Thông tin

Số điện thoại

Email

Website

Địa chỉ

Nguyễn Trọng Tạo

Nguyễn Trọng Tạo sinh ngày 25-8-1947 tại Diễn Châu, Nghệ An, đi lính năm 1969, học Đại học viết văn Nguyễn Du khoá 1, làm thơ từ năm 14 tuổi. Ông là nhà thơ, nhà văn, kiêm nhạc sĩ, hoạ sĩ. Ông là Uỷ viên Hội đồng thơ của Hội nhà văn Việt Nam, Trưởng ban biên tập báo Thơ (2003–2004). Ông từng được các giải thưởng thơ của Nghệ An năm 1969, và giải thơ của các báo Văn nghệ , Văn nghệ quân đội , Nhân dân (1978), hai lần được Giải thưởng Văn học nghệ thuật cố đô (Huế), Giải thưởng Văn học nghệ thuật Hồ Xuân Hương, Giải thưởng Uỷ ban toàn quốc các hội văn học nghệ thuật Việt Nam về thơ và văn xuôi. Thơ và truyện ngắn của ông dịch ra tiếng Pháp, Anh, Nga, Tây Ban Nha... Ngoài thơ, ông còn là nhạc sĩ, hiện công tác tại tạp chí Âm nhạc và Thời đại của Hội nhạc sĩ Việt Nam, đã có 8 giải thưởng âm nhạc. Các album đã phát hành: - Tình khúc bốn mùa (NXB Âm nhạc và Hội Nhạc sĩ Việt Nam, 1996) Các bài hát nổi tiếng: - Làng quan họ quê tôi (lời thơ của Nguyễn Phan Hách) - Đôi mắt đò ngang - Khúc hát sông quê (lời thơ của Lê Huy Mậu) Ông đã vẽ khoảng 500 bìa sách, trong đó có: - Chuyện kể năm 2000 (Bùi Ngọc Tấn) - Vẽ nhiều minh hoạ trên báo, tạp chí, và trình bày mỹ thuật tạp chí Cửa Việt bộ đầu tiên (1990-1992), báo Thơ , mẫu măng-sét tạp chí Sông Hương , Hồng Lĩnh , Sông Lam , v.v... Các tác phẩm chính: - Thơ: Gửi người không quen, Sóng thuỷ tinh, Đồng dao cho người lớn, Thư trên máy chữ, Tản mạn thời tôi sống, Nương thân, Thơ trữ tình, Thế giới không còn trăng,... - Trường ca: Con đường của những vì sao, Tình ca người lính. - Văn xuôi: Miền quê thơ ấu, Ca sĩ mùa hè, Chuyện ít biết về văn nghệ sĩ, Văn thơ nhạc tuổi thơ,... - Tiểu luận phê bình: Văn chương cảm và luận Nguyễn Trọng Tạo sinh ngày 25-8-1947 tại Diễn Châu, Nghệ An, đi lính năm 1969, học Đại học viết văn Nguyễn Du khoá 1, làm thơ từ năm 14 tuổi. Ông là nhà thơ, nhà văn, kiêm nhạc sĩ, hoạ sĩ. Ông là Uỷ viên Hội đồng thơ của Hội nhà văn Việt Nam, Trưởng ban biên tập báo Thơ (2003–2004). Ông từng được các giải thưởng thơ của Nghệ An năm 1969, và giải thơ của các báo Văn nghệ , Văn nghệ quân đội , Nhân dân (1978), hai lần được Giải thưởng Văn học nghệ thuật cố đô (Huế), Giải thưởng Văn học nghệ thuật Hồ Xuân Hương, Giải thưởng Uỷ ban toàn quốc các hội văn học nghệ thuật Việt Nam về thơ và văn xuôi. Thơ và truyện ngắn của ông dịch ra tiếng Pháp, Anh, Nga, Tây Ban Nha... Ngoài thơ, ông còn là nhạc sĩ, hiện công tác tại tạp chí Âm nhạc và Thời đại của Hội nhạc sĩ Việ… Sóng thuỷ tinh Thơ cho thiếu nhi Tình yêu sáng sớm (1973) Đồng dao cho người lớn (1994) Nương thân (1999) 101 bài thơ tình (2005) Thế giới không còn trăng (2006) Con đường của những vì sao (2008) - (Trường ca Đồng Lộc) Em đàn bà (2008) Biển mặn (2015) Trang 123 trong tổng số 3 trang (30 bình luận) [ 1 ] [2] [3] ›Trang sau »Trang cuối Nguyễn Trọng Tạo - tuổi con hợi cầm tinh Đăng bởi Vanachi vào 25/01/2007 09:34 Mùa đông 1978 buốt lạnh và triền mien những bữa cơm ăn hạt bo bo. Những tranh chấp biên giới Tây – Nam đã đến độ căng thẳng. Những người lính tình nguyện Việt Nam lại một lần nữa dấn thân sang đất bạn Camphuchia để nhằm xoá sạch “nạn diệt chủng Pôn Pốt”. Những giai điệu ngợi ca họ lại vang lên nóng bỏng. Lúc ấy tôi đang chuẩn bị viết một chùm ca khúc để trả bài cho lớp sang tác thì bỗng thấy bài thơ Hát ru em bé Campuchia của Nguyễn Trọng Tạo trên báo Văn Nghệ. Bài thơ đầy nhạc tính. Thế là tôi dựa vào một nét dân ca Campuchia, phổ nhạc bài thơ này. Ca khúc Hát ru em bé Cămpuchia hoàn thành, được thầy Vũ Trọng Hối khen, rồi được thu thanh mở đầu cho băng ca nhạc “Campuchia chiến đấu và hy vọng”. Lúc ấy tôi chưa hề gặp Nguyễn Trọng Tạo mà chỉ biết hắn cũng làm thơ làm nhạc như mình. Vào một sang mùa đông năm đó, Nguyễn Đình Chính đưa tôi đến Trại sang tác Quân đội ở làng Khương Hạ. Ở đấy, tôi đã gặp Nguyễn Trọng Tạo và Nguyễn Hoa. Không cần rào trước đón sau, đọc thơ và hát cho nhau nghe trong men nồng “quốc lủi”. Và từ ngày ấy, chúng tôi thành “Ba anh em họ Nguyễn” như nghĩa cử Lương Sơn Bạc cho đến tận hôm nay. Nguyễn Trọng Tạo quê Diễn Châu, Nghệ An. Đấy là vùng đất Châu Diễn tận cùng xứ Âu Lạc xưa, nơi có đền Công thờ Thục An Dương Vương với huyền thoại vua cha chém Ái nữ Mỵ Châu rồi tuẫn tiết trên đèo Mụ Dạ, nơi có Lèn Hai Vai như vị tướng bị chặt đầu và sông Bùng như dòng nước mắt của bà tướng khóc chồng tuôn trào ra biển. Nguyễn Trọng Tạo sinh ra ở đấy vào ngày 25-8-1947, trùng với ngày sinh và ẩn tuổi Hợi của Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Không biết có phải do trời tạo, đất sinh mà từ căn nhà quê kiểng ấy đã hun đúc nên một chàng nghệ sĩ đa tài “cầm-kỳ-thi-hoạ” cho thời hiện đại này. Đa tài sau Văn Cao và Nguyễn Đình Thi. Tôi có ý nghĩ như vậy, bởi khi tôi gặp Tạo, hắn đã có thơ in thành tập, đã đoạt liền ba giải thưởng thơ hay trong năm của ba tờ báo lớn, đã từng vẽ tranh bán ở chợ Vinh thuở thiếu thời, và vừa viết xong bài hát “Làng Quan Họ quê tôi” phỏng lời thơ của Nguyễn Phan Hách. Bài hát đã được Thanh Hoa cùng tốp nữ Đài Tiếng Nói Việt Nam thu thanh, để rồi nổi tiếng mãi đến bây giờ và chắc còn vang mãi mai sau. Nghe nói hồi nhỏ Tạo đã tự làm một chiếc đàn violon khá đẹp và đã diễn tấu cho toàn trường cấp 3 Diễn châu nghe, nhưng từ khi gặp Tạo, tôi chưa hề thấy hắn chơi một loại nhạc cụ nào, nhưng xướng âm thì khá vững. Còn vốn hoà âm, khúc thức Tạo thụ hưởng từ thầy Ngô Trí Thậm và qua vài lớp sang tác âm nhạc trong quân đội cũng đã đủ để viết ra một tổ khúc hợp xướng “Đất nước Bác Hồ và cuộc hành quân không nghỉ” thời chống Mỹ cứu nước. Vậy nên, đó cũng là tạng của một nhạc sĩ dị biệt. Còn thơ, cũng ngay từ dạo ấy, Tạo đã có những đột phá mang khát vọng cách tân như không nhiều nhà thơ khác thời đầu thanh bình. Tạo khởi xướng ra “Thơ đời thường” nhằm đối trọng với thơ tụng ca nhan nhản lúc bấy giờ, để rồi phóng ra một “Tản mạn thời tôi sống” giữa năm 1981 làm chấn động thi đàn. Với thơ, Tạo vô cùng khó tính. Tôi có bài thơ Những giọt mưa làm lại đến lần thứ ba rồi mà Tạo đề nghị tôi “dỡ ra làm lại, không thì tiếc quá”, và tôi đã làm theo đề nghị của hắn, để có được bài thơ “Những giọt mưa đồng hành” đoạt giải báo Văn Nghệ sau đó. Chúng tôi chơi với nhau như vậy, bươn trải hết biên giới Tây – Nam lại biên giới Bắc. Rồi cả “Ba anh em họ Nguyễn” đều cùng về học Trường Viết Văn Nguyễn Du khoá đầu tiên. Đấy là những ngày tụ quần ấm áp không bao giờ quên. Ấm áp và trong trẻo. Luc đó Trại sang tác Quân đội đã chuyển về Vân Hồ. Tạo và Nguyễn Hoa ở chung một phòng. Hành trình hai chiều Vân Hồ với nhà tôi 60 Hàng Bông là hành trình đi về trong thương mến của “Ba chàng họ Nguyễn” chúng tôi. Khi thì tôi tới Vân Hồ, khi thì Tạo và Nguyễn Hoa lên Hàng Bông. Ở không gian nào thì cũng vẫn là rượu – thơ và nhạc. Nguyễn Thuỵ Kha Lộ tòng kim dạ bạch, Nguyệt thị cố hương minh. ☆ ☆ ☆ ☆ ☆ Chưa có đánh giá nào Chia sẻ trên Facebook Nguyễn Trọng Tạo: "Nếu còn biết bất ngờ..." Đăng bởi Nguyễn Trọng Tạo vào 23/02/2007 22:34 NGUYỄN TRỌNG TẠO: “NẾU CÒN BẤT NGỜ…” LÊ MỸ Ý thực hiện LÊ MỸ Ý (LMY): Thưa ông Nguyễn Trọng Tạo, trong cuộc phỏng vấn này, tôi đang được trò chuyện với nhà thơ hay nhạc sĩ, hay là cả hai? NGUYỄN TRỌNG TẠO (NTT): Cứ trò chuyện với Nguyễn Trọng Tạo là được rồi. Còn các “chức” danh khác, chẳng qua người ta đặt cho thôi. LMY: Và ông còn là một hoạ sĩ nữa. Ông đã từng thiết kế hàng trăm bìa sách và đã đoạt hai giải thưởng bìa sách? NTT: Tôi không nghĩ mình là hoạ sĩ, nhưng cũng có thế đấy. Với tôi, thơ là nghiệp, nhạc là hứng, hoạ là chơi. Hay nói cách khác, thơ là chánh quán, nhạc là trú quán, hoạ là trọ quán. LMY: Vậy tôi xin được bắt đầu từ thơ của ông. Ông là người đã xuất bản rất nhiều tập thơ, và Đồng dao cho người lớn hình như được đánh giá cao hơn cả? NTT: Vâng, đúng là tôi tâm đắc nhất với tập thơ Đồng dao cho người lớn, viết tại Huế từ năm 1986 đến năm 1994. Đây là một tập thơ tôi đã viết khác hẳn hệ thống thơ chống Mỹ. Những nhà thơ trước đó thường viết theo lối ca ngợi, ca ngợi dân tộc, ca ngợi đất nước, ca ngợi lý tưởng, ca ngợi nhân dân. Đến tập thơ này của tôi, tôi đã viết với một tinh thần rằng, chúng ta hãy sống trong sự mờ ảo của tâm hồn con người, chúng ta phải biết đi qua hết những gì quá rõ ràng như giới tuyến Bắc Nam. Mặc dù trong thời chống Mỹ, để vượt qua được giới tuyến Bắc Nam là một điều quá thiêng liêng, cụ thể là máu xương của cả dân tộc. Nhưng vượt qua giới tuyến rồi, chúng ta còn phải vượt qua sự huyền ảo của con người. Sự huyền ảo ấy chính là tiếng nói thơ ca hiểu theo một cách rộng rãi nhất, là một Nhân Văn không còn biên giới. Suốt một thời làm thơ, tôi là một người thích chiêm nghiệm, và cũng là một người thích đổi mới. Nhưng có lẽ chỉ sống ở Huế, tôi mới thấy hết sự huyền ảo của nghệ thuật, mới ý thức thực sự nghệ thuật là tinh thần huyền ảo trong trần gian. Nó làm nhoè mờ các ranh giới và vượt thoát ra ngoài các ranh giới. 500 năm trước đây, đại thi hào Nguyễn Trãi đã tìm ra được 3 chữ "An-Nhữ-Chỉ", nghĩa là , hãy yên tâm trong đường chỉ giới của chính mình. Nhưng đến thế kỷ XX, Yanit Ritsot (HyLạp) đã phát hiện ra rằng, "nếu tôi thấy được chân giới của tôi, tôi sẽ xuyên qua chân giới ấy". Chỉ vì một đường chân giới mà người ta mất 5 thế kỷ mới đi qua được. Đấy là cuộc đi qua bức tường Đông Tây. Cũng như sự đập vỡ bức tường Berlin vậy. Còn chúng ta thì phải đi qua chiến tranh suốt 20 năm mới nhận diện được sự huyền ảo trong thơ ca nghệ thuật. Do vậy, tôi nghĩ rằng, tôi đã cố gắng đi qua chân giới để làm nên tập thơ "Đồng dao cho người lớn", một tập thơ mà người ta vẫn thường nhắc tới khi nói về thơ ca Việt Nam sau 1975. LMY: "Sự thực của tinh thần huyền ảo trong trần gian" mà ông nói trong tập thơ của mình, hiểu rộng hơn, cụ thể hơn là gì, thưa ông? NTT: Đó là sự huyền ảo tâm linh của con người. Nó nói lên tất cả những đau xót, sự nghĩa lý, những nhân tình thế thái của cuộc đời một cách huyền ảo. Những thứ mà trước đây người ta vẫn thường hiểu rành rọt, về sau thì khác, theo một tinh thần huyền ảo. Ngay trước thời gian ở Huế, ở Hà Nội tôi cũng thường hiểu mọi thứ một cách rành rọt, nhưng khi về ở Huế, tôi đã có thêm con mắt thứ ba để nhìn sự vật. Con mắt bịa đặt. Nghệ thuật huyền ảo chẳng qua là một sự bịa đặt, nhưng sự bịa đặt ấy làm cho người ta tin là thật, hơn cả thật, đấy là những trạng thái sống vô cùng kỳ lạ. Trước đây, chúng ta đã biết một G. Macket của chủ nghiã hiện thực huyền ảo, và trước cả ông, là một bậc thầy F. Kapka. Tôi không phải là Macket hay Kapka, nhưng vẫn nói ra được sự thật một cách "bịa đặt" mà người ta có thể tin. LMY: Thưa ông, tại sao chỉ có thể ở Huế, thơ ông mới mang một tinh thần huyền ảo? Những nhà thơ khác không ở Huế thì không có tinh thần ấy trong thơ ư? NTT: Tôi chỉ nói riêng trường hợp tôi. Ở Huế, tôi thấy có nhiều điều kiện. Thứ nhất, không gian Huế rất lạ lùng, nó nằm giữa hư và thực. Thiên nhiên Huế là một thiên nhiên mơ hồ. Thứ hai, ở Huế, người ta có một tâm thái rất cục bộ. Tôi là dân ngụ cư nên càng mơ hồ bao nhiêu càng dễ hoà nhập bấy nhiêu. Một điều nữa, trong tâm thái mình bắt gặp có sự mơ hồ ấy mà sinh ra huyền ảo. Có lẽ những nhà thơ trụ cột của Việt Nam thế kỷ XX đều từng sống ở Huế: Huy Cận, Hàn Mặc Tử, Xuân Diệu, Chế Lan Viên... Xa hơn nữa là Cao Bá Quát, Nguyễn Du... Tôi có cảm giác như là nếu không sống ở Huế thì người ta không thể làm thơ như thế. Đến như văn Hoàng Phủ Ngọc Tường hay nhạc Trịnh Công Sơn cũng trở thành ảo diệu một cách riêng biệt. Tuy nhiên, những điều ấy chỉ xảy ra với những người có thực tài mà thôi. Còn một điều nữa, tôi nghĩ Huế một thời là thủ phủ của đạo Phật, cái sắc sắc không không ấy của Phật giáo đã đi vào tâm thức huyền ảo của thơ ca. Nguyễn Bính là một trường hợp bén duyên với Huế hết sức kỳ lạ, chỉ cần 3 tháng ở Huế cũng đủ để ông trở thành một nhà thơ mà lịch sử văn học không thể không nhắc tới. LMY: Đã có "duyên nợ" nào giữa ông và Huế vậy, thưa ông? NTT: Tôi lấy vợ Huế, sinh con ở Huế, sống ở Huế, làm thơ ở Huế. Duyên nợ ấy xem như tiền định. LMY: Có phải vì tiền định ấy mà thơ ông luôn phảng phất nét Huế? Còn nhiều nghệ sĩ cũng đã vì Huế mà "nối vòng tay lớn" cùng nhau? NTT: Tôi nghĩ nó không chỉ "phảng phất nét Huế" đâu, mà chính là thấm đậm hồn Huế. Cũng như Bùi Giáng và Thu Bồn bắt thần Huế nhốt vào câu thơ của họ: Dạ thưa xứ Huế bây giờ - Vẫn còn núi Ngự bên bờ sông Hương, hay Con sông dùng dằng con sông không chảy - Sông chảy vào lòng nên Huế rất sâu, tôi cũng có câu thơ để cho Huế nhớ: Sông Hương hoá rượu ta đến uống - Ta tỉnh đền đài ngả nghiêng say. Nhắc đến thơ Huế sau 1975, có người nói rằng, nếu không có Nguyễn Trọng Tạo thì Huế sẽ hẫng hụt, sông Hương sẽ chảy mạnh hơn nhiều, bởi họ nghĩ thơ tôi đã cân bằng lại sông Hương bằng những câu thơ: Sông Hương cân bằng thành thị với làng quê, hay: vầng trăng loã thể ướt đầm - sẩy chân thi sĩ vớt nhâm mỹ nhân. Đúng là duyên kiếp tiền định. Nhưng tôi vẫn nghĩ, những người tài họ vẫn gặp nhau, họ nối vòng tay lớn qua Huế, hay vì Huế thì tôi không rõ. Còn tôi, nói khiêm tốn tôi tài mọn, nhưng cũng nhờ Huế mà có tình bạn với Hoàng Phủ Ngọc Tường và Trịnh Công Sơn, hai nhà văn hoá hành văn mà tôi vô cùng kính nể. LMY: Sinh ở Nghệ An, từng ở Huế, bây giờ là Hà Nội, sau này ông sẽ định cư thật sự ở đâu? NTT: Điều ấy quan trọng thế sao? Thôi thì thế này, năm 1975 tôi đi qua Huế và thiển nghĩ rằng, nếu làm văn chương thì nên ở Hà Nội, làm kinh tế thì nên ở Sài Gòn, về hưu thì nên ở Huế. Nhưng tôi lại là một người sáng tác, sáng tác làm gì có hưu (cười). LMY: Nghĩa là ông sẽ không bao giờ ở Huế nữa? NTT: Ít nhất là đến lúc này, tôi vẫn nghĩ là tôi ở Hà Nội. Nhưng càng ngày, tôi càng nhớ cái làng nhỏ có núm rau của tôi bên bờ sông Bùng xứ Nghệ. LMY: Trở lại với tập thơ "Đồng dao cho người lớn", khi viết lời tựa tập thơ này, nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường đã đặt cho ông cái tên là "Người Ham Chơi"? Ông có thích từ này và thấy mình "ham chơi"? NTT: Người Ham Chơi là một danh hiệu quá sang cho một thi sĩ, hay nói rộng hơn là cái từ quá sang cho một nhà sáng tạo. Bởi vì nếu có một người nói mình giỏi mà không biết chơi thì tôi chưa tin người ấy giỏi; còn nói mình biết chơi mà không giỏi thì là chuyện bình thường; nhưng bất cứ một người nào vừa làm giỏi vừa chơi giỏi thì đấy mới thực là người chơi vĩ đại. Nói cho cùng, khi Hoàng Phủ Ngọc Tường dùng từ Người Ham Chơi theo gốc chữ Latinh là Homoludus, thì tự nó đã mang theo cả nghĩa người làm lẫn người biết rồi. Tôi hiểu, phải quí tôi lắm Hoàng Phủ mới gọi như vậy. Hình như danh hiệu Người Ham Chơi, Hoàng Phủ chỉ dành cho Nguyễn Trọng Tạo và Nguyễn Công Trứ - người đồng hương xứ Nghệ. Đấy là một quà tặng vô giá. Nhưng nếu không chơi với tôi, chắc chi Hoàng Phủ đã hào phóng như vậy. LMY: Vâng, người ta sẽ bất ngờ khi thấy ông không "ham chơi" chút nào. Rất nhiều tập thơ, tập văn, bài báo, bìa sách, minh hoạ, ca khúc, và các bài viết mang tính lý luận phê bình...của ông đã công bố. Ông có thấy như vậy là nhiều, thưa ông? NTT: Không! Như tôi đã nói, từ "Người Ham Chơi" mang cả nghĩa người làm. Riêng tôi thì không phân biệt mình làm hay chơi. Còn người biết, nói cho cùng, chẳng ai biết gì cả. Trên thế giới này, người ta vẫn thường nói ba chữ "bất khả tri" hoặc "càng biết càng đau". Tôi cảm thấy mình chưa đau hơn bất kỳ ai. LMY: Vậy trong các công việc trên nhiều lĩnh vực văn học nghệ thuật mà ông tham gia, đâu là "công việc" Nguyễn Trọng Tạo nhất? Đó có phải là lĩnh vực mà ông đã thành công? NTT: Tôi làm báo để sống, làm thơ để chết, làm nhạc, vẽ bìa sách, uống rượu... để vui. Người ta có thể chết vì một tình yêu, người ta cũng có thể chết vì lợi nhuận. Nhưng đối với riêng tôi, làm thơ cũng có nghĩa là làm tất cả. Việc này có thể nói như một nhà thơ nghiệp dư trên đỉnh đèo Hải Vân tên là Lại Phiền Hà: "Em làm thơ để em làm người". Tất nhiên là tôi thành công nhất trong thơ. Nhưng khi ngẫu hứng, tôi đã làm nhạc. Ấy thế mà tới đâu cứ xướng "Làng Quan Họ quê tôi" lên là người ta biết ngay đấy là nhạc của Nguyễn Trọng Tạo. Phải nói là hạnh phúc vô cùng khi anh vừa là nhà thơ vừa là nhạc sĩ. LMY: Với nhạc, ca khúc "Làng Quan Họ quê tôi" có phải là đỉnh cao của ông? NTT: Có một ca khúc khác mà tôi thích hơn "Làng Quan Họ quê tôi", đó là "Đôi mắt đò ngang". Nó ra đời năm 1995, sau "Làng Quan Họ quê tôi" 17 năm, và năm 1997 được sinh viên bình chọn là ca khúc mới hay nhất trong đêm nhạc của 4 nhạc sĩ tại đại học Văn Hoá Hà Nội. Sau khi bài này được phát trên đài truyền hình và đài phát thanh, nhạc sĩ Nguyễn Tài Tuệ là người từng viết "Xa khơi" và "Tiếng hát giữa rừng Pác Bó" nổi tiếng, đã tìm tôi và nói rất đúng ý tôi - ông rất thích "Đôi mắt đò ngang", và cho rằng, bài này còn hay hơn cả "Làng Quan Họ quê tôi". Ở quê tôi, người ta hát "Đôi mắt đò ngang" cả trong đám cưới. Bài hát này cũng đã đoạt giải thưởng Hồ Xuân Hương Nghệ An và giải thưởng của Uỷ ban toàn quốc Văn học nghệ thuật Việt Nam. Điều đó làm tôi thấy vui vì hoá ra những điều mình thích cũng được ghi nhận, dù không được sôi nổi như cái thời "Làng Quan Họ quê tôi" được hát trên cả nước, được JVC Nhật Bản thu đĩa và dàn nhạc giao hưởng Lep-zich trình tấu ở Đức. Về bài "Đôi mắt đò ngang" mà tôi rất thích ấy, tinh thần của nó là đi ngược lại với những rào cản, ràng buộc từ trước, ngược với lời ru quá cẩn thận của người xưa. Đó cũng là sự thoát khỏi An-Nhữ-Chỉ của Nguyễn Trãi: "Chìm trong đôi mắt ấy, đò đầy anh cứ sang..." (hát). Còn bây giờ thì tôi đang sướng về ca khúc mới "Khúc hát sông quê" phổ thơ Lê Huy Mậu. Nhiều người đã hát bài này cho tôi nghe qua điện thoại di động. LMY: Trên các diễn đàn văn nghệ, tại sao ông hay chọn đọc bài thơ "Chia" và nhiều bạn trẻ cũng thích bài hát "Một dại khờ một tôi" do nhạc sĩ Phú Quang phổ nhạc từ bài thơ này? NTT: Tôi cực kỳ tâm đắc với bài thơ này. Người ta thường chia cho những con số trên 1 như Tố Hữu từng chia trái tim làm "ba phần tươi đỏ" chẳng hạn, còn tôi, tôi chỉ chia cho 1. Chia mà vẫn còn nguyên, chia cho1 cũng có nghĩa là tất cả, là sự hiến dâng tất cả. Một bài thơ "Chia" mà có đến mười mấy chữ một. Còn lý do tôi hay đọc bài thơ này vì nó là một bài lục bát dễ thuộc, lục bát kiểu Nguyễn Trọng Tạo: chia cho em một đời say một cây Si với một cây Bồ Đề khi đọc phải ngắt nghỉ, dừng lại đúng chỗ, nếu không thì sẽ không phải là bài thơ lục bát của tôi. LMY: Trong số những người cùng thời, nếu nói về tài năng thi ca, ông phục ai? NTT: Nguyễn Hoa, người đã viết được một câu thơ vĩ đại: "Em là muối ướp nỗi đau tươi mãi", Nguyễn Thuỵ Kha, người đã viết được câu thơ đầy can đảm:"Đưa người yêu qua nhà người yêu cũ". Thanh Thảo, Hữu Thỉnh, Nguyễn Khắc Thạch, Nguyễn Duy, Hoàng Phủ Ngọc Tường... đều là những thi tài. LMY: Tại sao, thưa ông? NTT: Không biết! LMY: Vì sao ông viết nhiều tiểu luận phê bình thơ? NTT: Tôi viết tiểu luận phê bình để ghi lại những cảm xúc khi đọc thơ, ghi lại những suy nghĩ về thơ, để tranh luận với những quan điểm trái với quan điểm của tôi. Nhưng cũng có lúc tôi viết vì thấy bực mình tại sao thời của tôi không có những nhà phê bình thơ đích đáng. Một dân tộc yêu thơ ca bậc nhất mà lại thiếu nhà phê bình thơ. Rất may Thơ Mới còn có Hoài Thanh. Nếu tôi sống cùng thời với Hoài Thanh khi ông soạn "Thi Nhân Việt Nam" chắc tôi sẽ tìm đến chơi với ông ấy. Đấy là người đáng chọn để đàm đạo về thơ. LMY: Theo tôi biết, thế hệ của ông vẫn có những nhà phê bình thơ đấy chứ, chẳng hạn như nhà thơ Vũ Quần Phương? NTT: Vâng. Phê bình thơ của ông ta gần với văn bình giảng ở trường phổ thông, rất dễ đọc. Bây giờ có một người trẻ có thể nói chuyện về thơ là Nguyễn Đăng Điệp, một người rất quan tâm đến giọng điệu thơ, một vấn đề rất quan trọng của thơ. Anh ta nói được một đôi điều khá hay. Nên đọc cuốn sách "Giọng điệu trong thơ trữ tình" anh ta mới xuất bản gần đây. Còn một người nữa là Nguyễn Phan Cảnh, tác giả cuốn "Ngôn ngữ thơ" rất đáng đọc. Tôi thích đọc hai cuốn sách đó vì tác giả khám phá sâu vào nghệ thuật thi ca, và mặc dù họ cách nhau đến vài thế hệ. LMY: Lý do nào khiến trong những tranh luận của mình, ông luôn đặt thơ trẻ lên hàng đầu? NTT: Trái đất không bao giờ quay ngược. Nếu nó quay ngược, hoặc dừng lại thì nhân loại sẽ chết. Quan tâm đến thơ trẻ là việc tự nhiên như trái đất quay, là một qui luật tất yếu. Người xưa quan niệm công kênh trẻ con trên vai đấy mới là người ông, người cha tốt. Tôi không phải là ông cha gì, nhưng chuyện ấy cũng đi theo một qui luật, các nhà thơ trẻ sẽ bước lên vai những người trước, còn chuyện có đặt được chân lên vai thế hệ trước hay không là việc của họ. Có một điều đối với những người trẻ là không nên đòi hỏi ở họ sự chuẩn mực mà người trước đã tạo ra, mà hãy hy vọng từ họ những cái mới lạ, khác cách và tươi mới, bởi chính họ sẽ tạo ra những chuẩn mực mới cho thời đại. Theo thống kê học thì những phát kiến quan trọng nhất của đời người thường xảy ra ở lứa tuổi từ 24 đến 28. Tuổi trẻ là tuổi mở ra những cái bất ngờ. Đặc biệt đối với thơ, tính bất ngờ là vô cùng quan trọng, nó làm thay đổi tần số xung động của tâm hồn. Cho nên nhiều lúc người ta cứ bảo là tôi bênh bọn trẻ quá đáng. Tôi còn hơn cả bênh, đấy là sự trân trọng. Tuổi trẻ đối với sáng tạo thơ bao giờ cũng có những đột phá không thể lường được. Và quả thực, thơ ca sau thế hệ tôi đã mở ra một chân trời mới. Điều tất yếu này không phải ai cũng nhận ra, và không phải ai cũng trân trọng cả đâu. LMY: Tuổi trẻ của ông có làm nên điều gì bất ngờ không, thưa ông? NTT: Năm 14 tuổi tôi đã làm cho cậu (cha) tôi bất ngờ khi tôi viết được bài thơ đầu tiên, chịu ảnh hưởng của Hàn Mặc Tử. Nhưng bài thơ đó của tôi hơn 20 năm sau (thời đất nước đổi mới) người ta mới cho in, vì thời trước đó đang phải in những bài thơ xây dựng đất nước, bảo vệ tổ quốc. Làm sao người ta có thể in thơ tôi viết: "Trăng trên ngọn liễu trăng ngồi - Tôi trên ngọn liễu tôi rơi bây giờ" hay "Bây giờ tôi dịu tôi hiền - Biết đâu dại tôi điên bao giờ "... được? Chỉ nghe dại dại điên điên là họ đã không thích rồi. Một bất ngờ nữa là năm 1981, sau khi cho in bài thơ "Tản mạn thời tôi sống" trên báo Văn Nghệ với những câu "Thời tôi sống có bao nhiêu câu hỏi - Câu trả lời thật không dễ dàng chi" hoặc "Như con chiên sùng đạo chợt bàng hoàng - Nhận ra Chúa chỉ ghép bằng đất đá" tôi liền bị "bay" khỏi Hà Nội mất 15 năm, ngang với thời gian lưu lạc của nàng Kiều. Còn bây giờ thì có người đã coi "Tản mạn thời tôi sống" như là "bài thơ dự báo cho dòng thơ đổi mới " của ta (cười). LMY: Hình như ông cũng viết nhiều về âm nhạc? NTT: Những năm làm báo Âm nhạc, tôi và Nguyễn Thuỵ Kha là hai cây bút tác chiến của tờ báo này và một số tờ báo khác, nhưng tôi không viết nhiều về âm nhạc bằng Kha. Tuy nhiên tôi cũng có một số bài được người ta thích như "Nguyễn Thiên Đạo - hợp lưu văn minh Đông Tây", "Ngọc Đại - Phó Đức Phương, lửa và nước tương đồng", "Nhạc sĩ và sao và sự vong ơn", "Tốp, tốp và tốp đi về đâu?", "Bản sắc dân tộc và âm nhạc hôm nay", "Âm nhạc ơi, ngươi ở đâu?"... Nói chung là tôi cổ vũ, bênh vực cho âm nhạc có tính khai phá, phê phán thứ âm nhạc cũ rích, rẻ tiền, mồi chài, chợ búa... Nếu tập hợp lại, tôi cũng có thể in thành một tập sách "Âm nhạc ơi, mi ở đâu?". LMY: Người ta bảo tên tuổi ông gắn liền với một số nhà thơ trẻ? NTT: Họ nói thế là họ cho Nguyễn Trọng Tạo ăn theo các nhà thơ trẻ? Không bao giờ có điều đó. Nếu nói ngược lại thì đúng. (Cười). Chẳng qua là những người không thích thơ trẻ mới nói thế. Còn chính tôi là người đi tìm kiếm các nhà thơ trẻ, đến với họ và biết họ là ai. Nếu nói đọc thơ trẻ thì không phải ai cũng đọc họ một cách trân trọng như Nguyễn Trọng Tạo. Nếu chưa đọc họ với thái độ trân trọng, chưa đọc kỹ họ thì đừng có phán bừa. Đấy là căn bệnh chộp giật của phê bình. Phải tiếp cận, chia sẻ, phải nhìn theo kiểu "trái đất quay" thì mới hiểu được thơ trẻ, còn nếu chỉ nhìn thơ trẻ với cái nhìn kẻ cả thì người ta sẽ la lối, chụp mũ, rồi cho rằng bọn trẻ con ấy thì có tư tưởng gì? Đấy là những người cổ hủ, thô thiển, chỉ nhìn thấy họ, sau lưng họ mà không nhìn thấy trước mặt. Họ không có mắt ở trước mặt mà chỉ có mắt ở sau gáy. Còn tôi là một người bình thường, có mắt ở mặt. LMY: Ông thường nhắc nhiều tên tuổi các nhà thơ trẻ, vậy ai là người ông thực sự quan tâm nhất? NTT: Người làm thơ trẻ mà tôi quan tâm nhất, đó là Văn Cầm Hải. Đó là một người còn hơn cả Kapka trong thơ vì Kapka không làm thơ. Còn nếu Kapka làm thơ chắc cũng gần bằng Văn Cầm Hải (cười). Còn lại những người khác là Vi Thuỳ Linh, Phan Huyền Thư, Nguyễn Hữu Hồng Minh, Ly Hoàng Ly, Nguyễn Vĩnh Tiến, Lê Vĩnh Tài, Lê Mỹ Ý, Lý Đợi... Có những người xướng tên lên cũng chả ai biết và cũng chả ai đọc. Họ đi theo con đường thơ bằng tư duy khác cách, tôi từng nói trên báo là tư duy lập trình, tư duy của thời đại mới. Còn Nguyễn Quang Thiều (lớp thượng cận) có thể có một đóng góp lớn khiến một số người trẻ thích, nhưng Nguyễn Quang Thiều là một nhà thơ không có bài dở và cũng không có bài hay. LMY: Cơ sở nào khiến ông khẳng định về Văn Câm Hải như vậy, thưa ông? NTT: Văn Cầm Hải là một tư duy rất khác biệt trong thơ Việt Nam, chưa từng có trong thơ Việt Nam. Anh ta viết rất khác, rất lung tung, rất phức tạp nhưng đọc kỹ, ở đằng sau vẫn thấy có một văn hoá nâng đỡ thơ ca, đó là cảm quan Việt trong thế giới hiện đại. LMY: Nhà thơ Hoàng Hưng từng nói Văn Cầm Hải và cả Nguyễn Quốc Chánh đều có sự bắt chước siêu thực? NTT: Nguyễn Quốc Chánh là một người hiểu biết về phương Tây, đặc biệt là chủ nghĩa hiện sinh và chủ nghĩa siêu thực. Còn Văn Cầm Hải thì đấy là một người dung hợp và sáng tạo ra một thứ hậu siêu thực ở Việt Nam. Những thi ảnh chắp nối, gãy khúc rất khó nắm bắt. Những tư tưởng ẩn khuất, nhiều khi chỉ đọc được bằng cảm giác. Cảm giác được thì đó là sự tổn thương của một thế giới tâm linh hiên đại. Hải đã tạo ra một thế giới hiện đại có thể đổ vỡ nhưng tâm linh con người thì luôn tổn thương và khát khao tồn tại. LMY: Tại sao khi nhắc tới người này, lại thường chỉ thấy sự chỉ trích của các nhà phê bình, thưa ông? NTT: Ở nước ta rất ít người biết Văn Cầm Hải. Thơ Hải là thơ khó đọc, vì vậy đôi khi những sự chỉ trích gay gắt lại mang ý nghĩa của câu chuyện "thầy bói xem voi". LMY: Thế còn các nhà thơ trẻ mà ông vừa kể tên, ông có nhận xét gì về họ? NTT: Ly Hoàng Ly là nhà thơ và hoạ sĩ, thi ảnh của Ly rất cũ nhưng cô ấy lại có tài sắp đặt các thi ảnh, có lẽ là ảnh hưởng chi phối từ hội hoạ, thành ra lạ và có sức quyến rũ. Phan Huyền Thư là người mang trong mình một văn hoá cổ điển nhưng lại có cá tính "Thị Mầu thời hiện đại" nên thơ mạnh, sắc và chua (chanh). Vi Thuỳ Linh là sự xô bồ bạo liệt, ném hết tất cả tâm can ra xã hội, nên thơ cuộn lên có bài hay, có bài tầm thường, nhưng dù sao cũng đã tạo ra một ý thức quyết liệt hết mình với thơ, dám trình bày một "cái tôi không xấu hổ". Nguyễn Hữu Hồng Minh nôn nóng đi tìm tư tưởng mới trong những trạng thái sống bất thường, đang mất nhiều hơn được; nhưng đừng ngại khi mất mười mà chỉ được một... LMY: Những bài phê bình thơ trẻ của ông hầu như lúc nào cũng gặp lời "cự nự" từ một số nhà phê bình khác như Nguyễn Thanh Sơn, Lê Quý Kỳ, Nguyễn Hoà... Ông có bực mình không? NTT: Tôi chẳng bực mình gì cả, bởi vì tôi đọc kỹ họ mới thấy họ không hiểu mấy về thơ. Họ rất thiếu rung động thơ nên không cảm nhận được cái tinh tế thơ, nhưng lại thích dạy dỗ về thơ. Đành chia sẻ với họ về tinh thần can đảm. LMY: Thưa ông, cứ tranh cãi mãi với nhau như vậy trên báo ông không sợ sẽ ảnh hưởng đến tên tuổi của mình? NTT: Chả sao cả, vì đấy mới là Nguyễn Trọng Tạo. Tôi không thích làm ra vẻ cao đạo, và thường gọi những người thích cao đạo là nhà nho dởm. Tôi không phải nhà nho dởm, cũng không phải nhà nho, nên tôi phải bàn trong sự hiểu biết của mình. Điều ấy đôi khi lại khiến nhiều người thích thú và ủng hộ. Một lần Hoàng Hưng kể với tôi rằng, Nguyễn Thanh Sơn hỏi anh: "Chú thấy cháu viết như thế nào?", và anh đã trả lời Sơn: "Cháu viết rất hay, chỉ có điều quan trọng là cháu viết về thơ mà không hiểu thơ là gì!". Sự thật có mất lòng không? LMY: Ông có thể nói thật ý nghĩ về phê bình? NTT: Phê bình không được dối lòng mình. Thấy hay, thấy dở có thể viết hoặc không viết, nhưng khi đã viết là phải có chính kiến. Khi tôi viết cuốn "Văn chương cảm và luận", là tôi chỉ viết cái tôi thích viết, thấy hay thì khen thấy dở thì chê, chẳng vị tên tuổi của ai. Nếu cứ đua nhau chạy theo những tên tuổi có sẵn, dễ đẻ ra một nền phê bình ăn theo tên tuổi. Phê bình phải phát hiện những tên tuổi mới, là tìm vàng trong cát, làm sáng giá cái hay đang bị khuất lấp. Nhà thơ Viên Mai đời Thanh nhờ tỉ mẩn lý giải cái hay cái dở trong thơ thiên hạ mà trở thành nhà phê bình thơ kỳ tài. Thơ ta bây giờ chất thành núi mà các nhà phê bình thơ thì vẫn vô cảm với thơ, hoặc thiên về mạt sát thơ. Khi tôi phản ứng về những "thói hư" ấy, là vì tôi quá yêu cái hay cái đẹp của văn chương. Nhiều người cứ quen nghĩ là thợ rừng thì phải bổ búa vào cây, có ai nghĩ phải chăm những cây non thì mới có rừng? LMY: Những nhận xét, phê bình về thơ của ông có thể là một cứ liệu xác đáng để mọi người, dư luận xã hội căn cứ vào đó nhận định thơ trẻ không? NTT: Đấy là chuyện không thể áp đặt. Nhưng nhìn chung, dân trí thơ chưa ngang tầm với những nhà thơ cách tân tài năng. Muốn bước đi của thơ tiến tới thì phải đồng thời nâng cao dân trí thơ. Những cuộc thuyết trình cho Thơ Mới trước đây như là sự dọn đường cho cách tân thơ rất thành công. Và như vậy, trong bầu trời đầy sao là công chúng, những tài năng chính là những ngôi sao rực sáng xác định cho bầu trời, như là sao Bắc Đẩu dẫn đường. Một bầu trời mà không ai biết đến những ngôi sao sáng, đó là bầu trời mù. LMY: Vậy ông có sợ dư luận trong bầu trời những ngôi sao nhỏ quanh mình không? NTT: Tôi không phải là người không biết sợ. Nhưng tại sao tôi lại phải sợ nhỉ? LMY: Mọi người đều biết có khá nhiều dư luận về ông, kể cả tốt lẫn xấu. Ông nghĩ thế nào? NTT: Dư luận tức là luận thêm ra, phải không? Việc riêng của mình chỉ mình biết là đủ. Người ta chẳng ai biết hết về ai cả. Đời tư tôi rất phức tạp. Vợ không biết. Con không biết. Mà người ta biết hết về mình có phải là điều hay không nhỉ?. Một cây đa có ma, mọi người bảo thế nhưng bọn trẻ con vẫn đến ngồi chơi, người nông dân đi làm đồng vẫn dừng nghỉ chân mà chẳng ai thấy ma đâu cả. Muốn biết cuộc đời tôi, tốt nhất là hãy đọc tôi. LMY: Ông có cho mình là người nổi tiếng? NTT: Tất nhiên. Chỉ có nổi ít hay nổi nhiều thôi. Nếu không, sao thiên hạ lại mất thì giờ để đàm tiếu về tôi? LMY: Theo ông, điều gì hay nhất mà thế hệ của ông đã làm được? Và điều gì là dở nhất? NTT: Điều hay nhất thế hệ nhà thơ chúng tôi làm được là đánh giặc và làm thơ. Điều dở nhất là rất kém ngoại ngữ. LMY: Trong "Bài thơ khác", hình như ông có dấu một bí mật bất ngờ? NTT: Bài thơ này là một câu chuyện có thật. Sự thật nó xảy ra bất ngờ mà tôi không biết trước. Tôi nghĩ, nếu một ai còn biết bất ngờ thì còn biết làm thơ, nếu không, sẽ chỉ như một cái cây đã khô. LMY: Chân dung của ông do chính ông phác thảo cũng sẽ bất ngờ đến mức "tin thì tin không tin thì thôi" chứ, thưa ông? NTT: Tin thì tin không tin thì thôi. Tôi núp dưới cái bóng râm của tên tôi! LMY: Xin cảm ơn nhà thơ! Hà Nội, 18.3.2003 Lê Mỹ Ý Bài đã đăng trên vannghesongcuulong.org chia cho em một đời say một cây si/ với/ một cây bồ đề tôi còn đâu nữa đam mê trời chang chang nắng tôi về héo khô ☆ ☆ ☆ ☆ ☆ Chưa có đánh giá nào Chia sẻ trên Facebook Thơ trữ tình Nguyễn Trọng Tạo Đăng bởi Nguyễn Trọng Tạo vào 24/02/2007 05:46 “Ôi, có những câu hát ta biết bao giờ hát lại. Những tấm ảnh thời thanh xuân của em chẳng là những câu hát như vậy đó sao?”. Đó là những câu thơ của Nguyễn Trọng Tạo trong bài Những tấm ảnh thời thanh xuân mà mỗi lần đọc, tôi thấy như được trở lại thời thanh xuân của chính mình, và trở lại thời thanh xuân của một ai đấy nữa! Thanh xuân của tình yêu đầu đời! 54 bài thơ trong tập thơ nhỏ xinh và mỏng mảnh này là 54 trạng huống tình yêu, say đắm và buồn, buồn như một ngày xuân không còn hoa cúc, buồn như cây khóc lá, buồn như một đêm tỉnh giấc, ta chợt thấy nỗi buồn đang ngồi bên: Là khi tỉnh giấc trong đêm/ một mình ta thấy ngồi bên nỗibuồn… và một van nài lạ lùng, hi hữu: Buồn ơi, Buồn có thương tôi. Đừng làm tôi phải mồ côi Nỗi Buồn. (Xon nê Buồn) Cách nói, cách cảm và cách thơ ấy chỉ riêng Nguyễn Trọng Tạo mới có. Ngoa ngôn chăng, thậm xưng chăng, phách lối chăng? Ai nghĩ gì thì nghĩ, nhưng Tạo không thể sống nổi nếu không có một Nỗi Buồn cặp kè bên cạnh: Buồn đừng đi, Buồn đừng tan/ mất Buồn còn lại tro tàn mà thôi! Trong con mắt nhà phê bình Trần Mạnh Hảo thì thế nào Nguyễn Trọng Tạo cũng sẽ biến thành một nhà “Buồn học”, nhưng nếu thay nỗi buồn kia thành niềm vui chẳng hạn, thì cơ sự sẽ ra sao? Chẳng lẽ lại phải đọc là: Vui đừng đi, vui đừng tan/ mất vui còn lại tro tàn mà thôi! Vô duyên biết mấy, nông nổi và hạn hẹp vô cùng! Hình như, với Nguyễn Trọng Tạo, tình yêu là cặp song sinh với Nỗi Buồn. Cả tập thơ với 54 bài này, tôi không bắt gặp Tạo cười hơ hớ lần nào, chỉ thấy anh đã buồn và sẽ lại buồn hơn, ngay cả trong một ngày vui là ngày có Quà sinh nhật: hai mươi bài hát vui hát tặng một nỗi buồn hai mươi bài hát buồn hát tặng nỗi buồn hơn… Ngay cả một ngày vui là trong tiệc cưới của Em: Nếu ngày mai khi tiệc cưới của em/ bạn bè đến nói cười và chúc tụng/ xin em hãy coi tôi như bè bạn/ và xin đừng dù khẽ gọi tên tôi… giọng điệu bài thơ này phảng phất chất giọng Nguyên Sa một thời xa lắm, nhưng nó hiện đại hơn vì không sướt mướt và quá bi luỵ, nó ở một chiều kích khác của tâm thức, tôi còn đi. Mưa gió. Đường dài trái tim phải lội qua bao thác lũ dẫu gió lạnh thổi mãi con chim nhỏ em đừng buồn - trời rộng phía yêu thương… (Nếu ngày mai). Nỗi buồn trong tình yêu của Nguyễn Trọng Tạo đã được nâng lên thành một triết lý hoặc là một định đề - bất di bất dịch. Nhiều khi nỗi buồn của anh lại khiến cho người đọc phải bật cười, cười trong cay đắng và như thế còn hơn cả nỗi đau thương. hoa đã tặng. Người đã không còn nữa. em đã yêu. Em đã bỏ tôi đi sẽ dở hơi nếu là tôi đứng khóc nhưng cười vui thì tôi sẽ còn gì? Nói tập thơ trữ tình của Nguyễn Trọng Tạo là thơ tình yêu thì đúng rồi, nhưng hình như chưa đủ, chưa thoả đáng, chưa thấu suốt cái nội hàm của nó. Thơ tình của Tạo chứa cả một trời thế sự, một biển tâm linh, thăm thẳm linh hồn người. Không có tình yêu con người, tình sự sống, tình yêu hoa cỏ, gái trai, sẽ không viết được những câu thơ đau xót như thế này, và cũng hài hước như thế này: Anh làm vua không ngai, em vẫn là hoàng hậu/ chàng hoàng tử khóc nhè, nàng công chúa hờn dai/ chợt thương quan không dân/ chợt thương ngai không chủ/ thương những đời người chung thân/ trong áo mão cân đai… (Cổ tích thơ tình). Và rồi đây nữa: Chặt cây mà bắc cầu sang Không em, anh sống lang thang hai lần Ước chi em giận một tuần Em xa vài tháng, em gần… cả năm. (An ủi) Phẩm chất cốt lõi trong thơ tình Nguyễn Trọng Tạo trở thành bức thôngđiệp gửi tới người đọc là tình yêu, yêu đến hết mình, đến tan xác, đến rỗng không, đến không còn hồn vía: Chia cho em một đời tôi một cay đắng một niềm vui một buồn tôi còn cái xác không hồn cái chai không rượu tôi còn vỏ chai. (Chia) Người biết yêu đến tận cùng thì cũng biết hiến dâng đến tận đáy. Nhiều khi nhà thơ tự ví mình như bông hoa ly vàng, nhỏ tí xíu, khuất lấp trong muôn ngàn loài hoa rực rỡ, khiêm nhường và cao thượng: Dẫu nhỏ nhoi tôi có một cái tên/ khi ngập nước và khi thì ngập nắng/ hoa li vàng mùa hạ chính là tôi… và một niềm run rẩy rất đỗi dịu dàng, mong manh và thuỷ chung biết bao: Biển đầy vơi thương nhớ, biển xanh ơi Thân thể ai hồng hào pha ngọn sóng Da thịt người chạm vào tôi nóng bỏng Rồi có thể người quên Còn tôi mãi giữ gìn… (Hoa li vàng) Càng đi sâu vào mê cung thơ tình Nguyễn Trọng Tạo, người đọc càng khám phá thêm những miền tâm trạng mới, đặng làm phong phú thêm, chất lượng tâm hồn người. Cái mà nhà thơ tưởng mất lại là phù sa bồi đắp cho tâm tưởng ta thêm phì nhiêu, và đó chính là cái mà ta được: tôi về khép lại căn phòng thấy trong lồng ngực như không có gì trái tim đã bỏ tôi đi ai mà nhặt được gửi về giùm tôi. (Gửi) Ở đây chỉ là cách nói, cách diễn đạt bằng thơ những điều khó nói. Tuy nhiên một nhà thơ thực sự tài năng không nhờ vào cách nói, phải có một nội lực cường tráng để có gì mà nói! Với nhà thơ “trữ lượng tâm hồn” là điều cần thiết hơn cả, cái mỏ ấy hệt như một mỏ dầu, càng khai thác, càng phát sáng. Và tôi không nghi ngờ Tạo là một mỏ dầu có trữ lượng cao, anh đã từng làm cháy, thậm chí thiêu đốt bao tâm hồn yêu và đang yêu: cho thơ tôi được nói lời tình-yêu-tôi, gửi tới người-tôi-yêu. bởi tôi tin những sớm chiều người không quen… sống rất nhiều cho tôi. (Thơ gửi người không quen) Đọc Thơ trữ tình của Nguyễn Trọng Tạo, bạn đọc sẽ không muốn ngồi trong nhà nhìn ra mưa nữa, mà bạn sẽ… nhảy ra đường. Ra đường để làm gì thì chưa biết, nhưng cứ phải ra đường, để có thể đắng cay nhặt lại được một “nỗi buồn” nào đó, đau xót và quyết liệt vô cùng: một ngày người bán rẻ ta ta thành đồ vật giữa nhà người dưng một ngày người đến rưng rưng mua gì vô giá? xin đừng mua ta (Nỗi buồn kiêu) Yêu và buồn là cặp trẻ song sinh, Nguyễn Trọng Tạo đã minh chứng cho điều ấy. Ai từng quen biết Nguyễn Trọng Tạo, chỉ ngồi với anh một buổi chiều thôi, uống rượu và nghe anh hát Làng quan họ quê tôi hay Khúc hát sông quê… sẽ cảm nhận rằng, Tạo là người vô tư lắm, hồn nhiên và sung mãn lắm! Không, không phải vậy đâu, Nguyễn Trọng Tạo vốn là người cả nghĩ, đến nỗi: Người đẹp nhìn tôi trên đường/ về đêm tôi cảm thấy buồn…, đến nỗi nhìn ai cũng ngỡ là mình thuở ấy, thuở xa xôi nào: có ai ngồi xuống chỗ chúng mình kia chàng trai ấy cùng với cô gái ấy cô gái đẹp sao giống em đến vậy và chàng trai run rẩy giống anh sao cỏ biếc xanh như cỏ đêm nào… (Cỏ xanh đêm trước) Trong tập thơ này của Nguyễn Trọng Tạo, tôi đặc biệt yêu thích bài Thơ tình người đứng tuổi. Có cảm giác rằng anh viết cho tôi, và viết riêng cho một người nào đấy nữa, một người nào trong vô vàn chúng ta: bây giờ cao bổng vòm cây dòng sông trôi đã vơi đầy tháng năm áo tôi đạn xé bao lần tóc người hao mấy mùa xuân đợi chờ (Thơ tình người đứng tuổi) Con người ngỡ là từng trải, từng trải qua chiến trường, qua cả “tình trường” mà không hề chai sạn, cứ run rẩy như thuở mới vào đời, như một khúc mộng mơ, như một kẻ mắc nợ. Nợ cái gì thì chưa biết, nhưng Tạo là con nợ của trăm năm: tôi còn mắc nợ áo dài một làn gió trắng một bài thơ hay tôi còn mắc nợ mi mày một con thuyền lá xanh đầy mắt nai (Tôi còn mắc nợ áo dài) Trắng nợ như thế thì sẽ còn nợ tiếp, nợ chung thân, nợ tử hình! Tử hình rồi còn chưa hết nợ: “Có lúc ngôn từ biệt tích/ đam mê trơ đá gan lỳ/ em mèo ơi đừng đến nữa/ sợ em dựng dậy tử thi!… (Chiêm cảm). Và đến nông nỗi ấy thì phải giấu biệt mình đi, lặn một hơi để không ai tìm thấy nữa: có một chàng đơn độc bước trên đường Không Tên có một nàng Hạnh Phúc ở số nhà Lãng Quên… (Nỗi nhớ không tên) Nguyễn Trọng Tạo đã tự mình làm ra một đường phố, một số nhà cho riêng mình, đấy là số nhà Lãng Quên trên đường Không Tên vậy! Có tin được không? “Tin thì tin không tin thì thôi”. Và tôi gọi tập thơ trữ tình của Nguyễn Trọng Tạo là Bức tranh tình không năm tháng!… Hà Nội, tháng 4 năm 2004 Trịnh Thanh Sơn Thơ trữ tình: NXB Hội Nhà văn - Trung tâm văn hoá ngôn ngữ Đông Tây, ấn hành, 2004 Nguồn: Báo Văn nghệ, 2000 chia cho em một đời say một cây si/ với/ một cây bồ đề tôi còn đâu nữa đam mê trời chang chang nắng tôi về héo khô ☆ ☆ ☆ ☆ ☆ Chưa có đánh giá nào Chia sẻ trên Facebook Nguyễn Trọng Tạo: chớp mắt với ngàn năm Đăng bởi Nguyễn Trọng Tạo vào 24/02/2007 05:56 Đã sửa 1 lần, lần cuối bởi Nguyễn Trọng Tạo vào 09/07/2011 16:50 Một ngày kia, cát bụi vùng Hoan Diễn đã sinh tạo một “kẻ ham chơi”. Y cứ lãng đãng trong đời như một khách giang hồ mang trái tim nhạy cảm, một trái tim đầy nhạc với những đốm lửa buồn. Để rồi sau những cuộc say tràn cung mây, khi dòng cảm hứng chợt bùng lên từ những vùng u ẩn nằm sâu trong cõi nhớ, những giai âm ùa về như những luồng điện làm vỡ oà bí mật: có thương có nhớ có khóc có cười/ có cái chớp mắt đã ngàn năm trôi. Đây là những câu thơ khép lại một trong những bài thơ hay nhất của Nguyễn Trọng Tạo: Đồng dao cho người lớn (1). Cách nói Đồng dao cho thấy được ý hướng sáng tạo của Nguyễn Trọng Tạo. Thơ anh là những khúc hát ngân lên từ cõi nhớ của một kẻ nhà quê lưu lạc. Lưu lạc mà vẫn nhớ mình là nhà quê, là phương Đông chính hiệu. Vì thế, nếu có đọc thơ Tây cũng là một cách mở rộng, tham bác để cho cái chất nhà quê vừa gắn với cổ điển, vừa đáp ứng được nhu cầu hiện đại. Hai câu thơ trên đây khép lại bài thơ mà cũng là để mở ra về phía “ngàn năm” từ cái “chớp mắt” khóc cười nghệ sĩ. Những câu thơ đẫm niềm riêng nhưng cũng là những trải nghiệm khóc cười nhân thế. Nó như bật ra từ tuệ nhãn, vừa mới mẻ vừa mang theo cái uyên súc Đường thi. Đó là một kiểu chiêm nghiệm, một cách nói khác của Bùi Giáng: Bây giờ riêng đối diện tôi/ Còn hai con mắt khóc người một con. Nói thế để thấy rằng Nguyễn Trọng Tạo đã biết lắng lại và tự giác ngộ mình trước cõi tham-sân-si trần tục. Mối tương quan giữa chớp mắt và ngàn năm đẩy cảm xúc lên tầm mỹ học về nhân sinh qua cái nhìn của một người biết mình cũng đầy ưu, nhược như ai. Nhưng người thơ ấy biết tự dặn mình coi thơ như một tôn giáo, đứng trước thơ phải thanh khiết và để lại sau lưng những phiền luỵ không đâu. Là một thi sĩ có ý thức đổi mới, Nguyễn Trọng Tạo thấu hiểu một cách sâu sắc, rằng, sự sống còn của người viết là phải nương thân vào chữ nghĩa. Nơi ấy, hồn nằm trong xác và xác ngụ trong hồn. Không còn cách nào khác, tư cách của nhà thơ chỉ có thể đo ướm bằng sự toả sáng của chữ. Tại đó, anh ta trình với mọi người cái vân tay vân chữ của mình trên tờ căn cước bằng giấy trắng mực đen. Hay, dở đã thuộc về kẻ khác. Mọi phân trần hay biện hộ của nhà thơ đều trở thành vô nghĩa. Thuộc típ người tài hoa đa mang lắm mối, nhưng trước sau, hồn vía Nguyễn Trọng tạo vẫn sống chết với thơ. Tại đây, anh dựng lên xác tín nghệ thuật của mình: “Thi ca là ngôn từ rung lên bằng âm nhạc”(2). Cấu trúc thơ Nguyễn Trọng Tạo hàm chứa rất nhiều âm nhạc là vì thế. Nhạc cất lên từ nhịp: Chia cho em/ một đời tôi/ một cay đắng/ một niềm vui/ một buồn (Chia). Nhạc cất lên từ vần: tình trao mắt cho thơ/ trời xanh mi ướt bờ/ tình trao nắng cho mưa/ chìm vào nhau bất ngờ (Rượu chát), từ sự bung phá một cách phóng túng để diễn tả chính sắc màu của nhịp điệu: ôi nhịp điệu- thân xác không mang nổi/ ta thoát khỏi ta/ như đứa trẻ thoát áo quần quá chật (Nhịp điệu Tây Nguyên)…Nhưng thủ pháp thường gặp nhất trong thơ Nguyễn Trọng Tạo là cách tổ chức điệp khúc. Điệp trong bài, điệp bằng lối hai câu song song, nương tựa nhau… Những thủ pháp ấy bắt nguồn từ niềm đam mê nhịp chẵn theo quan niệm của Nguyễn Trọng Tạo (khác với nhịp lẻ của thơ Trung Hoa). Nhưng đó không phải là kiểu hài thanh cân đối cổ điển mà trên sự cân đối ấy nhằm tạo nỗi chơi vơi trong tình điệu thẩm mỹ của anh. Với Nguyễn Trọng Tạo, hình thức điệp cú và điệp cấu trúc có khả năng đạt các hiệu quả nghệ thuật: 1- sự chặt chẽ trong cấu tứ và sự trùng phức về giai điệu; 2- sự nhoè mờ của các “vân chữ”; 3- trên cơ sở đó tạo nên những bất ngờ và bung phá. Dĩ nhiên, thủ pháp này cũng tiềm ẩn một nguy cơ: khi cảm xúc vơi hụt, tỉnh nhiều mà say ít, thơ sẽ rơi vào tình trạng ít ý nhiều lời. Hiện tượng này cũng từng xảy ra với chính Nguyễn Trọng Tạo. Nhưng nhìn chung, Nguyễn Trọng Tạo đã kết hợp được hài hoà giữa ý tình và âm nhạc. Xin đừng hiểu rằng một khi thơ giàu nhạc thì ý tưởng bị khuất chìm. Chính các nhà tượng trưng đã từng nêu lên một tuyên ngôn bất hủ: “Âm nhạc đi trước mọi điều”. Những câu thơ sau đây của Paul Verlaine sẽ mất đi rất nhiều dư vị nếu ta tước bỏ nhạc thơ: Đang khóc trong lòng tôi/ Như đang mưa trên phố/ Buồn chán gì vô cớ/ Đang len vào lòng tôi (3). Ở nước ta, thơ hàn Mặc Tử, Hoàng Cầm, Vũ Hoàng Chương…đều là những thế giới đầy âm nhạc. Điều quan trọng là nhạc thơ phải diễn tả được nhạc lòng, là một thành tố trong nghệ thuật tổ chức cấu trúc giọng điệu. Âm nhạc chính là một thủ pháp khiến người đọc dễ say với cái say thi sĩ vốn là một phần bản thể Nguyễn Trọng Tạo. Là người ít nhiều tìm hiểu giọng điệu thi ca, tôi nghĩ, ngoài âm và nghĩa dồi dào, thơ phải có giọng. Không có giọng, anh ta lập tức bị biến khỏi bản đồ thơ. Với cách hiểu như thế, tôi nghĩ, Nguyễn Trọng tạo là người có giọng điệu riêng. Nhưng cái nốt riêng ấy không tự dưng mà có. Thực lòng, tôi không tìm thấy nó ở thời “Gương mặt tôi yêu” mà phải đến những ngày khúc “Đồng dao cho người lớn” ra đời, tôi mới thấy rõ đó là cách nói của Nguyễn Trọng Tạo. Những câu thơ của anh mang chất giọng tưng tửng, ngu ngơ ngỡ như chơi vơi nhưng kỳ thực chứa rất nhiều ngẫm ngợi, trí tuệ. Một chất giọng mà khi đọc kỹ ta mới thấy hết cái da diết bên trong. Học lấy cái nhoè mờ trong thi pháp phương Đông, Nguyễn Trọng Tạo đã biết tựa vào âm nhạc để trình bày các ý tưởng của mình. Đây chính là yếu tố tạo nên chất phiêu lãng trong giọng điệu thơ anh. Phía sau những âm giai phiêu lãng ấy là chiều sâu của cảm hứng về nhân thế, là những lăn lóc thân phận. Chiều sâu mỹ cảm thi ca Nguyễn Trọng Tạo trước hết bắt nguồn từ yếu tố cơ bản này. Là kẻ lang bang lữ thứ, tất nhiên, Nguyễn Trọng Tạo thường nói đến say: Sông Hương hoá rượu ta đến uống/ ta tỉnh đền đài ngả nghiêng say (Huế 1); chín can…rượu chẳng còn đâu/ còn em hoá rượu. Cúi đầu anh say…( Rượu cần). Đó cũng là một hình thức nhà thơ phiêu diêu về tâm tưởng, một cách lang thang trong cõi nhớ của mình. Từ làng quê xứ Nghệ đến với Huế, văn hoá Nguyễn Trọng Tạo được bồi đắp thêm một lần nữa. Có thể nói, Huế đã góp phần không nhỏ trong việc tạo nên hồn cốt thơ Nguyễn Trọng Tạo. Phải chăng, anh đã học được ở đây cái uyên sâu của đời sống tâm linh trầm mặc? Với cách xây tứ khá độc đáo, tôi nghĩ, Huế 1 thuộc số những bài thơ ấn tượng nhất về Huế trong thơ ca sau 1975. Những cơn say của Nguyễn Trọng Tạo cho phép anh nhìn sâu vào bản thể hồn mình, hiểu hơn về những bước chân lưu lạc của mình. Bởi thế, say còn là một hình thức tự vắt kiệt, tự đốt cháy: Tôi còn cái xác không hồn/ cái chai không rượu tôi còn vỏ chai (Chia). Sống thế là đến đáy. Là dám chấp nhận. Hoá ra, ở những giây phút thăng hoa nhất, men thơ men tửu men đời đã hoà lẫn trong nhau. Nguyễn Bính xưa cũng như thế: Tôi uống hồn em và uống cả/ Một trời quan tái mấy cho say. Tôi nhớ, trong căn hộ chung cư tầng sáu mà Nguyễn Trọng Tạo đang nương thân ngoài đời, có một tấm ảnh rất ấn tượng anh chụp với tiên chỉ Văn Cao qua bàn tay của nhiếp ảnh gia Nguyễn Đình Toán. Chai rượu choán lấy mặt tiền của ảnh và hai kẻ tài hoa, một anh một em nâng ly mừng thơ nhạc và chia sẻ muộn phiền. Nhưng vấn đề là sau những cơn say và những ngày tháng phiêu du ấy, Nguyễn Trọng Tạo còn lại gì? Còn lại một nỗi cô đơn. Theo ý tôi, cô đơn là phần sâu nhất trong bản ngã Nguyễn Trọng Tạo. Cái mầm cô đơn ấy có đủ vị, có cả niềm cay đắng xen lẫn nỗi ngọt ngào Trái tim đã bỏ tôi đi/ ai mà nhặt được gửi về giùm tôi. Một đời đuổi bắt cái đẹp hoá ra cũng là để tìm chính mình, tìm lại một nửa cái tôi đang nằm đâu đó trong đời. Tiếng gọi của tâm linh đấy chăng? Hay đó là những thầm thì của nỗi đê mê, đắm đuối tạo thành sự phân thân không định trước. Ai nghĩ gì, kệ họ. Riêng mình, nguyễn Trọng Tạo thật lòng: Tin thì tin không tin thì thôi . Những câu thơ tưng tửng, ngu ngơ và da diết này cũng là một kiểu tuyên ngôn, một cách gây sự với đám đông của Nguyễn Trọng Tạo. Nó như một chuỗi “phản đề” trước khi nhà thơ nêu lên “chính đề” là gan ruột của người viết: Nhưng tôi người cầm bút, than ôi Không thể không tin gì mà viết. Nhìn từ chiều lịch đại, Nguyễn Trọng Tạo thuộc thế hệ các nhà thơ chống Mỹ. Thơ anh cũng từng một thời phơi phới tin yêu, một thời tha thiết thật lòng “mỗi chiếc lá đều ghi lời tự nguyện”. Sự trong trẻo ấy thật đáng quý nhưng rõ ràng có phần đơn giản. Trong khi những cây bút như Phạm Tiến Duật, Hữu Thỉnh, Thanh Thảo, Nguyễn Duy, Nguyễn Khoa Điềm, Trần Mạnh Hảo… đã được nhiều người nhớ thì Nguyễn Trọng Tạo vẫn mải miết kiếm tìm. Phần hay nhất của thơ Nguyễn Trọng Tạo nằm ở thời hậu chiến. Đây là giai đoạn Nguyễn Trọng Tạo chủ trương một thứ thơ đời thường. Hướng về đời thường, thơ gần hơn với con người, những vui buồn nhân thế cũng được đề cập đến sâu sắc hơn. Theo ý tôi, mặc dù thập kỷ 80 của thế kỷ XX có sự nỗ lực đổi mới của nhiều nhà thơ, nhưng cần ghi dấu ba giọng điệu đáng chú ý: Ý Nhi, Nguyễn Trọng Tạo, Dư Thị Hoàn. Những bài thơ của họ thể hiện rất rõ sự “vỡ giọng” và sự thay đổi về tư duy nghệ thuật. Đó là quá trình tự nhận thức lại chính mình và người khác. Những thần tượng một thời giờ đây đã hết uy lực: Khi đang đắm yêu có tin được bao giờ/ Rồi một ngày người yêu ta đổi dạ/ Rồi một ngày thần tượng ta tan vỡ/ bạn bè thân thọc súng ở bên sườn (Tản mạn thời tôi sống). Đây là những câu thơ hàm chứa rất nhiều cay đắng ở bên trong vì nó nói về sự đổ vỡ. Mà có sự đổ vỡ nào lớn hơn là sự đổ vỡ về tình yêu và thần tượng! Sau 1975, thơ ca Việt Nam từ quỹ đạo của cái ta trở về với cái tôi cá nhân. Nhưng đó không phải là cái tôi tách rời hoàn cảnh như thơ ca lãng mạn. Đó là c

Nguyễn Trọng Tạo sinh ngày 25-8-1947 tại Diễn Châu, Nghệ An, đi lính năm 1969, học Đại học viết văn Nguyễn Du khoá 1, làm thơ từ năm 14 tuổi. Ông là nhà thơ, nhà văn, kiêm nhạc sĩ, hoạ sĩ.

Ông là Uỷ viên Hội đồng thơ của Hội nhà văn Việt Nam, Trưởng ban biên tập báo Thơ (2003–2004). Ông từng được các giải thưởng thơ của Nghệ An năm 1969, và giải thơ của các báo Văn nghệ, Văn nghệ quân đội, Nhân dân (1978), hai lần được Giải thưởng Văn học nghệ thuật cố đô (Huế), Giải thưởng Văn học nghệ thuật Hồ Xuân Hương, Giải thưởng Uỷ ban toàn quốc các hội văn học nghệ thuật Việt Nam về thơ và văn xuôi. Thơ và truyện ngắn của ông dịch ra tiếng Pháp, Anh, Nga, Tây Ban Nha...

Ngoài thơ, ông còn là nhạc sĩ, hiện công tác tại tạp chí Âm nhạc và Thời đại của Hội nhạc sĩ Việt Nam, đã có 8 giải thưởng âm nhạc.

Các album đã phát hành:
- Tình khúc bốn mùa (NXB Âm nhạc và Hội Nhạc sĩ Việt Nam, 1996)

Các bài hát nổi tiếng:
- Làng quan họ quê tôi (lời thơ của Nguyễn Phan Hách)
- Đôi mắt đò ngang
- Khúc hát sông quê (lời thơ của Lê Huy Mậu)

Ông đã vẽ khoảng 500 bìa sách, trong đó có:
- Chuyện kể năm 2000 (Bùi Ngọc Tấn)
- Vẽ nhiều minh hoạ trên báo, tạp chí, và trình bày mỹ thuật tạp chí Cửa Việt bộ đầu tiên (1990-1992), báo Thơ, mẫu măng-sét tạp chí Sông Hương, Hồng Lĩnh, Sông Lam, v.v...

Các tác phẩm chính:
- Thơ: Gửi người không quen, Sóng thuỷ tinh, Đồng dao cho người lớn, Thư trên máy chữ, Tản mạn thời tôi sống, Nương thân, Thơ trữ tình, Thế giới không còn trăng,...
- Trường ca: Con đường của những vì sao, Tình ca người lính.
- Văn xuôi: Miền quê thơ ấu, Ca sĩ mùa hè, Chuyện ít biết về văn nghệ sĩ, Văn thơ nhạc tuổi thơ,...
- Tiểu luận phê bình: Văn chương cảm và luận
Nguyễn Trọng Tạo sinh ngày 25-8-1947 tại Diễn Châu, Nghệ An, đi lính năm 1969, học Đại học viết văn Nguyễn Du khoá 1, làm thơ từ năm 14 tuổi. Ông là nhà thơ, nhà văn, kiêm nhạc sĩ, hoạ sĩ.

Ông là Uỷ viên Hội đồng thơ của Hội nhà văn Việt Nam, Trưởng ban biên tập báo Thơ (2003–2004). Ông từng được các giải thưởng thơ của Nghệ An năm 1969, và giải thơ của các báo Văn nghệ, Văn nghệ quân đội, Nhân dân (1978), hai lần được Giải thưởng Văn học nghệ thuật cố đô (Huế), Giải thưởng Văn học nghệ thuật Hồ Xuân Hương, Giải thưởng Uỷ ban toàn quốc các hội văn học nghệ thuật Việt Nam về thơ và văn xuôi. Thơ và truyện ngắn của ông dịch ra tiếng Pháp, Anh, Nga, Tây Ban Nha...

Ngoài thơ, ông còn là nhạc sĩ, hiện công tác tại tạp chí Âm nhạc và Thời đại của Hội nhạc sĩ Việ…

Sóng thuỷ tinh

Thơ cho thiếu nhi

Tình yêu sáng sớm (1973)

Đồng dao cho người lớn (1994)

Nương thân (1999)

101 bài thơ tình (2005)

Thế giới không còn trăng (2006)

Con đường của những vì sao (2008) - (Trường ca Đồng Lộc)

Em đàn bà (2008)

Biển mặn (2015)

 

Trang 123 trong tổng số 3 trang (30 bình luận)
[1] [2] [3] ›Trang sau »Trang cuối

Ảnh đại diện

Nguyễn Trọng Tạo - tuổi con hợi cầm tinh

Mùa đông 1978 buốt lạnh và triền mien những bữa cơm ăn hạt bo bo. Những tranh chấp biên giới Tây – Nam đã đến độ căng thẳng. Những người lính tình nguyện Việt Nam lại một lần nữa dấn thân sang đất bạn Camphuchia để nhằm xoá sạch “nạn diệt chủng Pôn Pốt”. Những giai điệu ngợi ca họ lại vang lên nóng bỏng. Lúc ấy tôi đang chuẩn bị viết một chùm ca khúc để trả bài cho lớp sang tác thì bỗng thấy bài thơ Hát ru em bé Campuchia của Nguyễn Trọng Tạo trên báo Văn Nghệ. Bài thơ đầy nhạc tính. Thế là tôi dựa vào một nét dân ca Campuchia, phổ nhạc bài thơ này. Ca khúc Hát ru em bé Cămpuchia hoàn thành, được thầy Vũ Trọng Hối khen, rồi được thu thanh mở đầu cho băng ca nhạc “Campuchia chiến đấu và hy vọng”. Lúc ấy tôi chưa hề gặp Nguyễn Trọng Tạo mà chỉ biết hắn cũng làm thơ làm nhạc như mình. Vào một sang mùa đông năm đó, Nguyễn Đình Chính đưa tôi đến Trại sang tác Quân đội ở làng Khương Hạ. Ở đấy, tôi đã gặp Nguyễn Trọng Tạo và Nguyễn Hoa. Không cần rào trước đón sau, đọc thơ và hát cho nhau nghe trong men nồng “quốc lủi”. Và từ ngày ấy, chúng tôi thành “Ba anh em họ Nguyễn” như nghĩa cử Lương Sơn Bạc cho đến tận hôm nay.

Nguyễn Trọng Tạo quê Diễn Châu, Nghệ An. Đấy là vùng đất Châu Diễn tận cùng xứ Âu Lạc xưa, nơi có đền Công thờ Thục An Dương Vương với huyền thoại vua cha chém Ái nữ Mỵ Châu rồi tuẫn tiết trên đèo Mụ Dạ, nơi có Lèn Hai Vai như vị tướng bị chặt đầu và sông Bùng như dòng nước mắt của bà tướng khóc chồng tuôn trào ra biển. Nguyễn Trọng Tạo sinh ra ở đấy vào ngày 25-8-1947, trùng với ngày sinh và ẩn tuổi Hợi của Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Không biết có phải do trời tạo, đất sinh mà từ căn nhà quê kiểng ấy đã hun đúc nên một chàng nghệ sĩ đa tài “cầm-kỳ-thi-hoạ” cho thời hiện đại này. Đa tài sau Văn Cao và Nguyễn Đình Thi. Tôi có ý nghĩ như vậy, bởi khi tôi gặp Tạo, hắn đã có thơ in thành tập, đã đoạt liền ba giải thưởng thơ hay trong năm của ba tờ báo lớn, đã từng vẽ tranh bán ở chợ Vinh thuở thiếu thời, và vừa viết xong bài hát “Làng Quan Họ quê tôi” phỏng lời thơ của Nguyễn Phan Hách. Bài hát đã được Thanh Hoa cùng tốp nữ Đài Tiếng Nói Việt Nam thu thanh, để rồi nổi tiếng mãi đến bây giờ và chắc còn vang mãi mai sau. Nghe nói hồi nhỏ Tạo đã tự làm một chiếc đàn violon khá đẹp và đã diễn tấu cho toàn trường cấp 3 Diễn châu nghe, nhưng từ khi gặp Tạo, tôi chưa hề thấy hắn chơi một loại nhạc cụ nào, nhưng xướng âm thì khá vững. Còn vốn hoà âm, khúc thức Tạo thụ hưởng từ thầy Ngô Trí Thậm và qua vài lớp sang tác âm nhạc trong quân đội cũng đã đủ để viết ra một tổ khúc hợp xướng “Đất nước Bác Hồ và cuộc hành quân không nghỉ” thời chống Mỹ cứu nước. Vậy nên, đó cũng là tạng của một nhạc sĩ dị biệt. Còn thơ, cũng ngay từ dạo ấy, Tạo đã có những đột phá mang khát vọng cách tân như không nhiều nhà thơ khác thời đầu thanh bình. Tạo khởi xướng ra “Thơ đời thường” nhằm đối trọng với thơ tụng ca nhan nhản lúc bấy giờ, để rồi phóng ra một “Tản mạn thời tôi sống” giữa năm 1981 làm chấn động thi đàn. Với thơ, Tạo vô cùng khó tính. Tôi có bài thơ Những giọt mưa làm lại đến lần thứ ba rồi mà Tạo đề nghị tôi “dỡ ra làm lại, không thì tiếc quá”, và tôi đã làm theo đề nghị của hắn, để có được bài thơ “Những giọt mưa đồng hành” đoạt giải báo Văn Nghệ sau đó. Chúng tôi chơi với nhau như vậy, bươn trải hết biên giới Tây – Nam lại biên giới Bắc. Rồi cả “Ba anh em họ Nguyễn” đều cùng về học Trường Viết Văn Nguyễn Du khoá đầu tiên.

Đấy là những ngày tụ quần ấm áp không bao giờ quên. Ấm áp và trong trẻo. Luc đó Trại sang tác Quân đội đã chuyển về Vân Hồ. Tạo và Nguyễn Hoa ở chung một phòng. Hành trình hai chiều Vân Hồ với nhà tôi 60 Hàng Bông là hành trình đi về trong thương mến của “Ba chàng họ Nguyễn” chúng tôi. Khi thì tôi tới Vân Hồ, khi thì Tạo và Nguyễn Hoa lên Hàng Bông. Ở không gian nào thì cũng vẫn là rượu – thơ và nhạc.

Nguyễn Thuỵ Kha
Lộ tòng kim dạ bạch,
Nguyệt thị cố hương minh.
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Nguyễn Trọng Tạo: "Nếu còn biết bất ngờ..."

NGUYỄN TRỌNG TẠO: “NẾU CÒN BẤT NGỜ…”
LÊ MỸ Ý thực hiện

      LÊ MỸ Ý (LMY):  Thưa ông Nguyễn Trọng Tạo, trong cuộc phỏng vấn này, tôi đang được trò chuyện với nhà thơ hay nhạc sĩ, hay là cả hai?
      NGUYỄN TRỌNG TẠO (NTT): Cứ trò chuyện với Nguyễn Trọng Tạo là được rồi. Còn các “chức” danh khác, chẳng qua người ta đặt cho thôi.

      LMY: Và ông còn là một hoạ sĩ nữa. Ông đã từng thiết kế hàng trăm bìa sách và đã đoạt hai giải thưởng bìa sách?
      NTT: Tôi không nghĩ mình là hoạ sĩ, nhưng cũng có thế đấy. Với tôi, thơ là nghiệp, nhạc là hứng, hoạ là chơi. Hay nói cách khác, thơ là chánh quán, nhạc là trú quán, hoạ là trọ quán.

      LMY: Vậy tôi xin được bắt đầu từ thơ của ông. Ông là người đã xuất bản rất nhiều tập thơ, và Đồng dao cho người lớn hình như được đánh giá cao hơn cả?
      NTT: Vâng, đúng là tôi tâm đắc nhất với tập thơ Đồng dao cho người lớn,  viết tại Huế từ năm 1986 đến năm 1994. Đây là một tập thơ tôi đã viết khác hẳn  hệ thống thơ chống Mỹ. Những nhà thơ trước đó thường viết theo lối ca ngợi, ca ngợi dân tộc, ca ngợi đất nước, ca ngợi lý tưởng, ca ngợi nhân dân. Đến tập thơ này của tôi, tôi đã viết với một tinh thần rằng, chúng ta hãy sống trong sự mờ ảo của tâm hồn con người, chúng ta phải biết đi qua hết những gì quá rõ ràng như giới tuyến Bắc Nam. Mặc dù trong thời chống Mỹ, để vượt qua được giới tuyến Bắc Nam là một điều quá thiêng liêng, cụ thể là máu xương của cả dân tộc. Nhưng vượt qua giới tuyến rồi, chúng ta còn phải vượt qua sự huyền ảo của con người. Sự huyền ảo ấy chính là tiếng nói thơ ca hiểu theo một cách rộng rãi nhất, là một Nhân Văn không còn biên giới. Suốt một thời làm thơ, tôi là một người thích chiêm nghiệm, và cũng là một người thích đổi mới. Nhưng có lẽ chỉ sống ở Huế, tôi mới thấy hết sự huyền ảo của nghệ thuật, mới ý thức thực sự nghệ thuật là tinh thần huyền ảo trong trần gian. Nó làm nhoè mờ các ranh giới và vượt thoát ra ngoài các ranh giới. 500 năm trước đây, đại thi hào Nguyễn Trãi đã tìm ra được 3 chữ "An-Nhữ-Chỉ", nghĩa là , hãy yên tâm trong đường chỉ giới của chính mình. Nhưng đến thế kỷ XX, Yanit Ritsot (HyLạp) đã phát hiện ra rằng, "nếu tôi thấy được chân giới của tôi, tôi sẽ xuyên qua chân giới ấy". Chỉ vì một đường chân giới mà người ta mất 5 thế kỷ mới đi qua được. Đấy là cuộc đi qua bức tường Đông Tây. Cũng như sự đập vỡ bức tường Berlin vậy. Còn chúng ta thì phải đi qua chiến tranh suốt 20 năm mới nhận diện được sự huyền ảo trong thơ ca nghệ thuật. Do vậy, tôi nghĩ rằng, tôi đã cố gắng đi qua chân giới để làm nên tập thơ "Đồng dao cho người lớn", một tập thơ mà người ta vẫn thường nhắc tới khi nói về thơ ca Việt Nam sau 1975.

     LMY: "Sự thực của tinh thần huyền ảo trong trần gian" mà ông nói trong tập thơ của mình, hiểu rộng hơn, cụ thể hơn là gì, thưa ông?  
     NTT: Đó là sự huyền ảo tâm linh của con người. Nó nói lên tất cả những đau xót, sự nghĩa lý, những nhân tình thế thái của cuộc đời một cách huyền ảo. Những thứ mà trước đây người ta vẫn thường hiểu rành rọt, về sau thì khác, theo một tinh thần huyền ảo. Ngay trước thời gian ở Huế, ở Hà Nội tôi cũng thường hiểu mọi thứ một cách rành rọt, nhưng khi về ở Huế, tôi đã có thêm con mắt thứ ba để nhìn sự vật. Con mắt bịa đặt. Nghệ thuật huyền ảo chẳng qua là một sự bịa đặt, nhưng sự bịa đặt ấy làm cho người ta tin là thật, hơn cả thật, đấy là những trạng thái sống vô cùng kỳ lạ. Trước đây, chúng ta đã biết một G. Macket của chủ nghiã hiện thực huyền ảo, và trước cả ông, là một bậc thầy F. Kapka. Tôi không phải là Macket hay Kapka, nhưng vẫn nói ra được sự thật một cách "bịa đặt" mà người ta có thể tin.

     LMY: Thưa ông, tại sao chỉ có thể ở Huế, thơ ông mới mang một tinh thần huyền ảo? Những nhà thơ khác không ở Huế thì không có tinh thần ấy trong thơ ư?
     NTT: Tôi chỉ nói riêng trường hợp tôi. Ở Huế, tôi thấy có nhiều điều kiện. Thứ nhất, không gian Huế rất lạ lùng, nó nằm giữa hư và thực. Thiên nhiên Huế là một thiên nhiên mơ hồ. Thứ hai, ở Huế, người ta có một tâm thái rất cục bộ. Tôi là dân ngụ cư nên càng mơ hồ bao nhiêu càng dễ hoà nhập bấy nhiêu. Một điều nữa, trong tâm thái mình bắt gặp có sự mơ hồ ấy mà sinh ra huyền ảo. Có lẽ những nhà thơ trụ cột của Việt Nam thế kỷ XX đều từng sống ở Huế: Huy Cận, Hàn Mặc Tử, Xuân Diệu, Chế Lan Viên... Xa hơn nữa là Cao Bá Quát, Nguyễn Du... Tôi có cảm giác như là nếu không sống ở Huế thì người ta không thể làm thơ như thế. Đến như văn Hoàng Phủ Ngọc Tường hay nhạc Trịnh Công Sơn cũng trở thành ảo diệu một cách riêng biệt. Tuy nhiên, những điều ấy chỉ xảy ra với những người có thực tài mà thôi. Còn một điều nữa, tôi nghĩ Huế một thời là thủ phủ của đạo Phật, cái sắc sắc không không ấy của Phật giáo đã đi vào tâm thức huyền ảo của thơ ca. Nguyễn Bính là một trường hợp bén duyên với Huế hết sức kỳ lạ, chỉ cần 3 tháng ở Huế cũng đủ để ông trở thành một nhà thơ mà lịch sử văn học không thể không nhắc tới.

     LMY: Đã có "duyên nợ" nào giữa ông và Huế vậy, thưa ông?
     NTT: Tôi lấy vợ Huế, sinh con ở Huế, sống ở Huế, làm thơ ở Huế. Duyên nợ ấy xem như tiền định.

     LMY: Có phải vì tiền định ấy mà thơ ông luôn phảng phất nét Huế? Còn nhiều nghệ sĩ cũng đã vì Huế mà "nối vòng tay lớn" cùng nhau?
     NTT: Tôi nghĩ nó không chỉ "phảng phất nét Huế" đâu, mà chính là thấm đậm hồn Huế. Cũng như Bùi Giáng và Thu Bồn bắt thần Huế nhốt vào câu thơ của họ: Dạ thưa xứ Huế bây giờ - Vẫn còn núi Ngự bên bờ sông Hương, hay Con sông dùng dằng con sông không chảy - Sông chảy vào lòng nên Huế rất sâu, tôi cũng có câu thơ để cho Huế nhớ: Sông Hương hoá rượu ta đến uống - Ta tỉnh đền đài ngả nghiêng say. Nhắc đến thơ Huế sau 1975, có người nói rằng, nếu không có Nguyễn Trọng Tạo thì Huế sẽ hẫng hụt, sông Hương sẽ chảy mạnh hơn nhiều, bởi họ nghĩ thơ tôi đã cân bằng lại sông Hương bằng những câu thơ: Sông Hương cân bằng thành thị với làng quê, hay: vầng trăng loã thể ướt đầm - sẩy chân thi sĩ vớt nhâm mỹ nhân. Đúng là duyên kiếp tiền định. Nhưng tôi vẫn nghĩ, những người tài họ vẫn gặp nhau, họ nối vòng tay lớn qua Huế, hay vì Huế thì tôi không rõ. Còn tôi, nói khiêm tốn tôi tài mọn, nhưng cũng nhờ Huế mà có tình bạn với Hoàng Phủ Ngọc Tường và Trịnh Công Sơn, hai nhà văn hoá hành văn mà tôi vô cùng kính nể.

     LMY: Sinh ở Nghệ An, từng ở Huế, bây giờ là Hà Nội, sau này ông sẽ định cư thật sự ở đâu?
     NTT: Điều ấy quan trọng thế sao? Thôi thì thế này, năm 1975 tôi đi qua Huế và thiển nghĩ rằng, nếu làm văn chương thì nên ở Hà Nội, làm kinh tế thì nên ở Sài Gòn, về hưu thì nên ở Huế. Nhưng tôi lại là một người sáng tác, sáng tác làm gì có hưu (cười).

     LMY: Nghĩa là ông sẽ không bao giờ ở Huế nữa?
     NTT: Ít nhất là đến lúc này, tôi vẫn nghĩ là tôi ở Hà Nội. Nhưng càng ngày, tôi càng nhớ cái làng nhỏ có núm rau của tôi bên bờ sông Bùng xứ Nghệ.

     LMY: Trở lại với tập thơ "Đồng dao cho người lớn", khi viết lời tựa tập thơ này, nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường đã đặt cho ông cái tên là "Người Ham Chơi"? Ông có thích từ này và thấy mình "ham chơi"?
     NTT: Người Ham Chơi là một danh hiệu quá sang cho một thi sĩ, hay nói rộng hơn là cái từ quá sang cho một nhà sáng tạo. Bởi vì nếu có một người nói mình giỏi mà không biết chơi thì tôi chưa tin người ấy giỏi; còn nói mình biết chơi mà không giỏi thì là chuyện bình thường; nhưng bất cứ một người nào vừa làm giỏi vừa chơi giỏi thì đấy mới thực là người chơi vĩ đại. Nói cho cùng, khi Hoàng Phủ Ngọc Tường dùng từ Người Ham Chơi theo gốc chữ Latinh là Homoludus, thì tự nó đã mang theo cả nghĩa người làm lẫn người biết rồi. Tôi hiểu, phải quí tôi lắm Hoàng Phủ mới gọi như vậy. Hình như danh hiệu Người Ham Chơi, Hoàng Phủ chỉ dành cho Nguyễn Trọng Tạo và Nguyễn Công Trứ - người đồng hương xứ Nghệ. Đấy là một quà tặng vô giá. Nhưng nếu không chơi với tôi, chắc chi Hoàng Phủ đã hào phóng như vậy.

     LMY: Vâng, người ta sẽ bất ngờ khi thấy ông không "ham chơi" chút nào. Rất nhiều tập thơ, tập văn, bài báo, bìa sách, minh hoạ, ca khúc, và các bài viết mang tính lý luận phê bình...của ông đã công bố. Ông có thấy như vậy là nhiều, thưa ông?
     NTT: Không! Như tôi đã nói, từ "Người Ham Chơi" mang cả nghĩa người làm. Riêng tôi thì không phân biệt mình làm hay chơi. Còn người biết, nói cho cùng, chẳng ai biết gì cả. Trên thế giới này, người ta vẫn thường nói ba chữ "bất khả tri" hoặc "càng biết càng đau". Tôi cảm thấy mình chưa đau hơn bất kỳ ai.

     LMY: Vậy trong các công việc trên nhiều lĩnh vực văn học nghệ thuật mà ông tham gia, đâu là "công việc" Nguyễn Trọng Tạo nhất? Đó có phải là lĩnh vực mà ông đã thành công?
     NTT: Tôi làm báo để sống, làm thơ để chết, làm nhạc, vẽ bìa sách, uống rượu... để vui. Người ta có thể chết vì một tình yêu, người ta cũng có thể chết vì lợi nhuận. Nhưng đối với riêng tôi, làm thơ cũng có nghĩa là làm tất cả. Việc này có thể nói như một nhà thơ nghiệp dư trên đỉnh đèo Hải Vân tên là Lại Phiền Hà: "Em làm thơ để em làm người". Tất nhiên là tôi thành công nhất trong thơ. Nhưng khi ngẫu hứng, tôi đã làm nhạc. Ấy thế mà tới đâu cứ xướng "Làng Quan Họ quê tôi" lên là người ta biết ngay đấy là nhạc của Nguyễn Trọng Tạo. Phải nói là hạnh phúc vô cùng khi anh vừa là nhà thơ vừa là nhạc sĩ.

     LMY: Với nhạc, ca khúc "Làng Quan Họ quê tôi" có phải là đỉnh cao của ông?
     NTT: Có một ca khúc khác mà tôi thích hơn "Làng Quan Họ quê tôi", đó là "Đôi mắt đò ngang". Nó ra đời năm 1995, sau "Làng Quan Họ quê tôi" 17 năm, và năm 1997 được sinh viên bình chọn là ca khúc mới hay nhất trong đêm nhạc của 4 nhạc sĩ tại đại học Văn Hoá Hà Nội. Sau khi bài này được phát trên đài truyền hình và đài phát thanh, nhạc sĩ Nguyễn Tài Tuệ là người từng viết "Xa khơi" và "Tiếng hát giữa rừng Pác Bó" nổi tiếng, đã tìm tôi  và nói rất đúng ý tôi - ông rất thích "Đôi mắt đò ngang", và cho rằng, bài này còn hay hơn cả "Làng Quan Họ quê tôi". Ở quê tôi, người ta hát "Đôi mắt đò ngang" cả trong đám cưới. Bài hát này cũng đã đoạt giải thưởng Hồ Xuân Hương Nghệ An và giải thưởng của Uỷ ban toàn quốc Văn học nghệ thuật Việt Nam. Điều đó làm tôi thấy vui vì hoá ra những điều mình thích cũng được ghi nhận, dù không được sôi nổi như cái thời "Làng Quan Họ quê tôi" được hát trên cả nước, được JVC Nhật Bản thu đĩa và dàn nhạc giao hưởng Lep-zich trình tấu ở Đức. Về bài "Đôi mắt đò ngang" mà tôi rất thích ấy, tinh thần của nó là đi ngược lại với những rào cản,  ràng buộc từ trước, ngược với lời ru quá cẩn thận của người xưa. Đó cũng là sự thoát khỏi An-Nhữ-Chỉ của Nguyễn Trãi: "Chìm trong đôi mắt ấy, đò đầy anh cứ sang..." (hát). Còn bây giờ thì tôi đang sướng về ca khúc mới "Khúc hát sông quê" phổ thơ Lê Huy Mậu. Nhiều người đã hát bài này cho tôi nghe qua điện thoại di động.

    LMY: Trên các diễn đàn văn nghệ, tại sao ông hay chọn đọc bài thơ "Chia" và nhiều bạn trẻ cũng thích bài hát "Một dại khờ một tôi" do nhạc sĩ Phú Quang phổ nhạc từ bài thơ này?
     NTT: Tôi cực kỳ tâm đắc với bài thơ này. Người ta thường chia cho những con số trên 1 như Tố Hữu từng chia trái tim làm "ba phần tươi đỏ" chẳng hạn, còn tôi, tôi chỉ chia cho 1. Chia mà vẫn còn nguyên, chia cho1 cũng có nghĩa là tất cả, là sự hiến dâng tất cả. Một bài thơ "Chia" mà có đến mười mấy chữ một. Còn lý do tôi hay đọc bài thơ này vì nó là một bài lục bát dễ thuộc, lục bát kiểu Nguyễn Trọng Tạo:

chia cho em một đời say
một cây Si
       với
          một cây Bồ Đề
khi đọc phải ngắt nghỉ, dừng lại đúng chỗ, nếu không thì sẽ không phải là bài thơ lục bát của tôi.

     LMY: Trong số những người cùng thời, nếu nói về tài năng thi ca, ông phục ai?
     NTT: Nguyễn Hoa, người đã viết được một câu thơ vĩ đại: "Em là muối ướp nỗi đau tươi mãi", Nguyễn Thuỵ Kha, người đã viết được câu thơ đầy can đảm:"Đưa người yêu qua nhà người yêu cũ". Thanh Thảo, Hữu Thỉnh, Nguyễn Khắc Thạch, Nguyễn Duy, Hoàng Phủ Ngọc Tường... đều là những thi tài.

     LMY: Tại sao, thưa ông?
     NTT: Không biết!

     LMY: Vì sao ông viết nhiều tiểu luận phê bình thơ?
     NTT: Tôi viết tiểu luận phê bình để ghi lại những cảm xúc khi đọc thơ, ghi lại những suy nghĩ về thơ, để tranh luận với những quan điểm trái với quan điểm của tôi. Nhưng cũng có lúc tôi viết vì thấy bực mình tại sao thời của tôi không có những nhà phê bình thơ đích đáng. Một dân tộc yêu thơ ca bậc nhất mà lại thiếu nhà phê bình thơ. Rất may Thơ Mới còn có Hoài Thanh. Nếu tôi sống cùng thời với Hoài Thanh khi ông soạn "Thi Nhân Việt Nam" chắc tôi sẽ tìm đến chơi với ông ấy. Đấy là người đáng chọn để đàm đạo về thơ.

     LMY: Theo tôi biết, thế hệ của ông vẫn có những nhà phê bình thơ đấy chứ, chẳng hạn như nhà thơ Vũ Quần Phương?
     NTT: Vâng. Phê bình thơ của ông ta gần với văn bình giảng ở trường phổ thông, rất dễ đọc. Bây giờ có một người trẻ có thể nói chuyện về thơ là Nguyễn Đăng Điệp, một người  rất quan tâm đến giọng điệu thơ, một vấn đề rất quan trọng của thơ. Anh ta nói được một đôi điều khá hay. Nên đọc cuốn sách "Giọng điệu trong thơ trữ tình" anh ta mới xuất bản gần đây. Còn một người nữa là Nguyễn Phan Cảnh, tác giả cuốn "Ngôn ngữ thơ" rất đáng đọc. Tôi thích đọc hai cuốn sách đó vì tác giả khám phá sâu vào nghệ thuật thi ca, và mặc dù họ cách nhau đến vài thế hệ.

     LMY: Lý do nào khiến trong những tranh luận của mình, ông luôn đặt thơ trẻ lên hàng đầu?
     NTT: Trái đất không bao giờ quay ngược. Nếu nó quay ngược, hoặc dừng lại thì nhân loại sẽ chết. Quan tâm đến thơ trẻ là việc tự nhiên như trái đất quay, là một qui luật tất yếu. Người xưa quan niệm công kênh trẻ con trên vai đấy mới là người ông, người cha tốt. Tôi không phải là ông cha gì, nhưng chuyện ấy cũng đi theo một qui luật, các nhà thơ trẻ sẽ bước lên vai những người trước, còn chuyện có đặt được chân lên vai thế hệ trước hay không là việc của họ. Có một điều đối với những người trẻ là không nên đòi hỏi ở họ sự chuẩn mực mà người trước đã tạo ra, mà hãy hy vọng từ họ những cái mới lạ, khác cách và tươi mới, bởi chính họ sẽ tạo ra những chuẩn mực mới cho thời đại. Theo thống kê học thì những phát kiến quan trọng nhất của đời người thường xảy ra ở lứa tuổi từ 24 đến 28. Tuổi trẻ là tuổi mở ra những cái bất ngờ. Đặc biệt đối với thơ, tính bất ngờ là vô cùng quan trọng, nó làm thay đổi tần số xung động của tâm hồn. Cho nên nhiều lúc người ta cứ bảo là tôi bênh bọn trẻ quá đáng. Tôi còn hơn cả bênh, đấy là sự trân trọng. Tuổi trẻ đối với sáng tạo thơ bao giờ cũng có những đột phá không thể lường được. Và quả thực, thơ ca sau thế hệ tôi đã mở ra một chân trời mới. Điều tất yếu này không phải ai cũng nhận ra, và không phải ai cũng trân trọng cả đâu.

     LMY: Tuổi trẻ của ông có làm nên điều gì bất ngờ không, thưa ông?
     NTT: Năm 14 tuổi tôi đã làm cho cậu (cha) tôi bất ngờ khi tôi viết được bài thơ đầu tiên, chịu ảnh hưởng của Hàn Mặc Tử. Nhưng bài thơ đó của tôi hơn 20 năm sau (thời đất nước đổi mới) người ta mới cho in, vì thời trước đó đang phải in những bài thơ xây dựng đất nước, bảo vệ tổ quốc. Làm sao người ta có thể in thơ tôi viết: "Trăng trên ngọn liễu trăng ngồi - Tôi trên ngọn liễu tôi rơi bây giờ" hay "Bây giờ tôi dịu tôi hiền - Biết đâu dại tôi điên bao giờ "... được? Chỉ nghe dại dại điên điên là họ đã không thích rồi. Một bất ngờ nữa là năm 1981, sau khi cho in bài thơ "Tản mạn thời tôi sống" trên báo Văn Nghệ với những câu "Thời tôi sống có bao nhiêu câu hỏi - Câu trả lời thật không dễ dàng chi" hoặc "Như con chiên sùng đạo chợt bàng hoàng - Nhận ra Chúa chỉ ghép bằng đất đá" tôi liền bị "bay" khỏi Hà Nội mất 15 năm, ngang với thời gian lưu lạc của nàng Kiều. Còn bây giờ thì có người đã coi "Tản mạn thời tôi sống" như là "bài thơ dự báo cho dòng thơ đổi mới " của ta (cười).

    LMY: Hình như ông cũng viết nhiều về âm nhạc?
    NTT: Những năm làm báo Âm nhạc, tôi và Nguyễn Thuỵ Kha là hai cây bút tác chiến của tờ báo này và một số tờ báo khác, nhưng tôi không viết nhiều về âm nhạc bằng Kha. Tuy nhiên tôi cũng có một số bài được người ta thích như "Nguyễn Thiên Đạo - hợp lưu văn minh Đông Tây", "Ngọc Đại - Phó Đức Phương, lửa và nước tương đồng", "Nhạc sĩ và sao và sự vong ơn", "Tốp, tốp và tốp đi về đâu?", "Bản sắc dân tộc và âm nhạc hôm nay", "Âm nhạc ơi, ngươi ở đâu?"... Nói chung là tôi cổ vũ, bênh vực cho âm nhạc có tính khai phá, phê phán thứ âm nhạc cũ rích, rẻ tiền, mồi chài, chợ búa... Nếu tập hợp lại, tôi cũng có thể in thành một tập sách "Âm nhạc ơi, mi ở đâu?".

     LMY: Người ta bảo tên tuổi ông gắn liền với một số nhà thơ trẻ?  
     NTT: Họ nói thế là họ cho Nguyễn Trọng Tạo ăn theo các nhà thơ trẻ?  Không bao giờ có điều đó. Nếu nói ngược lại thì đúng. (Cười). Chẳng qua là những người không thích thơ trẻ mới nói thế. Còn chính tôi là người đi tìm kiếm các nhà thơ trẻ, đến với họ và biết họ là ai. Nếu nói đọc thơ trẻ thì không phải ai cũng đọc họ một cách trân trọng như Nguyễn Trọng Tạo. Nếu chưa đọc họ với thái độ trân trọng, chưa đọc kỹ họ thì đừng có phán bừa. Đấy là căn bệnh chộp giật của phê bình. Phải tiếp cận, chia sẻ, phải nhìn theo kiểu "trái đất quay" thì mới hiểu được thơ trẻ, còn nếu chỉ nhìn thơ trẻ với cái nhìn kẻ cả thì người ta sẽ la lối, chụp mũ, rồi cho rằng bọn trẻ con ấy thì có tư tưởng gì? Đấy là những người cổ hủ, thô thiển, chỉ nhìn thấy họ, sau lưng họ mà không nhìn thấy trước mặt. Họ không có mắt ở trước mặt mà chỉ có mắt ở sau gáy. Còn tôi là một người bình thường, có mắt ở mặt.

     LMY: Ông thường nhắc nhiều tên tuổi các nhà thơ trẻ, vậy ai là người ông thực sự quan tâm nhất?
     NTT: Người làm thơ trẻ mà tôi quan tâm nhất, đó là Văn Cầm Hải. Đó là một người còn hơn cả Kapka trong thơ vì Kapka không làm thơ. Còn nếu Kapka làm thơ chắc cũng gần bằng Văn Cầm Hải (cười). Còn lại những người khác là Vi Thuỳ Linh, Phan Huyền Thư, Nguyễn Hữu Hồng Minh, Ly Hoàng Ly, Nguyễn Vĩnh Tiến, Lê Vĩnh Tài, Lê Mỹ Ý, Lý Đợi... Có những người xướng tên lên cũng chả ai biết và cũng chả ai đọc. Họ đi theo con đường thơ bằng tư duy khác cách, tôi từng nói trên báo là tư duy lập trình, tư duy của thời đại mới. Còn Nguyễn Quang Thiều (lớp thượng cận) có thể có một đóng góp lớn khiến một số người trẻ thích, nhưng Nguyễn Quang Thiều là một nhà thơ không có bài dở và cũng không có bài hay.

     LMY: Cơ sở nào khiến ông khẳng định về Văn Câm Hải như vậy, thưa ông?
     NTT: Văn Cầm Hải là một tư duy rất khác biệt trong thơ Việt Nam, chưa từng có trong thơ Việt Nam. Anh ta viết rất khác, rất lung tung, rất phức tạp nhưng đọc kỹ, ở đằng sau vẫn thấy có một văn hoá nâng đỡ thơ ca, đó là cảm quan Việt trong thế giới hiện đại.

     LMY: Nhà thơ Hoàng Hưng từng nói Văn Cầm Hải và cả Nguyễn Quốc Chánh đều có sự bắt chước siêu thực?
     NTT: Nguyễn Quốc Chánh là một người hiểu biết về phương Tây, đặc biệt là chủ nghĩa hiện sinh và chủ nghĩa siêu thực. Còn Văn Cầm Hải thì đấy là một người dung hợp và sáng tạo ra một thứ hậu siêu thực ở Việt Nam. Những thi ảnh chắp nối, gãy khúc rất khó nắm bắt. Những tư tưởng ẩn khuất, nhiều khi chỉ đọc được bằng cảm giác. Cảm giác được thì đó là sự tổn thương của một thế giới tâm linh hiên đại. Hải đã tạo ra một thế giới hiện đại có thể đổ vỡ nhưng tâm linh con người thì luôn tổn thương và khát khao tồn tại.

     LMY: Tại sao khi nhắc tới người này, lại thường chỉ thấy sự chỉ trích của các nhà phê bình, thưa ông?
     NTT: Ở nước ta rất ít người biết Văn Cầm Hải. Thơ Hải là thơ khó đọc, vì vậy đôi khi những sự chỉ trích gay gắt lại mang ý nghĩa của câu chuyện "thầy bói xem voi".

     LMY: Thế còn các nhà thơ trẻ mà ông vừa kể tên, ông có nhận xét gì về họ?
     NTT: Ly Hoàng Ly là nhà thơ và hoạ sĩ, thi ảnh của Ly rất cũ nhưng cô ấy lại có tài sắp đặt các thi ảnh, có lẽ là ảnh hưởng chi phối từ hội hoạ, thành ra lạ và có sức quyến rũ. Phan Huyền Thư là người mang trong mình một văn hoá cổ điển nhưng lại có cá tính "Thị Mầu thời hiện đại" nên thơ mạnh, sắc và chua (chanh). Vi Thuỳ Linh là sự xô bồ bạo liệt, ném hết tất cả tâm can ra xã hội, nên thơ cuộn lên có bài hay, có bài tầm thường, nhưng dù sao cũng đã tạo ra một ý thức quyết liệt hết mình với thơ, dám trình bày một "cái tôi không xấu hổ". Nguyễn Hữu Hồng Minh nôn nóng đi tìm tư tưởng mới trong những trạng thái sống bất thường, đang mất nhiều hơn được; nhưng đừng ngại khi mất mười mà chỉ được một...

     LMY: Những bài phê bình thơ trẻ của ông hầu như lúc nào cũng gặp lời "cự nự" từ một số nhà phê bình khác như Nguyễn Thanh Sơn, Lê Quý Kỳ, Nguyễn Hoà... Ông có bực mình không?
     NTT: Tôi chẳng bực mình gì cả, bởi vì tôi đọc kỹ họ mới thấy họ không hiểu mấy về thơ. Họ rất thiếu rung động thơ nên không cảm nhận được cái tinh tế thơ, nhưng lại thích dạy dỗ về thơ. Đành chia sẻ với họ về tinh thần can đảm.

      LMY: Thưa ông, cứ tranh cãi mãi với nhau như vậy trên báo ông không sợ sẽ ảnh hưởng đến tên tuổi của mình?
      NTT: Chả sao cả, vì đấy mới là Nguyễn Trọng Tạo. Tôi không thích làm ra vẻ cao đạo, và thường gọi những người thích cao đạo là nhà nho dởm. Tôi không phải nhà nho dởm, cũng không phải nhà nho, nên tôi phải bàn trong sự hiểu biết của mình. Điều ấy đôi khi lại khiến nhiều người thích thú và ủng hộ. Một lần Hoàng Hưng kể với tôi rằng, Nguyễn Thanh Sơn hỏi anh: "Chú thấy cháu viết như thế nào?", và anh đã trả lời Sơn: "Cháu viết rất hay, chỉ có điều quan trọng là cháu viết về thơ mà không hiểu thơ là gì!". Sự thật có mất lòng không?

     LMY: Ông có thể nói thật ý nghĩ về phê bình?
     NTT: Phê bình không được dối lòng mình. Thấy hay, thấy dở có thể viết hoặc không viết, nhưng khi đã viết là phải có chính kiến. Khi tôi viết cuốn "Văn chương cảm và luận", là tôi chỉ viết cái tôi thích viết, thấy hay thì khen thấy dở thì chê, chẳng vị tên tuổi của ai. Nếu cứ đua nhau chạy theo những tên tuổi có sẵn, dễ đẻ ra một nền phê bình ăn theo tên tuổi. Phê bình phải phát hiện những tên tuổi mới, là tìm vàng trong cát, làm sáng giá cái hay đang bị khuất lấp. Nhà thơ Viên Mai đời Thanh nhờ tỉ mẩn lý giải cái hay cái dở trong thơ thiên hạ mà trở thành nhà phê bình thơ kỳ tài. Thơ ta bây giờ chất thành núi mà các nhà phê bình thơ thì vẫn vô cảm với thơ, hoặc thiên về  mạt sát thơ. Khi tôi phản ứng về những "thói hư" ấy, là vì tôi quá yêu cái hay cái đẹp của văn chương. Nhiều người cứ quen nghĩ là thợ rừng thì phải bổ búa vào cây, có ai nghĩ phải chăm những cây non thì mới có rừng?

     LMY: Những nhận xét, phê bình về thơ của ông có thể là một cứ liệu xác đáng để mọi người, dư luận xã hội căn cứ vào đó nhận định thơ trẻ không?
     NTT: Đấy là chuyện không thể áp đặt. Nhưng nhìn chung, dân trí thơ chưa ngang tầm với những nhà thơ cách tân tài năng. Muốn bước đi của thơ tiến tới thì phải đồng thời nâng cao dân trí thơ. Những cuộc thuyết trình cho Thơ Mới trước đây như là sự dọn đường cho cách tân thơ rất thành công. Và như vậy, trong bầu trời đầy sao là công chúng, những tài năng chính là những ngôi sao rực sáng xác định cho bầu trời, như là sao Bắc Đẩu dẫn đường. Một bầu trời mà không ai biết đến những ngôi sao sáng, đó là bầu trời mù.

      LMY: Vậy ông có sợ dư luận trong bầu trời những ngôi sao nhỏ quanh mình không?
      NTT: Tôi không phải là người không biết sợ. Nhưng tại sao tôi lại phải sợ nhỉ?

      LMY: Mọi người đều biết có khá nhiều dư luận về ông, kể cả tốt lẫn xấu. Ông nghĩ thế nào?
      NTT: Dư luận tức là luận thêm ra, phải không? Việc riêng của mình chỉ mình biết là đủ. Người ta chẳng ai biết hết về ai cả. Đời tư tôi rất phức tạp. Vợ không biết. Con không biết. Mà người ta biết hết về mình có phải là điều hay không nhỉ?. Một cây đa có ma, mọi người bảo thế nhưng bọn trẻ con vẫn đến ngồi chơi, người nông dân đi làm đồng vẫn dừng nghỉ chân mà chẳng ai thấy ma đâu cả. Muốn biết cuộc đời tôi, tốt nhất là hãy đọc tôi.

      LMY: Ông có cho mình là người nổi tiếng?
      NTT: Tất nhiên. Chỉ có nổi ít hay nổi nhiều thôi. Nếu không, sao thiên hạ lại mất thì giờ để đàm tiếu về tôi?

      LMY: Theo ông, điều gì hay nhất mà thế hệ của ông đã làm được? Và điều gì là dở nhất?
      NTT: Điều hay nhất thế hệ nhà thơ chúng tôi làm được là đánh giặc và làm thơ. Điều dở nhất là rất kém ngoại ngữ.

      LMY: Trong "Bài thơ khác", hình như ông có dấu một bí mật bất ngờ?
      NTT: Bài thơ này là một câu chuyện có thật. Sự thật nó xảy ra bất ngờ mà tôi không biết trước. Tôi nghĩ, nếu một ai còn biết bất ngờ thì còn biết làm thơ, nếu không, sẽ chỉ như một cái cây đã khô.

      LMY: Chân dung của ông do chính ông phác thảo cũng sẽ bất ngờ đến mức "tin thì tin không tin thì thôi" chứ, thưa ông?
      NTT: Tin thì tin không tin thì thôi. Tôi núp dưới cái bóng râm của tên tôi!

      LMY: Xin cảm ơn nhà thơ!

Hà Nội, 18.3.2003

Lê Mỹ Ý

Bài đã đăng trên vannghesongcuulong.org
chia cho em một đời say
một cây si/ với/ một cây bồ đề
tôi còn đâu nữa đam mê
trời chang chang nắng tôi về héo khô
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Thơ trữ tình Nguyễn Trọng Tạo

“Ôi, có những câu hát ta biết bao giờ hát lại. Những tấm ảnh thời thanh xuân của em chẳng là những câu hát như vậy đó sao?”. Đó là những câu thơ của Nguyễn Trọng Tạo trong bài Những tấm ảnh thời thanh xuân mà mỗi lần đọc, tôi thấy như được trở lại thời thanh xuân của chính mình, và trở lại thời thanh xuân của một ai đấy nữa! Thanh xuân của tình yêu đầu đời! 54 bài thơ trong tập thơ nhỏ xinh và mỏng mảnh này là 54 trạng huống tình yêu, say đắm và buồn, buồn như một ngày xuân không còn hoa cúc, buồn như cây khóc lá, buồn như một đêm tỉnh giấc, ta chợt thấy nỗi buồn đang ngồi bên: Là khi tỉnh giấc trong đêm/ một mình ta thấy ngồi bên nỗibuồn… và một van nài lạ lùng, hi hữu:

Buồn ơi, Buồn có thương tôi.
Đừng làm tôi phải mồ côi Nỗi Buồn.
(Xon nê Buồn)

Cách nói, cách cảm và cách thơ ấy chỉ riêng Nguyễn Trọng Tạo mới có. Ngoa ngôn chăng, thậm xưng chăng, phách lối chăng? Ai nghĩ gì thì nghĩ, nhưng Tạo không thể sống nổi nếu không có một Nỗi Buồn cặp kè bên cạnh: Buồn đừng đi, Buồn đừng tan/ mất Buồn còn lại tro tàn mà thôi! Trong con mắt nhà phê bình Trần Mạnh Hảo thì thế nào Nguyễn Trọng Tạo cũng sẽ biến thành một nhà “Buồn học”, nhưng nếu thay nỗi buồn kia thành niềm vui chẳng hạn, thì cơ sự sẽ ra sao? Chẳng lẽ lại phải đọc là: Vui đừng đi, vui đừng tan/ mất vui còn lại tro tàn mà thôi! Vô duyên biết mấy, nông nổi và hạn hẹp vô cùng!

Hình như, với Nguyễn Trọng Tạo, tình yêu là cặp song sinh với Nỗi Buồn. Cả tập thơ với 54 bài này, tôi không bắt gặp Tạo cười hơ hớ lần nào, chỉ thấy anh đã buồn và sẽ lại buồn hơn, ngay cả trong một ngày vui là ngày có Quà sinh nhật:

hai mươi bài hát vui
hát tặng một nỗi buồn
hai mươi bài hát buồn
hát tặng nỗi buồn hơn…

Ngay cả một ngày vui là trong tiệc cưới của Em: Nếu ngày mai khi tiệc cưới của em/ bạn bè đến nói cười và chúc tụng/ xin em hãy coi tôi như bè bạn/ và xin đừng dù khẽ gọi tên tôi… giọng điệu bài thơ này phảng phất chất giọng Nguyên Sa một thời xa lắm, nhưng nó hiện đại hơn vì không sướt mướt và quá bi luỵ, nó ở một chiều kích khác của tâm thức,

tôi còn đi. Mưa gió. Đường dài
trái tim phải lội qua bao thác lũ
dẫu gió lạnh thổi mãi con chim nhỏ
em đừng buồn - trời rộng phía yêu thương…
(Nếu ngày mai).

Nỗi buồn trong tình yêu của Nguyễn Trọng Tạo đã được nâng lên thành một triết lý hoặc là một định đề - bất di bất dịch. Nhiều khi nỗi buồn của anh lại khiến cho người đọc phải bật cười, cười trong cay đắng và như thế còn hơn cả nỗi đau thương.

hoa đã tặng. Người đã không còn nữa.
em đã yêu. Em đã bỏ tôi đi
sẽ dở hơi nếu là tôi đứng khóc
nhưng cười vui thì tôi sẽ còn gì?

Nói tập thơ trữ tình của Nguyễn Trọng Tạo là thơ tình yêu thì đúng rồi, nhưng hình như chưa đủ, chưa thoả đáng, chưa thấu suốt cái nội hàm của nó. Thơ tình của Tạo chứa cả một trời thế sự, một biển tâm linh, thăm thẳm linh hồn người. Không có tình yêu con người, tình sự sống, tình yêu hoa cỏ, gái trai, sẽ không viết được những câu thơ đau xót như thế này, và cũng hài hước như thế này: Anh làm vua không ngai, em vẫn là hoàng hậu/ chàng hoàng tử khóc nhè, nàng công chúa hờn dai/ chợt thương quan không dân/ chợt thương ngai không chủ/ thương những đời người chung thân/ trong áo mão cân đai… (Cổ tích thơ tình).

Và rồi đây nữa:

Chặt cây mà bắc cầu sang
Không em, anh sống lang thang hai lần
Ước chi em giận một tuần
Em xa vài tháng, em gần… cả năm.
(An ủi)

Phẩm chất cốt lõi trong thơ tình Nguyễn Trọng Tạo trở thành bức thôngđiệp gửi tới người đọc là tình yêu, yêu đến hết mình, đến tan xác, đến rỗng không, đến không còn hồn vía:

Chia cho em một đời tôi
một cay đắng
        một niềm vui
                 một buồn
tôi còn cái xác không hồn
cái chai không rượu tôi còn vỏ chai.
(Chia)

Người biết yêu đến tận cùng thì cũng biết hiến dâng đến tận đáy. Nhiều khi nhà thơ tự ví mình như bông hoa ly vàng, nhỏ tí xíu, khuất lấp trong muôn ngàn loài hoa rực rỡ, khiêm nhường và cao thượng: Dẫu nhỏ nhoi tôi có một cái tên/ khi ngập nước và khi thì ngập nắng/ hoa li vàng mùa hạ chính là tôi… và một niềm run rẩy rất đỗi dịu dàng, mong manh và thuỷ chung biết bao:

Biển đầy vơi thương nhớ, biển xanh ơi
Thân thể ai hồng hào pha ngọn sóng
Da thịt người chạm vào tôi nóng bỏng
Rồi có thể người quên
Còn tôi mãi giữ gìn…
(Hoa li vàng)

Càng đi sâu vào mê cung thơ tình Nguyễn Trọng Tạo, người đọc càng khám phá thêm những miền tâm trạng mới, đặng làm phong phú thêm, chất lượng tâm hồn người. Cái mà nhà thơ tưởng mất lại là phù sa bồi đắp cho tâm tưởng ta thêm phì nhiêu, và đó chính là cái mà ta được:

tôi về khép lại căn phòng
thấy trong lồng ngực như không có gì
trái tim đã bỏ tôi đi
ai mà nhặt được gửi về giùm tôi.
(Gửi)

Ở đây chỉ là cách nói, cách diễn đạt bằng thơ những điều khó nói. Tuy nhiên một nhà thơ thực sự tài năng không nhờ vào cách nói, phải có một nội lực cường tráng để có gì mà nói! Với nhà thơ “trữ lượng tâm hồn” là điều cần thiết hơn cả, cái mỏ ấy hệt như một mỏ dầu, càng khai thác, càng phát sáng. Và tôi không nghi ngờ Tạo là một mỏ dầu có trữ lượng cao, anh đã từng làm cháy, thậm chí thiêu đốt bao tâm hồn yêu và đang yêu:

cho thơ tôi được nói lời
tình-yêu-tôi, gửi tới người-tôi-yêu.
bởi tôi tin những sớm chiều
người không quen… sống rất nhiều cho tôi.
(Thơ gửi người không quen)

Đọc Thơ trữ tình của Nguyễn Trọng Tạo, bạn đọc sẽ không muốn ngồi trong nhà nhìn ra mưa nữa, mà bạn sẽ… nhảy ra đường. Ra đường để làm gì thì chưa biết, nhưng cứ phải ra đường, để có thể đắng cay nhặt lại được một “nỗi buồn” nào đó, đau xót và quyết liệt vô cùng:

một ngày người bán rẻ ta
ta thành đồ vật giữa nhà người dưng
một ngày người đến rưng rưng
mua gì vô giá? xin đừng mua ta
(Nỗi buồn kiêu)

Yêu và buồn là cặp trẻ song sinh, Nguyễn Trọng Tạo đã minh chứng cho điều ấy.

Ai từng quen biết Nguyễn Trọng Tạo, chỉ ngồi với anh một buổi chiều thôi, uống rượu và nghe anh hát Làng quan họ quê tôi hay Khúc hát sông quê… sẽ cảm nhận rằng, Tạo là người vô tư lắm, hồn nhiên và sung mãn lắm! Không, không phải vậy đâu, Nguyễn Trọng Tạo vốn là người cả nghĩ, đến nỗi: Người đẹp nhìn tôi trên đường/ về đêm tôi cảm thấy buồn…, đến nỗi nhìn ai cũng ngỡ là mình thuở ấy, thuở xa xôi nào:

có ai ngồi xuống chỗ chúng mình kia
chàng trai ấy cùng với cô gái ấy
cô gái đẹp sao giống em đến vậy
và chàng trai run rẩy giống anh sao
cỏ biếc xanh như cỏ đêm nào…
(Cỏ xanh đêm trước)

Trong tập thơ này của Nguyễn Trọng Tạo, tôi đặc biệt yêu thích bài Thơ tình người đứng tuổi. Có cảm giác rằng anh viết cho tôi, và viết riêng cho một người nào đấy nữa, một người nào trong vô vàn chúng ta:

bây giờ cao bổng vòm cây
dòng sông trôi đã vơi đầy tháng năm
áo tôi đạn xé bao lần
tóc người hao mấy mùa xuân đợi chờ
(Thơ tình người đứng tuổi)

Con người ngỡ là từng trải, từng trải qua chiến trường, qua cả “tình trường” mà không hề chai sạn, cứ run rẩy như thuở mới vào đời, như một khúc mộng mơ, như một kẻ mắc nợ. Nợ cái gì thì chưa biết, nhưng Tạo là con nợ của trăm năm:

tôi còn mắc nợ áo dài
một làn gió trắng một bài thơ hay
tôi còn mắc nợ mi mày
một con thuyền lá xanh đầy mắt nai
(Tôi còn mắc nợ áo dài)

Trắng nợ như thế thì sẽ còn nợ tiếp, nợ chung thân, nợ tử hình! Tử hình rồi còn chưa hết nợ: “Có lúc ngôn từ biệt tích/ đam mê trơ đá gan lỳ/ em mèo ơi đừng đến nữa/ sợ em dựng dậy tử thi!… (Chiêm cảm). Và đến nông nỗi ấy thì phải giấu biệt mình đi, lặn một hơi để không ai tìm thấy nữa:

có một chàng đơn độc
bước trên đường Không Tên
có một nàng Hạnh Phúc
ở số nhà Lãng Quên…
(Nỗi nhớ không tên)

Nguyễn Trọng Tạo đã tự mình làm ra một đường phố, một số nhà cho riêng mình, đấy là số nhà Lãng Quên trên đường Không Tên vậy! Có tin được không? “Tin thì tin không tin thì thôi”. Và tôi gọi tập thơ trữ tình của Nguyễn Trọng Tạo là Bức tranh tình không năm tháng!…

Hà Nội, tháng 4 năm 2004

Trịnh Thanh Sơn

Thơ trữ tình: NXB Hội Nhà văn - Trung tâm văn hoá ngôn ngữ Đông Tây, ấn hành, 2004

Nguồn: Báo Văn nghệ, 2000
chia cho em một đời say
một cây si/ với/ một cây bồ đề
tôi còn đâu nữa đam mê
trời chang chang nắng tôi về héo khô
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Nguyễn Trọng Tạo: chớp mắt với ngàn năm

Một ngày kia, cát bụi vùng Hoan Diễn đã sinh tạo một “kẻ ham chơi”. Y cứ lãng đãng trong đời như một khách giang hồ mang trái tim nhạy cảm, một trái tim đầy nhạc với những đốm lửa buồn. Để rồi sau những cuộc say tràn cung mây, khi dòng cảm hứng chợt bùng lên từ những vùng u ẩn nằm sâu trong cõi nhớ, những giai âm ùa về như những luồng điện làm vỡ oà bí mật: có thương có nhớ có khóc có cười/ có cái chớp mắt đã ngàn năm trôi. Đây là những câu thơ khép lại một trong những bài thơ hay nhất của Nguyễn Trọng Tạo: Đồng dao cho người lớn (1). Cách nói Đồng dao cho thấy được ý hướng sáng tạo của Nguyễn Trọng Tạo. Thơ anh là những khúc hát ngân lên từ cõi nhớ của một kẻ nhà quê lưu lạc. Lưu lạc mà vẫn nhớ mình là nhà quê, là phương Đông chính hiệu. Vì thế, nếu có đọc thơ Tây cũng là một cách mở rộng, tham bác để cho cái chất nhà quê vừa gắn với cổ điển, vừa đáp ứng được nhu cầu hiện đại. Hai câu thơ trên đây khép lại bài thơ mà cũng là để mở ra về phía “ngàn năm” từ cái “chớp mắt” khóc cười nghệ sĩ. Những câu thơ đẫm niềm riêng nhưng cũng là những trải nghiệm khóc cười nhân thế. Nó như bật ra từ tuệ nhãn, vừa mới mẻ vừa mang theo cái uyên súc Đường thi. Đó là một kiểu chiêm nghiệm, một cách nói khác của Bùi Giáng: Bây giờ riêng đối diện tôi/ Còn hai con mắt khóc người một con.  Nói thế để thấy rằng Nguyễn Trọng Tạo đã biết lắng lại và tự giác ngộ mình trước cõi tham-sân-si trần tục. Mối tương quan giữa chớp mắt và ngàn năm đẩy cảm xúc lên tầm mỹ học về nhân sinh qua cái nhìn của một người biết mình cũng đầy ưu, nhược như ai. Nhưng người thơ ấy biết tự dặn mình coi thơ như một tôn giáo, đứng trước thơ phải thanh khiết và để lại sau lưng những phiền luỵ không đâu. Là một thi sĩ có ý thức đổi mới, Nguyễn Trọng Tạo thấu hiểu một cách sâu sắc, rằng, sự sống còn của người viết là phải nương thân vào chữ nghĩa. Nơi ấy, hồn nằm trong xác và xác ngụ trong hồn. Không còn cách nào khác, tư cách của nhà thơ chỉ có thể đo ướm bằng sự toả sáng của chữ. Tại đó, anh ta trình với mọi người cái vân tay vân chữ của mình trên tờ căn cước bằng giấy trắng mực đen. Hay, dở đã thuộc về kẻ khác. Mọi phân trần hay biện hộ của nhà thơ đều trở thành vô nghĩa.
       
Thuộc típ người tài hoa đa mang lắm mối, nhưng trước sau, hồn vía Nguyễn Trọng tạo vẫn sống chết với thơ. Tại đây, anh dựng lên xác tín nghệ thuật của mình: “Thi ca là ngôn từ rung lên bằng âm nhạc”(2). Cấu trúc thơ Nguyễn Trọng Tạo hàm chứa rất nhiều âm nhạc là vì thế. Nhạc cất lên từ nhịp:  Chia cho em/ một đời tôi/ một cay đắng/ một niềm vui/ một buồn (Chia). Nhạc cất lên từ vần: tình trao mắt cho thơ/ trời xanh mi ướt bờ/ tình trao nắng cho mưa/ chìm vào nhau bất ngờ (Rượu chát), từ sự bung phá một cách phóng túng để diễn tả chính sắc màu của nhịp điệu: ôi nhịp điệu- thân xác không mang nổi/ ta thoát khỏi ta/ như đứa trẻ thoát áo quần quá chật (Nhịp điệu Tây Nguyên)…Nhưng thủ pháp thường gặp nhất trong thơ Nguyễn Trọng Tạo là cách tổ chức điệp khúc. Điệp trong bài, điệp bằng lối hai câu song song, nương tựa nhau… Những thủ pháp ấy bắt nguồn từ niềm đam mê nhịp chẵn theo quan niệm của Nguyễn Trọng Tạo (khác với nhịp lẻ của thơ Trung Hoa). Nhưng đó không phải là kiểu hài thanh cân đối cổ điển mà trên sự cân đối ấy nhằm tạo nỗi chơi vơi trong tình điệu thẩm mỹ của anh. Với Nguyễn Trọng Tạo, hình thức điệp cú và điệp cấu trúc có khả năng đạt các hiệu quả nghệ thuật: 1- sự chặt chẽ trong cấu tứ và sự trùng phức về giai điệu; 2- sự nhoè mờ của các “vân chữ”; 3- trên cơ sở đó tạo nên những bất ngờ và bung phá. Dĩ nhiên, thủ pháp này cũng tiềm ẩn một nguy cơ: khi cảm xúc vơi hụt, tỉnh nhiều mà say ít, thơ sẽ rơi vào tình trạng ít ý nhiều lời. Hiện tượng này cũng từng xảy ra với chính Nguyễn Trọng Tạo. Nhưng nhìn chung, Nguyễn Trọng Tạo đã kết hợp được hài hoà giữa ý tình và âm nhạc. Xin đừng hiểu rằng một khi thơ giàu nhạc thì ý tưởng bị khuất chìm. Chính các nhà tượng trưng đã từng nêu lên một tuyên ngôn bất hủ: “Âm nhạc đi trước mọi điều”. Những câu thơ sau đây của Paul Verlaine sẽ mất đi rất nhiều dư vị nếu ta tước bỏ nhạc thơ: Đang khóc trong lòng tôi/ Như đang mưa trên phố/ Buồn chán gì vô cớ/ Đang len vào lòng tôi (3). Ở nước ta, thơ hàn Mặc Tử, Hoàng Cầm, Vũ Hoàng Chương…đều là những thế giới đầy âm nhạc. Điều quan trọng là nhạc thơ phải diễn tả được nhạc lòng, là một thành tố trong nghệ thuật tổ chức cấu trúc giọng điệu. Âm nhạc chính là một thủ pháp khiến người đọc dễ say với cái say thi sĩ vốn là một phần bản thể Nguyễn Trọng Tạo. Là người ít nhiều tìm hiểu giọng điệu thi ca, tôi nghĩ, ngoài âm và nghĩa dồi dào, thơ phải có giọng. Không có giọng, anh ta lập tức bị biến khỏi bản đồ thơ. Với cách hiểu như thế, tôi nghĩ, Nguyễn Trọng tạo là người có giọng điệu riêng. Nhưng cái nốt riêng ấy không tự dưng mà có. Thực lòng, tôi không tìm thấy nó ở thời “Gương mặt tôi yêu&
Bài liên quan

Nguyễn Ngọc Anh

Nguyễn Ngọc Anh (1932-1965) người Quảng Nam, làm việc ở Ban văn sử địa (tiền thân Viện Văn học Việt Nam sau này), chuyên nghiên cứu văn hoá Tây Nguyên, tham gia dịch các trường ca như Đam San, Xinh Nhã,…

Song Hồ Nguyễn Thanh Đàm

Song Hồ tên thật là Nguyễn Thanh Đàm, sinh ngày 8-8-1932. Ngoài bút hiệu Song Hồ ký dưới các bài thơ và tiểu luận văn học ông còn dùng bút hiệu Chính Sử dưới các bài bình luận thời sự. Bài thơ đầu tiên của ông là Thư gửi người em Hà Nội được sáng tác vào cuối năm 1949 trong thời gian ông tham gia ...

Hồ Minh Hà

Hồ Minh Hà sinh năm 1936, quê Sơn Bằng, Hương Sơn, Hà Tĩnh, là một nhà thơ, nhà báo. Đời thơ ông ngọt ngào và cay đắng. Ông vào nghề trưởng tàu đường sắt, làm báo, làm thơ rồi tiếp sau đó 30 năm là cán bộ biên tập, tuyên truyền của Sở Văn hoá-Thông tin Hà Nội. Ông là hội viên Hội Văn nghệ Hà Nội, ...

Nguyễn Viết Lãm Nguyễn Hạnh Đàn, Việt Chi, Thạch Bích, Tường Khanh

Nguyễn Viết Lãm (1919-2013) là nhà thơ, dịch giả Việt Nam. Ông còn có những bút danh: Nguyễn Hạnh Đàn, Việt Chi, Thạch Bích, Tường Khanh. Ông sinh ở Quảng Ngãi, quê gốc ở Thừa Thiên - Huế. Ông từng đảm nhiểm nhiều chức vụ như: Thư ký Ban Văn nghệ của Hội nhà văn Việt Nam (1956), Chánh Văn phòng Hội ...

Văn Thao

Văn Thao (1946-) là hoạ sĩ, nhà thơ, cử nhân nghệ thuật, quê ở xã Liên Minh, huyện Vụ Bản, thành phố Nam Định, là con trai cả của cố nhạc sĩ, hoạ sĩ, thi sĩ Văn Cao. Tác phẩm: - Trái muộn (thơ, Văn Thao, NXB Văn học, 1995) - Mảnh trời qua ô cửa (thơ, Văn Thao, NXB Văn học, 1997)

Song Nhất Nữ Đặng Bá Ngư

Song Nhất Nữ tên thật là Đặng Bá Ngư, sinh năm 1927, quê ở làng Hành Thiện, xã Xuân Hồng, huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định. Những năm 1940 ông học đại học tại Hà Nội rồi về dạy văn tại lớp đệ thất trường trung học Trí Tri ở Hải Phòng. Bút hiệu Song Nhất Nữ, theo nhà thơ, có nghĩa là “cô ...

Nguyễn Minh Dũng Nguyễn Viết Hùng, Nguyên Minh, Ng_uyễn, Bơờm Núi Cậu

Nguyễn Minh Dũng (vốn tên là Nguyễn Viết Hùng), sinh ngày 02/04/1958, có các bút danh Nguyên Minh, Ng_uyễn, Bơờm Núi Cậu. Quê quán và sinh quán đều ở khu phố 2, thị trấn Dầu Tiếng, huyện Dầu Tiếng, Bình Dương. Nghề nghiệp: Công nhân. Là uỷ viên ban chấp hành Hội Văn học nghệ thuật tỉnh Bình Dương. ...

Nguyễn Liên Châu Bùi Tấn Tiến, Bùi Hữu Miên, Hồ Quốc Nhạc, Hắc Ngưu

Nguyễn Liên Châu tên thật là Bùi Tấn Tiến, sinh năm 1955, quê nội ở Hải Phòng, quê ngoại ở Thừa Thiên – Huế. Ông sinh ra và lớn lên tại Đà Lạt, chuyển về Sài Gòn sinh sống từ sau năm 1975. Ông còn dùng các bút danh khác là Bùi Hữu Miên, Hồ Quốc Nhạc, Hắc Ngưu. Hiện nay ông là Giám đốc Công ty trách ...

Nguyễn Đình Di

Nhà thơ Nguyễn Đình Di (1947-?) sinh tại Hưng Yên. Nguyễn Đình Di vừa là bút danh và tên thật của ông.

Nguyên Sa Trần Bích Lan, Hư Trúc

Nguyên Sa sinh ngày 1 tháng 3 năm 1932, tên thật là Trần Bích Lan, còn có bút danh Hư Trúc. Ông là một nhà thơ lãng mạn Việt Nam nổi tiếng từ thập niên 1950, với những tác phẩm nổi danh như "Áo lụa Hà Đông", "Paris có gì lạ không em", "Tuổi mười ba", "Tháng sáu trời mưa", v.v. Tổ tiên Nguyên Sa gốc ...

Mới nhất

THPT Đinh Tiên Hoàng

THPT Đinh Tiên Hoàng đang không ngừng nỗ lực phát triển trở thành một ngôi trường với chất lượng giảng dạy tốt nhất, tạo ra những thế hệ học sinh chất lượng

THPT Thực nghiệm

Trường THPT Thực Nghiệm trực thuộc Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam. Trường là cơ sở giáo dục đào tạo công lập trong hệ thống giáo dục quốc dân và trong hệ thống các trường phổ thông của thành phố Hà Nội. Trường dạy học theo chương trình giáo dục Trung học phổ thông của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Tiếp ...

THPT Đông Kinh

Khẩu hiệu hành động: “ Hãy đặt mình vào vị trí cha mẹ học sinh để giảng giải giáo dục và xử lý công việc ” “ Tất cả vì học sinh thân yêu ”

THPT Hà Nội Academy

Những rào cản còn tồn tại kể trên sẽ được vượt qua bởi những công dân toàn cầu tích cực với nhiệm vụ chung tay xây dựng một thế giới tốt đẹp hơn thông qua việc nghiên cứu và tìm kiếm giải pháp cho những vấn đề toàn cầu bao gồm, nhưng không giới hạn ở nhân quyền, đói nghèo và công bằng xã hội. Nhận ...

http://thptkimlien-hanoi.edu.vn/

Qua 40 năm nỗ lực phấn đấu trong các hoạt động giáo dục, vượt khó khăn, thiếu thốn về cơ sở vật chất, trường THPT Kim Liên đã tạo dựn được uy tín vững chắc, là 1 trong 5 trường THPT hàng đầu của Thủ đô có chất lượng giáo dục toàn diện không ngừng nâng cao và trở thành địa chỉ tin cậy của các bậc ...

THPT Tô Hiến Thành

Trường THPT Tô Hiến Thành được thành lập từ năm học 1995-1996, theo quyết định của Ủy Ban nhân dân tỉnh Thanh Hóa. Đến tháng 6/2010, trường chuyển đổi loại hình sang công lập. Suốt 20 năm phát triển, thầy, cô giáo, thế hệ học sinh đã phấn đấu vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, từng bước phát triển ...

THPT Mai Hắc Đế

Trường THPT Mai Hắc Đế được thành lập năm 2009, sau gần 10 năm xây dựng và phát triển, Trường đã trở thành một địa chỉ tin cậy trong đào tạo bậc THPT trên địa bàn Hà Nội.

Trường Trung học phổ thông Nguyễn Gia Thiều

Nhìn lại chặng đường gần 60 năm xây dựng và trưởng thành , các thế hệ giáo viên và học sinh trường Nguyễn Gia Thiều có thể tự hào về truyền thống vẻ vang của trường ; tự hào vì trường đã đóng góp cho đất nước những Anh hùng , liệt sĩ , những người chiến sĩ , nhà khoa học , trí thức , những cán bộ ...

Trường Trung học phổ thông MV.Lô-mô-nô-xốp

Sứ mệnh Xây dựng Hệ thống giáo dục Lômônôxốp có môi trường học tập nền nếp, kỉ cương, chất lượng giáo dục cao; học sinh được giáo dục toàn diện, có cơ hội, điều kiện phát triển phẩm chất, năng lực và tư duy sáng tạo, tự tin hội nhập.

Trường Trung học phổ thông Quốc tế Việt Úc Hà Nội

Trường thực hiện việc giảng dạy và học tập theo chương trình do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành, thực hiện thời gian học tập theo biên chế năm học do Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định. Song song với chương trình này là chương trình học bằng tiếng Anh được giảng dạy bởi đội ngũ giáo viên bản ngữ giàu ...