đến trêu chọc, hoặc nắm lấy tóc, hoặc đứng lên bóng. Có một hôm, Cảnh bưng chậu nước hầu, Chiêu Hoàng rửa mặt lấy tay vốc nước té ướt cả mặt Cảnh rồi cười trêu, đến khi Cảnh bưng khăn trầu thì lấy khăn ném cho Cảnh… Lại một hôm, Chiêu Hoàng lại lấy khăn trầu ném cho Cảnh, Cảnh lạy rồi nói: “Bệ hạ có tha tội cho thần không? Thần xin vâng mệnh”. Chiêu Hoàng cười và nói: “Tha tội cho ngươi. Nay ngươi đã biết nói khôn đó”. Cảnh lại về nói với Thủ Độ ”  (ĐVSKTT). Thế là “cá đã cắn câu”, cô nữ chúa nhỏ bé đã chọn Trần Cảnh làm bạn để nô đùa. Thủ Độ thấy đã tới lúc cần phải hành động …

Trần Thủ Độ về bàn với Trần Thừa và bà thái hậu họ Trần (34)(mẹ Chiêu Hoàng) về những hành động  “lấy tay vốc  “nước”  té ướt cả mặt Cảnh”  của Chiêu Hoàng. Thấy Chiêu Hoàng thân cận với Trần Cảnh, Thủ Độ bày vẽ gán ghép chuyện vợ chồng cho hai đứa bé con 8 tuổi (năm 1225) (35) chưa biết chuyện gì !

” Thủ Độ nói: “Nếu thực như thế thì họ ta thành hoàng tộc hay bị diệt tộc đây?”….”Thủ độ sợ việc [33b] tiết lộ thì bị giết cả, bấy giờ mới tự đem gia thuộc thân thích vào trong cung cấm (36). Thủ Độ đóng cửa thành và các cửa cung, sai người coi giữ, các quan vào chầu không được vào. Thủ Độ loan báo rằng: “Bệ hạ đã có chồng rồi”. Các quan đều vâng lời, xin chọn ngày vào chầu” (ĐVSKTT). Cổng nội cung bị đóng, trong cung chỉ còn lại vua Huệ Tông, hoàng hậu họ Trần, Lý Chiêu Hoàng, Thái hậu họ Đàm và những người hầu hạ, còn quan lại nhà Lý thì bị chặn không cho vào. Chỉ những vị quan nào Thủ Độ muốn mời vào để…. “diễn xuất” …!

Mùa đông, tháng 11 (Nv:1225), Thái Thượng Vương thấy nữ Vương còn nhỏ, lấy làm lo âu mới cho mời Phùng Tá Chu đến mà định mưu nói rằng: “Trẫm vì không có đức, Trẫm mắc tội với trời, cho nên bị tuyệt hậu, không có con để nối dõi. Nay Trẫm truyền ngôi cho con gái, nhưng thấy một người đàn bà mà khiến bảo đám đàn ông, như có điều là bọn chúng không giúp cho, tất đến lúc hối hận lại thì cơ nghiệp đã mất rồi. Chi bằng Trẫm theo cái phép thuở xa xưa của Đường Nghiêu, cái thể thức gần đây là Nhân Tổ (37), để kén chọn người hiền mà trao ngôi cho. Nay có điều Trẫm thấy là mỗ (38) người con thứ hai của Thái úy (Trần Thừa) tuổi hãy còn nhỏ mà tướng mạo khác thường, tất có thể giúp đời, yên dân. Cho nên, Trẫm muốn dùng làm con mà làm chủ cở nghiệp nước nhà. Vả lại, Trẫm thấy Chiêu Vương cũng xứng đôi với mỗ. Các khanh hãy vì Trẫm mà nói với quan Thái úy rõ (39) “  (ĐVSL) . Vua Huệ Tông bàn tính việc nhường ngôi cho họ Trần với Phùng Tá Chu (người thân cận của họ Trần, chắc đây là một diễn viên đã được họ Trần Thủ Độ chọn lựa)! Có lẽ vua Huệ Tông đã không thể có chọn lựa nào khác! Phùng Tá Chu, Phan Lân và Nguyễn Ngạnh là những người mà Trần Tự Khánh đã sai đi để đưa em gái của ông là Trần Thị Dung (Trần thái hậu) về với Huệ Tông. Ảnh hưởng đến quyết định của vua Huệ Tông hơn cả là bà Thái hậu họ Trần, người làm nội công cho việc thay đổi triều đại. Ngoại thích họ Trần đã làm chủ triều đình, nhà Lý coi như đã mất với quyết định không thể chọn lựa này của Thái Thượng hoàng Huệ Tông.

Lý Chiêu Hoàng truyền ngôi cho Trần Cảnh, nhà Trần lên ngôi

Nơi nội cung, qua sự dàn xếp của Trần Thủ Độ và sự  trợ giúp của Trần thái hậu, mọi sự đã xảy ra đúng như ý muốn của họ Trần. Tuy nhiên nhà Lý đã làm vua Đại Việt trên 2 thế kỷ, đột ngột thay đổi một triều đại đã được toàn dân trong nước chấp nhận là một chính biến cực kỳ lớn lao, Trần Thủ Độ cũng phải nói:  “lòng dân chưa phục, mối họa không phải là nhỏ”  (40)(ĐVSKTT). Để cho dân chúng thuận theo triều đại mới, việc đầu tiên là Họ Trần phải tìm cách “thuyết phục” (41) đám quan lại nhà Lý, họ sẽ là cái gạch nối giữa triều đình mới lập và người dân. Mặc dù  Thái thượng hoàng Huệ Tông đã bằng lòng để Chiêu Hoàng nhường ngôi cho Trần Cảnh  (bàn với Phùng Tá Chu!) , nhưng việc này phải được triều đình nhà Lý công khai chấp thuận. Nếu toàn bộ triều đình nhà Lý chấp thuận tân triều, may ra lòng người mới thuận.

Một buổi họp triều đình với tất cả bá quan văn võ của nhà Lý phải được tổ chức để công khai hoá vấn đề. Sự hiện diện của chức quan cao cấp nhất trong triều là …Trần Thừa (!) với chức Phụ quốc thái úy là một sự bắt buộc, nên  “nhà vua (Nv: Chiêu Hoàng) sai quan Nội thị Phán thủ là Phùng Tá Chu, quan Nội hành khiển Tả ty Lang trung là Trần Chí Hoành, các tướng văn võ trong ngoài và các viên quan lại hãy quản lãnh thuyền rồng (42) , chuẩn bị pháp giá đến phủ Cương Tinh mà đón Thái Tổ ta (Trần Thừa)”  (ĐVSL).  Quan Phụ quốc thái úy Trần Thừa được thông báo về quyết định của Thượng hoàng Huệ Tông, nhưng  “Thái Tổ (Trần Thừa) cũng chưa tin điều ấy (43). Quan Tả phụ là Nguyễn Chánh Lại bảo rằng: “Họ Nguyễn (tức họ Lý-ND) có nước đấy. Vua hiền thì có đến sáu, bảy người gầy dựng nên cơ nghiệp, mà cái đức của họ lại có thừa, để lại cái ơn trạch thấm nhuần vào lòng người đã lâu dài rồi. Một sớm, nhà vua sợ có người khác họ làm việc kế tự nên mới có ý thăm dò thử, để xem cái ý của ta như thế nào đấy. Nếu ta nhân đó mà nhận lời, thiên hạ tất sẽ bảo Thái úy thực đã có ý soán nghịch”  (ĐVSL). Ngoại trừ trường hợp quan Tả Phụ Nguyễn Chánh Lại được họ Trần nhờ đóng kịch (?), còn nếu không thì  sinh mạng ông này có lẽ sắp bị nguy đến nơi! Trần Thừa biết rõ việc ông ta đang làm: giống như Tào Tháo thời Tam Quốc, nhiếp chính với quyền uy thật sự của một ông vua, con mình là Tào Phi sẽ lên ngôi dựng nên nhà Tấn sau này,  Tào Tháo muốn tránh tiếng cướp ngôi nhà Hán, Trần Thừa cũng sẽ làm như vậy.

” Thái úy (Trần Thừa) muốn nghe theo lời của Nguyễn Chánh Lại thì quan Thượng Phẩm Phụng Ngự là Trần Thủ Độ nói rằng: “Lời Tả Phụ sai rồi! Nếu mà vương thượng có con trai mà lại nhường ngôi cho nhị lang  thì việc trái nghĩa ấy ta không thể vâng chiếu được. Nay, Vương thượng không người kế tự, ý muốn chọn người hiền để phó thác ngôi cao. Đó là vương bắt chước việc nhường ngôi của nghiêu Thuấn thuở xa xưa. Vậy mà lo ngại nữa sao? Huống chi, ngôi chí tôn không thể để khuyết lâu, mà ý thoái lui của vương thượng thì đã quyết, vương thượng đã dứt khoát chọn người khác họ để cho nối ngôi, liệu ta không muốn nghe theo mà được chăng? Nhị lang được vương thượng chọn cũng là ý trời, trời đã ban cho mà không nhận là có tội ấy. Xin quan Thái úy hãy xét kỹ” (44)  (ĐVSL). Trần Thừa làm ra vẻ muốn nghe theo lời của Nguyễn Chánh Lại, nhưng Thủ Độ gạt đi cho là không phải. Màn kịch “vùa tung vừa hứng” được anh em họ Trần diễn xuất một cách tài tình và có thứ tự nhịp nhàng, để bịt miệng quan lại nhà Lý bằng “ý trời” và để qua mắt thiên hạ.

Sau đó Trần Thủ Độ và Trần Thái hậu nhờ người viết sẵn bài chiếu để Lý Chiêu Hoàng hạ chiếu trước mặt bá quan văn võ:  “Xuống chiếu rằng: “Từ xưa nước Nam Việt ta đã có đế vương trị thiên hạ. Duy triều Lý ta vâng chịu mệnh trời, có cả bốn biển, các tiên thánh truyền nối hơn hai trăm năm, chỉ vì thượng hoàng có bệnh, không người nối dõi, thế nước nghiêng nguy, sai trẫm nhận minh chiếu, cố gượng lên ngôi, từ xưa đến giờ chưa từng có việc ấy (45). Khốn nổi trẫm là nữ chúa, tài đức đều thiếu, không người giúp đỡ, giặc cướp nổi lên như ong, làm sao mà giữ nổi ngôi báu nặng nề? Trẫm dậy sớm thức khuya, chỉ sợ không cáng đáng nổi, vẫn nghĩ tìm người hiền lương quân tử để cùng giúp chính trị, đêm ngày khẩn khoản đến thế là cùng cực rồi, Kinh thi có nói “Quân tử tìm bạn, tìm mãi không được, thức ngủ không nguôi, lâu thay lâu thay”. Nay trẫm suy đi tính lại một mình, duy có Trần Cảnh là người văn chất đủ vẻ, thực thể cách quân tử hiền nhân, uy nghi đường hoàng, có tư chất thánh thần văn võ, dù đến Hán Cao Tổ, Đường Thái Tông cũng không hơn được. Sớm hôm nghĩ chín từ lâu nghiệm xem nên nhường ngôi báu, để thỏa lòng trời, cho xứng lòng trẫm  (46), mong đồng lòng hết sức, cùng giúp vận nước, hưởng phúc thái bình. Vậy bố cáo thiên hạ để mọi người điều biết”  (ĐVSKTT).

Sau khi đã hạ chiếu trước triều đình nhà Lý để “nhường” ngôi cho chồng là Trần Cảnh, việc đăng quang phải được chính thức hóa cho vị hoàng đế mới:  “Tháng 12, ngày mồng một Mậu Dần, Chiêu Hoàng mở hội lớn ở điện Thiên An, ngự trên sập báu, các quan mặc triều phục vào chầu, lạy ở dưới sân.  Chiêu Hoàng bèn trút bỏ áo ngự mời Trần Cảnh lên ngôi hoàng đế. Đổi niên hiệu là Kiến  Trung năm thứ 1, đại xá thiên hạ, xưng là Thiện Hoàng, sau đổi là Văn Hoàng. Bầy tôi dâng tôn hiệu là Khải Thiên Lập Cực Chí Nhân Chương Hiếu Hoàng Đế”(ĐVSKTT).  “Rồi tôn Vương hậu Thuận Trinh (47) làm Thái Hậu và giáng Chiêu Vương (48) xuống làm Vương Hậu Chiêu Thánh. Đổi niên hiệu là Kiến Trung”  (ĐVSL). Thái Tông Trần Cảnh (49) lên ngôi, một nước không thể hai vua, Thái Tông giáng Chiêu Hoàng xuống làm Chiêu Thánh hoàng hậu.

Cậu bé 8 tuổi của họ Trần làm vua , với tuổi này Trần Thái Tông chưa có thể điều hành việc nước. Màn cuối vở kịch được diễn: “Trần Thủ Độ làm Quốc thượng phụ, nắm giữ mọi việc cai trị trong nước. Thủ Độ nói: “Hiện nay giặc cướp đều nổi, họa loạn ngày tăng. Đoàn Thưng giữ mạn đông, Nguyễn Nộn giữ mạn bắc, các châu Quảng Oai, Đại Viễn cũng chưa dẹp yên. Nhà Lý suy yếu, thế nước nghiêng nguy, nữ chúa Chiêu Hoàng không gánh vác nổi, mới uỷ thác cho nhị lang [Chàng Hai]. Nhưng Nhị lang chưa am hiểu việc nước, chính sự nhiều chổ thiếu sót, vận nước mới mở,  lòng dân chưa phục, mối họa không phải là nhỏ. Ta tuy là chú nhưng không biết chữ nghĩa gì, còn phải rong ruổi đông tây để chống giặc cướp, không gì bằng mời thánh phụ làm thượng hoàng tạm coi việc nước, một hai năm sau thiên hạ nhất thống, lại giao quyền chính cho Nhị lang”. Các quan đều cho là phải, mời thánh phụ Trần Thừa nhiếp chính” (ĐVSKTT).

Trần Thừa lên và  nhiếp chính một cách “danh chính ngôn thuận” và làm Thượng hoàng . Có Thượng hoàng mới rồi, Thượng hoàng cũ phải ra đi, “Thái Thượng Vương cùng với mẹ của ngài là bà Thái Hậu Đàm thị (50) đi ra ở nơi chùa Phù Liệt, lấy hiệu là Huệ Quang Thiền Sư” (ĐVSL).Hai mẹ con cựu Thượng hoàng Huệ Tông  phải rời nội cung để ra chùa ở. ĐVSL viết tên chùa này là Phù Liệt, tuy nhiên ĐVSKTT và các bộ sử khác đều viết đây là chùa Chân Giáo (51).

Phong Trần Thủ Độ làm Thái sư thống quốc hành quân vụ chinh thảo sư. Phế thượng hoàng nhà Lý ra ở chùa Chân Giáo, gọi là Huệ Quang đại sư” (52) (ĐVSKTT). Quan Điện tiền chỉ huy sứ Trần Thủ Độ lên làm Thái sư. Nhà Trần chính thức lên làm vua của Đại Việt. Việc chuyển giao giữa hai triều đại xảy ra một cách êm thắm, không xảy ra bất cứ biến loạn nào, do Trần Thừa chủ trương, Trần Thủ Độ làm đạo diễn và Trần Thị Dung làm phụ tá đạo diễn.

“Các quan trong triều đều công phẫn nhưng vì thế lực họ Trần qúa mạnh nên đành thúc thủ.Quần chúng lưu luyến tiền triều trong dịp này có lời khẩu-chiếm dưới đây:

            Trống kia ai đánh thùng thùng

            Của chung ai khéo vẫy vùng nên riêng”

(Phạm Văn Sơn, Việt Sử Tân Biên, quyển 1, trang 412, nhà xuất bản Đại Nam).

Nhà Lý có công làm cho nước Nam ta nên được một nước cường-thịnh: ngoài thì đánh nước Tàu, bình nước Chiêm, trong thì chỉnh-đốn việc võ-bị, sửa-sang pháp-luật, xây vững cái nền tự-chủ. Vì vua Cao-tông hoang chơi, làm mất lòng người, cho nên giặc-giã nổi lên, loạn thần nhiễu sự. Vua Huệ-tông lại nhu-nhược bỏ việc chính-trị, đem giang-sơn phó-thác cho người con gái còn đang thơ-dại, khiến cho kẻ gian-hùng được nhân dịp mà lấy giang-sơn nhà Lý và lập ra cơ-nghiệp nhà Trần vậy” (Trần Trọng Kim, Việt Nam Sử Lược, trang 122, nhà xuất bản Thông Tin, 1999).

Nhà Lý tới lúc này thật sự chấm dứt sau 216 (1010-1225) năm làm vua Đại Việt, truyền ngôi được 9 đời:

1- Lý Thái Tổ   (Lý Công Uẩn, làm vua 18 năm [1010-1028], thọ 55 tuổi [974-1028])

2- Lý Thái Tông (Lý Phật Mã, làm vua 27 năm [1028 – 1054], thọ 55 tuổi [1000 – 1054])

3- Lý Thánh Tông (Lý Nhật Tôn, làm vua 17 năm [1054- 1072], thọ 50 tuổi [1023-1072])

4- Lý Nhân Tông  (Lý Càn Đức, làm vua 56 năm [1072 – 1127], thọ 63 tuổi [1066 – 1127])

5- Lý Thần Tông (Lý Dương Hoán, làm vua 11 năm [1128 – 1138], thọ 23 tuổi [1116 – 1138]

6- Lý Anh Tông (Lý Thiên Tộ, làm vua 37 năm [1138-1175], thọ 40 tuổi [1136-1175])

7- Lý Cao Tông(Lý Long Trát, làm vua 35 năm [1176- 1210], thọ 38 tuổi [1173-1210])

8- Lý Huệ Tông(Lý Sảm, làm vua 14 năm [1211-1224], thọ 33 tuổi [1194-1226])

9- Lý Chiêu Hoàng (Lý Phật Kim, làm vua 2 năm [1224-1225], thọ 61 tuổi [1218- 1278])

Kết luận

Qua những trình bày trong phần trước, sự thay đổi triều đại từ Lý sang Trần đã không quá đơn giản. Cuộc “đảo chính không đổ máu”này chỉ xảy ra hồi tháng chạp năm Ất Dậu (1225). Liên tục trong 16 năm (1209-1225), biết bao chinh chiến điêu linh và tang tóc đã xãy ra cho người dân ở đồng bằng sông Hồng. Sự việc đã không xảy ra ngắn và gọn như ĐVSKTT viết, hay tất cả các bộ sử khác của nước Việt đặt căn bản trên bộ sử này, ngoại trừ ĐVSL của tác giả Khuyết Danh. Người viết  chỉ muốn sắp xếp lại những sự việc đã viết trong ĐVSL, cùng so sánh sử liệu này với các bộ sử khác để có cái nhìn rõ ràng  hơn về một giai đoạn chuyển tiếp quan trọng trong lịch sử nước Việt.

Những diễn tiến đã xảy ra từ lúc vua Cao Tông bôn đào khỏi kinh thành vì loạn Quách Bốc (Tháng 7, 1209). Họ Trần nhận thấy nhà Lý đã cực kỳ suy yếu, nên đã có ý muốn nhảy vào chính trường để đợi thời cơ. Ông Trần Lý nghe ngóng và biết được những việc xảy ra trong cung đình nhà Lý qua bà vợ họ Tô, cũng như em của bà này là Tô Trung Từ (hậu duệ của quan đại thần Tô Hiến Thành). Dịp may tới tay họ Trần; khi thái tử Sảm chạy loạn về Hải Ấp, họ Trần không bỏ qua cơ hội hiếm có này. Muốn có được sự liên hệ với nhà Lý và cơ hội nhảy vào chính trường, Trần Lý đã gả con gái là Trần Thị Dung – người được ĐVSKTT viết là  “có  nhan sắc” (53) – cho thái tử Sảm. Từ đây, liên hệ giữa họ Trần và họ Lý là Trần thị. Các biến cố dồn dập xảy ra, binh biến liên miên, người dân là những kẻ chịu nhiều tai ương hơn cả, nhà cửa cung điện tại kinh thành bị đốt tiêu tan, cả vùng bị dìm chết. Trần Tự Khánh là kẻ gây hoạ cho người dân nhiều nhất so với các “sứ quân” khác; liên tục trong 7 năm trời (khi Huệ Tông chưa về với Tự Khánh). Mãi tới lúc theo giúp nhà Lý, trong thời gian 7 năm; Trần Tự Khánh đã ra công đánh dẹp khắp nơi, họ Trần đã tạo được một sự ổn định tương đối cho đất nước tới khi nhà Trần lên ngôi.

Lịch sử

0