24/05/2018, 22:08

Nguyễn Văn Tý

(5 tháng 3 năm 1925 - ) là một nhạc sĩ nổi tiếng của Việt Nam, ông có nhiều đóng góp sáng tác từ dòng nhạc tiền chiến như Dư âm đến những ca khúc nhạc đỏ như Dáng đứng Bến Tre, Mẹ yêu con, Người đi xây hồ Kẻ Gỗ... sinh ngày 5 tháng 3 ...

(5 tháng 3 năm 1925 - ) là một nhạc sĩ nổi tiếng của Việt Nam, ông có nhiều đóng góp sáng tác từ dòng nhạc tiền chiến như Dư âm đến những ca khúc nhạc đỏ như Dáng đứng Bến Tre, Mẹ yêu con, Người đi xây hồ Kẻ Gỗ...

sinh ngày 5 tháng 3 năm 1925 tại Vinh, Nghệ An,quê gốc ở xã Phú Cường, huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội,còn quê hiện giờ ở Vĩnh Phúc. Xuất thân trong một gia đình truyền thống âm nhạc, cha của ông là "trùm một phường bát âm của miền quê Vĩnh Phú thạo cả hát văn, hát chèo và hát ả đào", sau vào làm thợ máy nhà máy xe lửa Trường Thi ở Nghệ An. Thuở bé, học ở trường Quốc học Vinh và được một giáo viên người Pháp dạy cho những bài hát của Tino Rossi đang thịnh hành thời đó. Trong thời gian tham gia hoạt động hướng đạo, ông được một cha cố người Tây Ban Nha cho vào dàn nhạc nhà thờ hát thánh ca. Ở đó ông được học nhạc lý cơ bản và nhất là nâng cao trình độ hòa thanh, hát bè. còn được một thầy giáo nhạc sĩ người Hoa tên Mạnh Hinh dạy chơi đàn guitar Hawaii.

Từ năm 1944, ông đi hát trong phòng trà ở Vinh kiếm sống. Năm 1945, tham gia phong trào Việt Minh, sáng lập và xây dựng đoàn kịch thơ, kịch nói của Thanh niên Cứu quốc Nghệ An. Theo lời của , ông bắt đầu sáng tác vào năm 1947 khi là Trưởng phòng Thông tin tuyên truyền huyện Thanh Chương, nhưng ông coi tác phẩm đầu tay của mình là bài Ai xây chiến lũy được viết 1949.

Năm 1948, ở đoàn văn hóa tiền tuyến thuộc Quân huấn cục. Sau đó, từ năm 1950, ông nhận nhiệm vụ đi xây dựng Đoàn Văn công của Sư đoàn 304 và làm trưởng đoàn. Bản Dư âm nổi tiếng được ông sáng tác khoảng 1950 sau một lần về chơi nhà bạn ở Quỳnh Lưu, Nghệ An, Dư âm viết về cô em gái của người bạn đó[1]. Cũng vì bản nhạc này ông bị đơn vị đưa ra kiểm điểm vì đã sáng tác một bài hát quá ủy mị, không hợp với thời kỳ đó. Tuy nhiên, bài hát Dư âm sau này lại rất nổi tiếng và được hát nhiều tại miền Nam. Ngoài ra ông còn sáng tác bài Mùa hoa nở, Pha màu luống cày...

Đến 1951, giải ngũ và chuyển về công tác ở Chi hội Văn nghệ Liên khu IV. Năm 1952, ông quen biết với bà Nguyễn Thị Bạch Lệ, em gái nhạc sĩ Nguyễn Văn Thương và sau đó hai người thành hôn. Thời gian này ông sáng tác những bài như Vượt trùng dương (1952), Tiếng hát Dôi-a (1953) và đặc biệt là ca khúc nổi tiếng Mẹ yêu con (1956). Cuối năm 1957, cùng với Nguyễn Xuân Khoát, Đỗ Nhuận, Lưu Hữu Phước, Văn Cao được chỉ định thành lập Hội Nhạc sĩ Việt Nam. Sau đó, khi đang là ủy viên chấp hành khóa đầu tiên của hội thì báo Nhân Văn ra đời, xảy ra vụ Nhân Văn - Giai Phẩm, theo lời khuyên của Lưu Hữu Phước, đi tránh và nghiên cứu dân ca. Đầu 1961, ông được biệt phái về Hưng Yên. Thời gian này, đã viết một số ca khúc như Chim hót trên đồng đay (1963), Dòng nước quê hương (1963), Tiễn anh lên đường (1964), Múa hát mừng chiến công (1966)...

Năm 1967, ông quay trở về công tác tại Hội nhạc sĩ Việt Nam và tiếp tục viết nhiều bài hát được phổ biến rộng rãi. Sau năm 1975, ông chuyển về Viện nghiên cứu âm nhạc, Bộ Văn hóa, cơ sở II tại Thành phố Hồ Chí Minh. Trong khoảng thập niên 1990 ông vẫn sáng tác đều, khoảng hơn 20 bài, nhưng không có ca khúc nào nổi tiếng. Đầu năm 2006, một đêm diễn mang tên Dư âm thuộc chương trình Con dường âm nhạc được tổ chức để vinh danh http://www.youtube.com/watch?v=w7CgqZ9p6U4

Năm 2006, Ông viết trường ca " Mười bông hoa trinh liệt giữa ngã ba Đồng Lộc " thơ Bùi Mạnh Hảo. Phóng sự CA TPHCM http://www.suctrevietnam.com/Web/AmNhac/Content.aspx?distid=13864 , nghe nhac http://www.nhaccuatui.com/nghe?M=3I8GGdLmvo . trường ca này đã được ban VH-VN bao SGGP bình chọn la 1 trong 10 sự kiện ấn tượng nhất năm 2006 trên SGGP xuân Đinh Hợi.

Năm 2009, mừng thượng thọ 86 tuổi, Ông có nhã ý tặng người hâm mộ gần xa Clips Nguyễn văn Tý sự nghiệp & âm nhạc. http://www.youtube.com/watch?v=eYiEvNJWtHo

4.2010, nhân kỷ niệm 35 năm thống nhất đất nước ( 30.4.1975 30.4.2010 ) đánh dấu thời điểm trọng đại của Tổ Quốc, hòa bình, thịnh vượng. Việt Nam đã và đang được bè bạn quốc tế biết đến không chỉ qua đấu tranh gian khổ, kiên cường, bất khất mà còn là một đất nước có những phong cảnh hữu tình non xanh nước biết, lòng nhân ái , hữu nghị, mến khách. Âm nhạc là phương tiện kết nối mọi người không phân biệt tuổi tác, cội nguồn. Đặt biệt âm nhạc lãng mạng về tình yêu thương giữa người và người là bao vần thơ muôn thuở .Yêu thương sẽ đưa mọi người đến gần nhau hơn.Với suy nghĩ trên một nhóm bạn trẻ đã chuyển tải và trình bày bản nhac DƯ ÂM của NS NVTý bằng tiếng Anh ECHO OF LOVE để mọi người cùng thưởng thức và giới thiệu bạn bè gần xa ........http://www.youtube.com/watch?v=RPOrVZf4i4I

7.2010 Nghị quyết Hội nghị BCH T.Ư Đảng lần thứ 7, khóa 10 về kỷ niệm 65 năm Ngày thành lập Bộ Canh nông (14-11-1945), Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã chọn nhung ca khúc tiêu biểu có giá trị về âm nhạc, nội dung và tư tưởng đại diện cho cả ba miền bắc, trung, nam, như là người bạn đường tri kỷ với ngành nông nghiệp nước ta suốt chặng đường từ Cách mạng tháng 8-1945 đến nay & nhiều người ưa thích. Ong được tôn vinh va trao giải thưởng : Người đi xây hồ Kẻ Gỗ http://www.youtube.com/watch?v=K-vGSttu0Bg ; Bài ca 5 tấn http://hcm.nhac.vui.vn/nghe-nhac-mp3/#Play,14263

Sáng tác

sáng tác không nhiều tuy nhiên những sáng tác của ông lại được đông đảo công chúng mến mộ như Dư âm, Mẹ yêu con, Dáng đứng Bến Tre, Bài ca năm tấn, Bài ca phụ nữ Việt Nam, Em đi làm tín dụng, Tấm áo chiến sỹ mẹ vá năm xưa, Một khúc tâm tình của người Hà Tĩnh, Người đi xây hồ Kẻ Gỗ, Cô nuôi dạy trẻ...

Dư âm có thể coi là ca khúc tiền chiến duy nhất của ông. Ca khúc tuy không được phổ biến ở miền Bắc trong những năm chiến tranh nhưng lại được biểu diễn nhiều ở miền Nam trước năm 1975. Về sau ca khúc được lưu hành rộng rãi, trở thành một trong những bản tình ca được nhiều công chúng yêu thích. Sau này ông có viết thêm bài "Dư âm 2" mang tên Một ánh sao trời (1988).

là một trong những nhạc sĩ nhạc đỏ thành công với chất liệu dân ca. Những sáng tác của ông được chắt chiu và nghiền ngẫm qua những chuyến đi thực tế trong thời gian dài, nhiều sáng tác đã sử dụng khéo léo chất liệu dân ca của nhiều vùng miền (Một khúc tâm tình người Hà Tĩnh, Dáng đứng Bến Tre, Mẹ yêu con...). Một đề tài quen thuộc trong nhiều sáng tác của ông là phụ nữ với những ca khúc như Bài ca phụ nữ Việt Nam, Mẹ yêu con, Tấm áo chiến sỹ mẹ vá năm xưa... cũng là một nhạc sĩ có nhiều sáng tác "ngành ca": Em đi làm tín dụng, Anh đi tìm tôm trên biển cả, Chim hót trên cánh đồng đay, Cô đi nuôi dạy trẻ, Bài ca năm tấn.

Ngoài ra ông còn viết một số ca khúc thiếu nhi như Tôi là gà trống, Gà mái mơ, Út cưng... Ông còn viết nhạc cho phim hoạt hình, múa rối và một số vở chèo: Đảo nổi, Sông Hồng (1967), Nguyễn Viết Xuân (1968).

Ông đã xuất bản các tác phẩm: Những dư âm còn lại, video, (VAFACO, 1993), Tuyển chọn ca khúc , NXB Âm nhạc, Hội nhạc sĩ Việt Nam 1995; Băng chân dung và tác phẩm của Đài truyền hình TP. Hồ Chí Minh.

Năm 2000, ông được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật cho các tác phẩm: Mẹ yêu con, Vượt trùng dương, Bài ca năm tấn, Tấm áo chiến sỹ mẹ vá năm xưa, Một khúc tâm tình của người Hà Tĩnh, Dáng đứng Bến Tre. Trong cuộc đời hoạt động của mình, ông còn giành được một số giải thưởng như:

* Giải nhì (không có giải nhất) của Hội văn nghệ Việt Nam cho bài Vượt trùng dương

* Giải nhất Cuộc thi vận động sáng tác về đề tài phụ nữ với bài Tiễn anh lên đường (1964)

* Giải nhất sáng tác về đề tài nông nghiệp với ca khúc Bài ca năm tấn (1967)

* Giải Ngân hàng với bài Em đi làm tín dụng.

* Ai xây chiến lũy (1949)

* Bài ca năm tấn (1967)

* Bài ca phụ nữ Việt Nam (1970),

* Chim hót trên đồng đay (1963)

* Cô đi nuôi dạy trẻ (1980)

* Dáng đứng Bến Tre (1981)

* Dòng nước quê hương (1963)

* Dư âm (1950)

* Em đi làm tín dụng (1971)

* Mẹ yêu con (1956)

* Một khúc tâm tình người Hà Tĩnh (1974)

* Múa hát mừng chiến công (1966)

* Người đi xây hồ Kẻ Gỗ (1976)

* Ru người trăm năm (1999)

* Tấm áo chiến sỹ mẹ vá năm xưa (1973)

* Tiễn anh lên đường (1964)

* Vượt trùng dương (1952)

0