Thông tin

Số điện thoại

Email

Website

Địa chỉ

Nguyễn Tấn Việt

Nguyễn Tấn Việt sinh ngày 26-12-1948, quê tại xóm Chùa Cát, thôn Lam Điền, xã Lam Điền, huyện Chương Mỹ, tỉnh Hà Tây. Hiện công tác tại Sở Văn hoá Thông tin tỉnh Hoà Bình. Tham gia: - Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam - Hội viên Hội Văn học Nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam - Hội viên Hội Văn nghệ tỉnh Hoà Bình Tác phẩm: - Màu cây miền châu thổ (tập thơ in chung với Hoàng Hữu, 1976) - Ba con nai trắng biết bay (tập truyện dịch, 1983) - Cánh giang bay lẻ (tập thơ, 1992) - Văn hoá gia đình người Mường (tập chuyên đề khoa học, 1994) - Mảnh trăng núi (tập thơ, 1995) - Giọt nắng trong mơ (tập thơ, 1996) - Mùa hoa chuông (tập thơ in chung với Đặng Ngọc Thành và Lò Cao Nhum, 1997) - Hạt gạo đồng trời (tập thơ, 2000, giải thưởng của Trung ương Hội liên hiệp Văn học Nghệ thuật Việt Nam) - Rừng xanh một mình (tập thơ, 2003) Giải thưởng: - Giải A về thơ của tuần báo Văn nghệ, Hội Nhà văn Việt Nam Hạt gạo đồng trời - những trầm tích thăng hoa trong thơ Nguyễn Tấn Việt Đăng bởi Kim Diệu Hương vào 15/07/2007 02:57 Tác giả: Kim Diệu Hương Có thể nói như thế về nét nổi trội trong thơ Nguyễn Tấn Việt.Anh như người thợ khai khoáng cần cù đào, đãi những hạt quặng li ti chìm sâu trong lòng đất-những trầm tích được anh tinh luyện,chưng cất để nó thăng hoa thành.. thơ đích thực. Không phải tất cả những bài, những câu thơ trong tập thơ Hạt gạo đồng trời của anh vừa được xuất bản đều là vàng ròng, nhưng đọc nó ta không thấy những câu thơ, những bài thơ dở.Thơ anh có sự nương níu giữa hiện đại và truyền thống.Anh vịn vào tất cả rồi trả lại cho đời những câu thơ của riêng anh. Hạt gạo đồng trời là tên một bài thơ, được anh đặt tên chung cho cả tập.Cảm giác khi đọc bài thơ này ta thấy thấp thoáng chất liệu trong chương Đất Nước, trường ca Mặt đường khát vọng của Nguyễn Khoa Điềm.Nhưng đọc kĩ thì thấy cách kiến giải của thơ anh rất riêng, rất Nguyễn Tấn Việt. Hai bài thơ của anh đạt giả A của báo Văn nghệ – Hội Nhà văn Việt Nam 3 Năm từ 1998 - 2000. (Cùng giải A với Anh còn có Trần Anh Thái và Đặng Huy Giang), mỗi bài mỗi vẻ,mỗi cách nói, nhưng đều đạt hiệu quả mà cái đích của thơ cần đạt tới.Bài thơ ở nước nào cũng thế có lời cô đọng, súc tích như những câu châm ngôn, đạt tới độ minh triết: "ở nước nào cũng thế /bồ câu thíc bay đôi/Gà tức nhau tiếng gáy/Tặng hoa thì đỏ môi/Mài dao thì tím mặt", hoặc "ở nước nào cũng thế/Đàn ông như chớp đêm /Đàn bà như ngay nắng /Tuổi thấp thì học bay/Tuổi cao thì học đứng". Làng tôi năm 2000- là thơ hay, hay ở cách nó nhập cuộc rất tự nhiên.Như trời sinh thế nó thế! Tâm trạng của người trong thơ vừa vui vừa buồn,vừa mừng vừa lo,vừa được, vừa mất - nó truyền cho người đọc những tiếc nuối mơ hồ, bởi đổi thay đến ù tai, chóng mặt của cái làng văn hoá Việt.Hình như đằng sau trang giấy là tiếng thở dài của nhà thơ?Tôi hình dung làng tôi năm 2000 là tiến chuông ngân vọng hai thiên niên kỉ: "Đêm 2000 sáng bừng nước mắt /Giọt lệ lăn về đâu?" Tiếng muỗi đêm- một bài thơ ngắn mà hay.Nhà thơ đã lấy Điểm để nói Diện, chỉ cần một giọt nước mà thấy đọng cả bầu trời tâm tư: Đệm cao không ngủ được Bật đèn giết muỗi chơi Suốt một đời làm thiện Làm ác mấy giây thôi. Giết con muỗi mà thơ cũng cho là làm ác?Trước câu thơ "Làm ác mấy giây thôi"anh đã cài khéo "suốt một đời làm thiện", hoá ra cái điều muốn nói là ở câu thơ hạt nhân này đây! lời thơ nhẹ như gió đưa, thủ thỉ nữa chứ, nhưng nó là nhịp đập thổn thức của con tim.Còn cái điều thường tình "Giết muỗi chơi"Kia chỉ là cái cớ,cái vật đệm để kê ý tưởng của bài thơ thêm tầm tư tưởng của hiền nhân,quân tử mà thôi! Với bài thơ "Trời cũ ngày xưa" trong tập thơ Hạt gạo đồng trời, theo tôi,đây là bài thơ hay vào bậc nhất của Nguyễn Tấn Việt.Anh viết về người mẹ đã khuất của mình với lời lẽ trang trọng, thành kính, thao thiết nữa.Cách lập ngôn khúc triết, câu chữ sáng trong như ánh trăng, như nắng trời.Hình tượng người mẹ bình dị, gần gũi vừa huyền bí, linh thiêng: "Mẹ là người thiên cổ, con mới hiểu buổi chiều Mẹ gọi sao hôm Mẹ là ngôi sao lưu lạc Mẹ là cơn mưa tha phương Ông bà nuôi cùng nỗi buồn không có tháng giêng Đón mẹ từ suối khô Qua mấy làng quê, qua mấy thị thành Mẹ trụ lại giữa làng ba mặt sóng"nhưng "Hôm nay mẹ đã về trời/Con bước núi chạy sông /Con dầm mưa trải gió/ Nếu còn sao mẹ lại về trời/Con làm sao tìm được quê người/Con làm sao tìm ra quê mẹ/Bốn phương trời không có mây để hỏi/Bốn phương trời không có gió đưa tin/Mẹ về trời rồi con mới nhận ra/Mẹ không giống một ai trên mặt đất/Trong dòng họ không biết buồn" và đây nữa: "Mẹ không như bóng tre, mẹ không hệt bóng đa/Mẹ không bao giờ giàu sang/Mẹ không bao giờ nghèo khó/Nhưng mẹ khác người/Nỗi buồn tìm về trời cũ ngày xưa/Nỗi buồn làm đông lạnh cả dải sương mù/Nỗi buồn đọng lại cả dòng thác đổ/Mẹ lạc ngay trên Tổ Quốc/Mẹ tha phương ngay ở trái tim mình/Con lớn lên nào biết đâu dòng lệ/Bâng khuâng mãi khi được khen giống mẹ/Nhưng con sao lại giống được người/Cái dáng đứng như tạc trên dốc nắng/Cái dáng đi mất hút cánh đồng sương/Nỗi buồn làm cho mẹ/Chỉ sống đời một nửa/Mẹ không sống cuộc đời hai mặt/Mẹ không sống cuộc đời hai chiều/Nửa đời mẹ chẳng ghét được ai/Nửa đời khóc nào có ai thù hận/Nghe cả họ/Nghe cả làng/Khen mẹ sống có sau có trước/Mẹ càng buồn hơn/Càng thương họ hơn/Giọt giọt lệ rơi vào đời giọt ngọc/Nỗi đau buồn thắt lại hoá kim cương", anh đã khơi mở vào cái điều thiêng liêng của mẹ: "Không biết những ngày sống với nhau, bố đã khóc những gì với mẹ/Bố đã hát những gì với mẹ/Con không dám chạm đến những điều thiêng liêng/Con không dám chạm đến điều bí ẩn...Mẹ phong kín khoảng trời xưa cũ" và anh thảng thốt: "Không biết ngày sinh con mẹ khóc hay mẹ cười/.../Mẹ lảng tìm phía trước ở sau lưng/Giọt sữa đầu tiên lại là giọt lệ/Tiếng ru con đầu tiên lại là tiếng kêu trời/Con không biết mẹ vui hay mẹ buồn/ấm ủ niềm tin hay vô vọng/Con hai mươi còn bé bỏng/Lời ru nào cầm lại cuộc đời con/Con giật mình nhận ra sao hôm sau ngày tang mẹ" Người mẹ ấy cũng thật khác thường: "Hai mươi năm mẹ không dạy con một điều gì", thực ra mẹ không dạy con nhưng lại là một cách dạy đấy. Mẹ lấy im lặng, lấy việc làm, lấy việc ăn ở đức độ...để dạy con nên người. Và anh cũng đã hé mở: "Mẹ không dạy con giàu/Mẹ không dạy con nghèo/Mẹ không dạy con thương thân/ Mẹ không dạy con yêu người khác/Mẹ không dạy con nên người (ai mà chẳng nên người/Không tao nhã thì thành người thô ráp/Không giàu sang thì thành kẻ bần cùng/ Không làm thiện tự dưng làm ác/ Có gì đâu mà chẳng nên người). Mẹ chỉ dặn con một điều: "Là con người không được quên trời cũ" và... Với bài thơ trời cũ ngày xưa, Nguyễn Tấn Việt đã tạc nên một tượng đài về thơ thật kỳ vĩ về người mẹ. Người mẹ ấy vừa kim vừa cổ, vừa truyền thống vừa tân tiến, vừa thực vừa ảo. Người mẹ ấy vừa có tư tưởng, tâm hồn vừa có dáng vóc thật đẹp đẽ, sang trọng và kiêu sa nữa. Nhà thơ đã tôn vinh những giá trị văn hoá truyền thống bằng một bút pháp linh diệu. Rất may, khi nhập đồng làm thơ nhà thơ không bị lạc trong mê lộ của các thủ pháp thơ mà thung thăng trong cõi minh triết của lẽ đời. Nếu chỉ đọc qua cái tên bài thơ trong hội nghị thi đua mà suy diễn, người đọc dễ nhầm tưởng anh viết về một đề tài nào đó rất "mỳ ăn liền" nhưng đọc kỹ bài thơ này, cảm giác trên sẽ tan biến như sương sớm mùa hè. Hoá ra cái điều mà thơ nhắm tới lại khác: "Trong hội nghị thi đua/ gặp nhau những lá cờ/ Những kỷ lục, những đỉnh cao...Gặp nhau/Tất cả đều đi hết những con đường/ Khác nhau chông gai/ Khác nhau thác ghềnh/ Hàm giáo sư tóc bạc mấy công trình/ Vị tiến sỹ cao mấy thang bằng cấp/ Vây quanh ông thánh chăn bò/ Ông vua ấp vịt/ Tất cả đều đi hết những con đường/ Anh chuyên gia nuôi phôi thai trong ống nghiệm/ Chị chuyên ngành phẫu thuật nụ cười/ Nhà giáo của rừng sương/ Nhà văn của đảo sóng/ Ôm hôn chàng hạ sỹ quan săn bắt cướp/ Tất cả đều đi hết những con đường/.../ Gặp nhau tất cả/ Trong hội nghị thi đua/ Ngoài cuộc đời cũng thế/ Chỉ những nửa chừng, nửa vời, dang dở/ Không bao giờ gặp nhau". Nếu đề tài vào tay một nhà thơ xoàng thì nó sẽ được trả lại bằng những câu thơ dở. Còn những thi nhân đích thực, đề tài là chỗ vịn để thơ cất cánh. Thực tế là điểm xuất phát, là nơi nhà thơ tức cảnh để đề lên áo người đẹp những vần thơ mang vía hồn của cả một kiếp người. Với bài thơ Tổ quốc, tác giả viết theo thủ pháp lấy cái nhỏ nói cái lớn, lấy cái khu biệt để nói cái chung, phổ quát. Nhưng thành công hay không? Hiệu quả đến đâu, lại ít phụ thuộc vào kỹ năng, kỹ xảo, được nhà thơ sử dụng mà nó còn phụ thuộc vào độ ngân vang của các câu chữ, đồng thời nó cũng làm rung động trái tim người đọc hay không, mặc dù tác giả tâm đắc? Những câu thơ "Khoảng thu đông Việt Nam/ Se se tình cố quốc/ Mang mang tình cố hương" trong bài thơ "Khoảng thu đông Viêt Nam" là câu thơ gợi, nó khiến người đọc liên tưởng tới nhiều ý nghĩa ngoài câu chữ của thơ. Nằm trong vệt bào anh viết thành công gần đây, cũng trong cái mạch ngầm, được anh khơi lộ, trình làng, đó là: Trước khi ta cầm đũa, Chỉ có ở con người, Những người trồng rừng một mình, Thực ra thì họ giống nhau...ở chùm thơ này, Nguyễn Tấn Việt dùng lối nói truyền thống Việt Nam, á Đông nữa, cao hơn, nó là cách ứng xử văn hoá với con người, với đồng loại với thiên nhiên, muôn loài... Một khía cạnh khác, Nguyễn Tấn Việt đã biết đào sâu vào "vỉa" vô thức, miền nguyên thuỷ của các giác quan, anh truyệt để khai thác phần chìm của "Tảng băng trôi". "Đêm đêm tôi lại gọi tôi về Tôi bay quá xa tôi Nỗi buồn không nhà trọ Niềm vui không cố hưởng Vuông là thế mà tròn là thế Quờ bàn tay chỉ gặp bóng trăng suông ... ... Tôi quá sức khi phải làm người khác Nên đêm đêm tôi phải gọi tôi về" Những phút giây phân thân, giằng xé, day trở, trong tâm tư của nhà thơ trước nhân tình, thế thái, trước thiên nhiên muôn vẻ ngỡ như mông lung, vô định mà vẫn hé rạng một nấc thang, một khoảng trời dồi dào dưỡng khí. Nguyễn Tấn Việt là người đọc nhiều hiểu rộng, suy xét kỹ nên anh tránh được cái tật của một số "xẩm thơ". Anh trường vốn sống, với trái tim nhạy cảm, với thái độ nghiêm túc trong nghề nghiệp nên mới tạo ra được một thứ thơ của riêng anh: Độc đáo và đặc sắc, rất Nguyễn Tấn Việt. Để tránh lặp lại người khác, lặp lại mình, các nhà thơ là người phải có nhiều nỗ lực, đặc biệt là nỗ lực để vượt qua cái non nớt- dễ dãi của chính anh ta. /. 2002 K.D.H (*) Tập thơ Hạt gạo đông trời- của Nguyễn Tấn Việt- được tặng thưởng giải B của Hội liên hiệp Văn học- Nghệ thuật Việt Nam năm 2001 ☆ ☆ ☆ ☆ ☆ Chưa có đánh giá nào Chia sẻ trên Facebook Mây bay - thảng thốt một niềm thơ Đăng bởi Kim Diệu Hương vào 02/09/2007 17:56 Đã sửa 1 lần, lần cuối bởi Vanachi vào 02/09/2007 20:58 Tác giả: Nguyễn Tấn Việt Trong một số phẩm chất, thơ Nguyễn Anh Nông có thuộc tính thảng thốt và trong chất thảng thốt ấy lại diễn ra nhiều sắc thái, nhiều cung độ. Điều dễ nhận thấy trong thơ anh là sự thảng thốt của sự hồn nhiên, nói cách khác anh thảng thốt đến hồn nhiên, hồn nhiến đến thảng thốt. Bài LINH CẢM là một ví dụ, chờ mãi người con gái không tới mà: "Nhoi nhói trong xương thịt anh Hau háu đàn kiến đói" Nếu cảm giác hồn nhiên ấy thiếu sự thảng thốt sẽ rơi vào sự thô thực, như ở một số trường hợp và cứ thế đến cảm động, đến giao cảm: "Chẳng ham mấy chỉ vàng mười Chỉ cần em mỉm miệng cười, là xong" (Tát biển) Sự đơn giản đến nao lòng vì ngơ ngác và thảng thốt Anh thành công khi sự hồn nhiên được tắm trong cảm xúc. Anh hồn nhiên, đồng tình và đồng cảm với một thi sỹ nổi tiếng: "Ước mong rũ bỏ hết Ta làm anh thợ cày" (Thơ vui tặng nhà thơ Trần Đăng Khoa) Nguyễn Anh Nông hồn nhiên đến chân thành: "Chớ đùa mà...hỏng đất Vỡ vạc nhầm ruộng ai" Sự thảng thốt cho anh đôi mắt nhìn đời luôn mới lạ, cái sự lạ ấy thật cần thiết cho công việc sáng tạo văn chương. Anh hồn nhiên phát hiện: "Người xa chẳng nhớ mình xa" (Cánh phượng hồng) Anh ngơ ngác khi tìm ra: Ta là ta, là bạn, là mình Là tất cả nhưng ta là một" (Độc thoại đêm Đà giang) Anh đau đáu mà chấp nhận: "Nhà thơ bỏ thơ đi viết báo... Rồi, suốt đời vẫn cứ tay không" (Trâu ơi) Qua sự hồn nhiên thảng thốt, anh lại sang trạng thái thái quá thảng thốt. Thái quá thường bất cập, nhưng do anh thảng thốt mà thành thơ. Vâng, chính vậy. Do thế mà anh tìm ra được sự liên hệ giữa cái hữu hạn và cái vô hạn bằng cảm xúc: "Con ta: hai thằng quỷ sứ Chọc nhau chí choé suốt ngày Học hành được chăng hay chớ Chơi bời bát ngát cung mây" (Nhà ta) Con ta - quỷ sứ, bát ngát- cung mây: nếu chỉ có một vế thôi hoẳn là rơi vào kiêu bạc, để có cả hai hoặc có cả sự ngơ ngác. Anh cũng tìm ra cách tương tự khi nói về sự lam làm: "Vợ ta - vốn cô thôn nữ Thương chồng con ít ai bằng Lam làm sớm hôm tất bật Quên hết mặt trời mặt trăng" (Nhà ta) Nếu thiếu sự liên hệ giữa cái bình thường và cái phi thường ấy, đoạn thơ sẽ thành vô lối. Một số ý kiến cho rằng: Thơ Nguyễn Anh Nông một phía tự sự thường nhật, một phía ngoa ngôn. Vâng, đúng thế, khi nào anh xích hai yếu tố ấy lại bằng sự thảng thốt thì anh thành công. Và chính yếu tố ấy, anh làm được sự kỳ diệu tìm ra được sự tương đồng giữa âm thanh, hương thơm, màu sắc. Ba đại lượng vốn riêng rẽ mà gắn bó hữu cơ trong một câu thơ: "Tiếng chim gáy thơm hương cốm mới Nắng chiều buông vi vút gió ngàn". (Tiếng chim) Tiếng chim- hương cốm- nắng chiều cứ bảng lảng, lâng lâng xao động thế. Với trái tim dễ rung động ấy, anh tha hồ triết lý: "Thế giới có khuôn mặt khác Ngươi là thánh thần Ngươi là quỷ ác Trái tim ngươi bỏng hơn mặt trời" (Đối thoại cùng mây bay) Tách bạch lý trí ra thì dễ khô cứng, nhưng Nguyễn Anh Nông lại thành thật mà tìm ra mờ ảo, mơ màng trong thổn thức: "Em cứ đuổi theo anh như hình bóng Ta thành người cổ điển lúc yêu nhau" (Thơ tình lính biển) Anh ngơ ngác mà tìm ra sự hư vô của vinh quang, hơn nữa sự hư vô của khổ đau: "Nhớ ngày giỗ anh, tôi về Chị ngồi gõ mõ thầm thì hư vô - Chị ơi! Chị đáp:- Nam mô A...Di...Đà...Phật! sững sờ bóng quen" (Cõi thu) Cái mạnh của Nguyễn Anh Nông là sự ngơ ngác thảng thốt nhưng anh dễ đánh mất nó vì nó hư ảo, thổn thức, may mà anh đã biến nó thành nề, thành nếp nghĩ, nếp cảm, thành thuộc tính. Câu hỏi của anh để hỏi nhiều thời: "Ai đen đúa dầm mình trong mực Đời có trong không có ta không?" (Đời) Anh hỏi điều anh đã biết, đã nhận thức quá rõ vì anh bảng lảng. Nói là thành thuộc tính, đôi khi anh cũng quên lãng: "Hai người lớn tuổi Rì rầm trên cỏ Chỉ vì một đứa trẻ con. (Trên cỏ) Thời gian gần đây, cùng vốn tri thức và kinh nghiệm, thơ Nguyễn Anh Nông đã khởi sắc, nhưng truyền thống của anh là sự hồn nhiên thảng thốt, hình như tri thức và kinh nghiệm của anh cũng đang nuôi dưỡng thuộc tính ấy của anh. Nhà thơ Nguyễn Tấn Việt (Sở Văn hoá- Thông tin tỉnh Hoà Bình) (*) Mây bay- tập thơ của Nguyễn Anh Nông, xuất bản năm 2000 ☆ ☆ ☆ ☆ ☆ Chưa có đánh giá nào Chia sẻ trên Facebook

Nguyễn Tấn Việt sinh ngày 26-12-1948, quê tại xóm Chùa Cát, thôn Lam Điền, xã Lam Điền, huyện Chương Mỹ, tỉnh Hà Tây. Hiện công tác tại Sở Văn hoá Thông tin tỉnh Hoà Bình.

Tham gia:
- Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam
- Hội viên Hội Văn học Nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam
- Hội viên Hội Văn nghệ tỉnh Hoà Bình

Tác phẩm:
- Màu cây miền châu thổ (tập thơ in chung với Hoàng Hữu, 1976)
- Ba con nai trắng biết bay (tập truyện dịch, 1983)
- Cánh giang bay lẻ (tập thơ, 1992)
- Văn hoá gia đình người Mường (tập chuyên đề khoa học, 1994)
- Mảnh trăng núi (tập thơ, 1995)
- Giọt nắng trong mơ (tập thơ, 1996)
- Mùa hoa chuông (tập thơ in chung với Đặng Ngọc Thành và Lò Cao Nhum, 1997)
- Hạt gạo đồng trời (tập thơ, 2000, giải thưởng của Trung ương Hội liên hiệp Văn học Nghệ thuật Việt Nam)
- Rừng xanh một mình (tập thơ, 2003)

Giải thưởng:
- Giải A về thơ của tuần báo Văn nghệ, Hội Nhà văn Việt Nam

 

Ảnh đại diện

Hạt gạo đồng trời - những trầm tích thăng hoa trong thơ Nguyễn Tấn Việt

Tác giả: Kim Diệu Hương


Có thể nói như thế về nét nổi trội trong thơ Nguyễn Tấn Việt.Anh như người thợ khai khoáng cần cù đào, đãi những hạt quặng li ti chìm sâu trong lòng đất-những trầm tích được anh tinh luyện,chưng cất để nó thăng hoa thành.. thơ đích thực.
Không phải tất cả những bài, những câu thơ trong tập thơ Hạt gạo đồng trời của anh vừa được xuất bản đều là vàng ròng, nhưng đọc nó ta không thấy những câu thơ, những bài thơ dở.Thơ anh có sự nương níu giữa hiện đại và truyền thống.Anh vịn vào tất cả rồi trả lại cho đời những câu thơ của riêng anh.

Hạt gạo đồng trời là tên một bài thơ, được anh đặt tên chung cho cả tập.Cảm giác khi đọc bài thơ này ta thấy thấp thoáng chất liệu trong chương Đất Nước, trường ca Mặt đường khát vọng của Nguyễn Khoa Điềm.Nhưng đọc kĩ thì thấy cách kiến giải của thơ anh rất riêng, rất Nguyễn Tấn Việt.

Hai bài thơ của anh đạt giả A của báo Văn nghệ – Hội Nhà văn Việt Nam 3 Năm từ 1998 - 2000.
(Cùng giải A với Anh còn có Trần Anh Thái và Đặng Huy Giang), mỗi bài mỗi vẻ,mỗi cách nói, nhưng đều đạt hiệu quả mà cái đích của thơ cần đạt tới.Bài thơ ở nước nào cũng thế có lời cô đọng, súc tích như những câu châm ngôn, đạt tới độ minh triết: "ở nước nào cũng thế /bồ câu thíc bay đôi/Gà tức nhau tiếng gáy/Tặng hoa thì đỏ môi/Mài dao thì tím mặt", hoặc "ở nước nào cũng thế/Đàn ông như chớp đêm /Đàn bà như ngay nắng /Tuổi thấp thì học bay/Tuổi cao thì học đứng".

Làng tôi năm 2000- là thơ hay, hay ở cách nó nhập cuộc rất tự nhiên.Như trời sinh thế nó thế! Tâm trạng của người trong thơ vừa vui vừa buồn,vừa mừng vừa lo,vừa được, vừa mất - nó truyền cho người đọc những tiếc nuối mơ hồ, bởi đổi thay đến ù tai, chóng mặt của cái làng văn hoá Việt.Hình như đằng sau trang giấy là tiếng thở dài của nhà thơ?Tôi hình dung làng tôi năm 2000 là tiến chuông ngân vọng hai thiên niên kỉ: "Đêm 2000 sáng bừng nước mắt /Giọt lệ lăn về đâu?"

Tiếng muỗi đêm- một bài thơ ngắn mà hay.Nhà thơ đã lấy Điểm để nói Diện, chỉ cần một giọt nước mà thấy đọng cả bầu trời tâm tư:

Đệm cao không ngủ được
Bật đèn giết muỗi chơi
Suốt một đời làm thiện
Làm ác mấy giây thôi.

Giết con muỗi mà thơ cũng cho là làm ác?Trước câu thơ "Làm ác mấy giây thôi"anh đã cài khéo "suốt một đời làm thiện", hoá ra cái điều muốn nói là ở câu thơ hạt nhân này đây! lời thơ nhẹ như gió đưa, thủ thỉ nữa chứ, nhưng nó là nhịp đập thổn thức của con tim.Còn cái điều thường tình "Giết muỗi chơi"Kia chỉ là cái cớ,cái vật đệm để kê ý tưởng của bài thơ thêm tầm tư tưởng của hiền nhân,quân tử mà thôi!

Với bài thơ "Trời cũ ngày xưa" trong tập thơ Hạt gạo đồng trời, theo tôi,đây là bài thơ hay vào bậc nhất của Nguyễn Tấn Việt.Anh viết về người mẹ đã khuất của mình với lời lẽ trang trọng, thành kính, thao thiết nữa.Cách lập ngôn khúc triết, câu chữ sáng trong như ánh trăng, như nắng trời.Hình tượng người mẹ bình dị, gần gũi vừa huyền bí, linh thiêng:

"Mẹ là người thiên cổ, con mới hiểu buổi chiều
Mẹ gọi sao hôm
Mẹ là ngôi sao lưu lạc
Mẹ là cơn mưa tha phương
Ông bà nuôi cùng nỗi buồn không có tháng giêng
Đón mẹ từ suối khô
Qua mấy làng quê, qua mấy thị thành
Mẹ trụ lại giữa làng ba mặt sóng"nhưng "Hôm nay mẹ đã về trời/Con bước núi chạy sông /Con dầm mưa trải gió/ Nếu còn sao mẹ lại về trời/Con làm sao tìm được quê người/Con làm sao tìm ra quê mẹ/Bốn phương trời không có mây để hỏi/Bốn phương trời không có gió đưa tin/Mẹ về trời rồi con mới nhận ra/Mẹ không giống một ai trên mặt đất/Trong dòng họ không biết buồn" và đây nữa: "Mẹ không như bóng tre, mẹ không hệt bóng đa/Mẹ không bao giờ giàu sang/Mẹ không bao giờ nghèo khó/Nhưng mẹ khác người/Nỗi buồn tìm về trời cũ ngày xưa/Nỗi buồn làm đông lạnh cả dải sương mù/Nỗi buồn đọng lại cả dòng thác đổ/Mẹ lạc ngay trên Tổ Quốc/Mẹ tha phương ngay ở trái tim mình/Con lớn lên nào biết đâu dòng lệ/Bâng khuâng mãi khi được khen giống mẹ/Nhưng con sao lại giống được người/Cái dáng đứng như tạc trên dốc nắng/Cái dáng đi mất hút cánh đồng sương/Nỗi buồn làm cho mẹ/Chỉ sống đời một nửa/Mẹ không sống cuộc đời hai mặt/Mẹ không sống cuộc đời hai chiều/Nửa đời mẹ chẳng ghét được ai/Nửa đời khóc nào có ai thù hận/Nghe cả họ/Nghe cả làng/Khen mẹ sống có sau có trước/Mẹ càng buồn hơn/Càng thương họ hơn/Giọt giọt lệ rơi vào đời giọt ngọc/Nỗi đau buồn thắt lại hoá kim cương",
anh đã khơi mở vào cái điều thiêng liêng của mẹ: "Không biết những ngày sống với nhau, bố đã khóc những gì với mẹ/Bố đã hát những gì với mẹ/Con không dám chạm đến những điều thiêng liêng/Con không dám chạm đến điều bí ẩn...Mẹ phong kín khoảng trời xưa cũ" và anh thảng thốt: "Không biết ngày sinh con mẹ khóc hay mẹ cười/.../Mẹ lảng tìm phía trước ở sau lưng/Giọt sữa đầu tiên lại là giọt lệ/Tiếng ru con đầu tiên lại là tiếng kêu trời/Con không biết mẹ vui hay mẹ buồn/ấm ủ niềm tin hay vô vọng/Con hai mươi còn bé bỏng/Lời ru nào cầm lại cuộc đời con/Con giật mình nhận ra sao hôm sau ngày tang mẹ" Người mẹ ấy cũng thật khác thường: "Hai mươi năm mẹ không dạy con một điều gì", thực ra mẹ không dạy con nhưng lại là một cách dạy đấy. Mẹ lấy im lặng, lấy việc làm, lấy việc ăn ở đức độ...để dạy con nên người. Và anh cũng đã hé mở: "Mẹ không dạy con giàu/Mẹ không dạy con nghèo/Mẹ không dạy con thương thân/ Mẹ không dạy con yêu người khác/Mẹ không dạy con nên người (ai mà chẳng nên người/Không tao nhã thì thành người thô ráp/Không giàu sang thì thành kẻ bần cùng/ Không làm thiện tự dưng làm ác/ Có gì đâu mà chẳng nên người). Mẹ chỉ dặn con một điều: "Là con người không được quên trời cũ" và...

Với bài thơ trời cũ ngày xưa, Nguyễn Tấn Việt đã tạc nên một tượng đài về thơ thật kỳ vĩ về người mẹ. Người mẹ ấy vừa kim vừa cổ, vừa truyền thống vừa tân tiến, vừa thực vừa ảo. Người mẹ ấy vừa có tư tưởng, tâm hồn vừa có dáng vóc thật đẹp đẽ, sang trọng và kiêu sa nữa. Nhà thơ đã tôn vinh những giá trị văn hoá truyền thống bằng một bút pháp linh diệu. Rất may, khi nhập đồng làm thơ nhà thơ không bị lạc trong mê lộ của các thủ pháp thơ mà thung thăng trong cõi minh triết của lẽ đời.

Nếu chỉ đọc qua cái tên bài thơ trong hội nghị thi đua mà suy diễn, người đọc dễ nhầm tưởng anh viết về một đề tài nào đó rất "mỳ ăn liền" nhưng đọc kỹ bài thơ này, cảm giác trên sẽ tan biến như sương sớm mùa hè. Hoá ra cái điều mà thơ nhắm tới lại khác: "Trong hội nghị thi đua/ gặp nhau những lá cờ/ Những kỷ lục, những đỉnh cao...Gặp nhau/Tất cả đều đi hết những con đường/ Khác nhau chông gai/ Khác nhau thác ghềnh/ Hàm giáo sư tóc bạc mấy công trình/ Vị tiến sỹ cao mấy thang bằng cấp/ Vây quanh ông thánh chăn bò/ Ông vua ấp vịt/ Tất cả đều đi hết những con đường/ Anh chuyên gia nuôi phôi thai trong ống nghiệm/ Chị chuyên ngành phẫu thuật nụ cười/ Nhà giáo của rừng sương/ Nhà văn của đảo sóng/ Ôm hôn chàng hạ sỹ quan săn bắt cướp/ Tất cả đều đi hết những con đường/.../ Gặp nhau tất cả/ Trong hội nghị thi đua/ Ngoài cuộc đời cũng thế/ Chỉ những nửa chừng, nửa vời, dang dở/ Không bao giờ gặp nhau". Nếu đề tài vào tay một nhà thơ xoàng thì nó sẽ được trả lại bằng những câu thơ dở. Còn những thi nhân đích thực, đề tài là chỗ vịn để thơ cất cánh. Thực tế là điểm xuất phát, là nơi nhà thơ tức cảnh để đề lên áo người đẹp những vần thơ mang vía hồn của cả một kiếp người.

Với bài thơ Tổ quốc, tác giả viết theo thủ pháp lấy cái nhỏ nói cái lớn, lấy cái khu biệt để nói cái chung, phổ quát. Nhưng thành công hay không? Hiệu quả đến đâu, lại ít phụ thuộc vào kỹ năng, kỹ xảo, được nhà thơ sử dụng mà nó còn phụ thuộc vào độ ngân vang của các câu chữ, đồng thời nó cũng làm rung động trái tim người đọc hay không, mặc dù tác giả tâm đắc?

Những câu thơ "Khoảng thu đông Việt Nam/ Se se tình cố quốc/ Mang mang tình cố hương" trong bài thơ "Khoảng thu đông Viêt Nam" là câu thơ gợi, nó khiến người đọc liên tưởng tới nhiều ý nghĩa ngoài câu chữ của thơ.

Nằm trong vệt bào anh viết thành công gần đây, cũng trong cái mạch ngầm, được anh khơi lộ, trình làng, đó là: Trước khi ta cầm đũa, Chỉ có ở con người, Những người trồng rừng một mình, Thực ra thì họ giống nhau...ở chùm thơ này, Nguyễn Tấn Việt dùng lối nói truyền thống Việt Nam, á Đông nữa, cao hơn, nó là cách ứng xử văn hoá với con người, với đồng loại với thiên nhiên, muôn loài...

Một khía cạnh khác, Nguyễn Tấn Việt đã biết đào sâu vào "vỉa" vô thức, miền nguyên thuỷ của các giác quan, anh truyệt để khai thác phần chìm của "Tảng băng trôi".

"Đêm đêm tôi lại gọi tôi về

Tôi bay quá xa tôi
Nỗi buồn không nhà trọ
Niềm vui không cố hưởng
Vuông là thế mà tròn là thế
Quờ bàn tay chỉ gặp bóng trăng suông
...
...
Tôi quá sức khi phải làm người khác
Nên đêm đêm tôi phải gọi tôi về"

Những phút giây phân thân, giằng xé, day trở, trong tâm tư của nhà thơ trước nhân tình, thế thái, trước thiên nhiên muôn vẻ ngỡ như mông lung, vô định mà vẫn hé rạng một nấc thang, một khoảng trời dồi dào dưỡng khí.

Nguyễn Tấn Việt là người đọc nhiều hiểu rộng, suy xét kỹ nên anh tránh được cái tật của một số "xẩm thơ". Anh trường vốn sống, với trái tim nhạy cảm, với thái độ nghiêm túc trong nghề nghiệp nên mới tạo ra được một thứ thơ của riêng anh: Độc đáo và đặc sắc, rất Nguyễn Tấn Việt. Để tránh lặp lại người khác, lặp lại mình, các nhà thơ là người phải có nhiều nỗ lực, đặc biệt là nỗ lực để vượt qua cái non nớt- dễ dãi của chính anh ta. /.

2002

K.D.H

(*) Tập thơ Hạt gạo đông trời- của Nguyễn Tấn Việt- được tặng thưởng giải B của Hội liên hiệp Văn học- Nghệ thuật Việt Nam năm 2001

Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Mây bay - thảng thốt một niềm thơ

Tác giả: Nguyễn Tấn Việt


Trong một số phẩm chất, thơ Nguyễn Anh Nông có thuộc tính thảng thốt và trong chất thảng thốt ấy lại diễn ra nhiều sắc thái, nhiều cung độ.

Điều dễ nhận thấy trong thơ anh là sự thảng thốt của sự hồn nhiên, nói cách khác anh thảng thốt đến hồn nhiên, hồn nhiến đến thảng thốt. Bài LINH CẢM là một ví dụ, chờ mãi người con gái không tới mà:
"Nhoi nhói trong xương thịt anh
Hau háu đàn kiến đói"

Nếu cảm giác hồn nhiên ấy thiếu sự thảng thốt sẽ rơi vào sự thô thực, như ở một số trường hợp và cứ thế đến cảm động, đến giao cảm:
"Chẳng ham mấy chỉ vàng mười
Chỉ cần em mỉm miệng cười, là xong"
(Tát biển)

Sự đơn giản đến nao lòng vì ngơ ngác và thảng thốt Anh thành công khi sự hồn nhiên được tắm trong cảm xúc.

Anh hồn nhiên, đồng tình và đồng cảm với một thi sỹ nổi tiếng:
"Ước mong rũ bỏ hết
Ta làm anh thợ cày"
(Thơ vui tặng nhà thơ Trần Đăng Khoa)

Nguyễn Anh Nông hồn nhiên đến chân thành:
"Chớ đùa mà...hỏng đất
Vỡ vạc nhầm ruộng ai"

Sự thảng thốt cho anh đôi mắt nhìn đời luôn mới lạ, cái sự lạ ấy thật cần thiết cho công việc sáng tạo văn chương.
Anh hồn nhiên phát hiện:
"Người xa chẳng nhớ mình xa"
(Cánh phượng hồng)

Anh ngơ ngác khi tìm ra:
Ta là ta, là bạn, là mình
Là tất cả nhưng ta là một"
(Độc thoại đêm Đà giang)

Anh đau đáu mà chấp nhận:
"Nhà thơ bỏ thơ đi viết báo...
Rồi, suốt đời vẫn cứ tay không"
(Trâu ơi)

Qua sự hồn nhiên thảng thốt, anh lại sang trạng thái thái quá thảng thốt. Thái quá thường bất cập, nhưng do anh thảng thốt mà thành thơ. Vâng, chính vậy. Do thế mà anh tìm ra được sự liên hệ giữa cái hữu hạn và cái vô hạn bằng cảm xúc:
"Con ta: hai thằng quỷ sứ
Chọc nhau chí choé suốt ngày
Học hành được chăng hay chớ
Chơi bời bát ngát cung mây"
(Nhà ta)

Con ta - quỷ sứ, bát ngát- cung mây: nếu chỉ có một vế thôi hoẳn là rơi vào kiêu bạc, để có cả hai hoặc có cả sự ngơ ngác.

Anh cũng tìm ra cách tương tự khi nói về sự lam làm:
"Vợ ta - vốn cô thôn nữ
Thương chồng con ít ai bằng
Lam làm sớm hôm tất bật
Quên hết mặt trời mặt trăng"
(Nhà ta)

Nếu thiếu sự liên hệ giữa cái bình thường và cái phi thường ấy, đoạn thơ sẽ thành vô lối.
Một số ý kiến cho rằng: Thơ Nguyễn Anh Nông một phía tự sự thường nhật, một phía ngoa ngôn. Vâng, đúng thế, khi nào anh xích hai yếu tố ấy lại bằng sự thảng thốt thì anh thành công. Và chính yếu tố ấy, anh làm được sự kỳ diệu tìm ra được sự tương đồng giữa âm thanh, hương thơm, màu sắc. Ba đại lượng vốn riêng rẽ mà gắn bó hữu cơ trong một câu thơ:
"Tiếng chim gáy thơm hương cốm mới
Nắng chiều buông vi vút gió ngàn".
(Tiếng chim)

Tiếng chim- hương cốm- nắng chiều cứ bảng lảng, lâng lâng xao động thế.
Với trái tim dễ rung động ấy, anh tha hồ triết lý:
"Thế giới có khuôn mặt khác
Ngươi là thánh thần
Ngươi là quỷ ác
Trái tim ngươi bỏng hơn mặt trời"
(Đối thoại cùng mây bay)

Tách bạch lý trí ra thì dễ khô cứng, nhưng Nguyễn Anh Nông lại thành thật mà tìm ra mờ ảo, mơ màng trong thổn thức:
"Em cứ đuổi theo anh như hình bóng
Ta thành người cổ điển lúc yêu nhau"
(Thơ tình lính biển)

Anh ngơ ngác mà tìm ra sự hư vô của vinh quang, hơn nữa sự hư vô của khổ đau:
"Nhớ ngày giỗ anh, tôi về
Chị ngồi gõ mõ thầm thì hư vô
- Chị ơi!
Chị đáp:- Nam mô
A...Di...Đà...Phật! sững sờ bóng quen"
(Cõi thu)

Cái mạnh của Nguyễn Anh Nông là sự ngơ ngác thảng thốt nhưng anh dễ đánh mất nó vì nó hư ảo, thổn thức, may mà anh đã biến nó thành nề, thành nếp nghĩ, nếp cảm, thành thuộc tính.
Câu hỏi của anh để hỏi nhiều thời:
"Ai đen đúa dầm mình trong mực
Đời có trong không có ta không?"
(Đời)

Anh hỏi điều anh đã biết, đã nhận thức quá rõ vì anh bảng lảng. Nói là thành thuộc tính, đôi khi anh cũng quên lãng:
"Hai người lớn tuổi
Rì rầm trên cỏ
Chỉ vì một đứa trẻ con.
(Trên cỏ)

Thời gian gần đây, cùng vốn tri thức và kinh nghiệm, thơ Nguyễn Anh Nông đã khởi sắc, nhưng truyền thống của anh là sự hồn nhiên thảng thốt, hình như tri thức và kinh nghiệm của anh cũng đang nuôi dưỡng thuộc tính ấy của anh.

Nhà thơ Nguyễn Tấn Việt
(Sở Văn hoá- Thông tin tỉnh Hoà Bình)
(*) Mây bay- tập thơ của Nguyễn Anh Nông, xuất bản năm 2000
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook

Bài liên quan

Phùng Khắc Bắc Phùng Khắc Toàn

Phùng Khắc Bắc tên thật là Phùng Khắc Toàn, sinh năm 1944 tại Thạch Thất, Hà Tây, mất năm 1990. Thể loại sáng tác: thơ, truyện ngắn, tiểu thuyết. Các tác phẩm: - Một chấm xanh (1992) - Chiều xuân nắng hanh (1997) - Đời thường - Ngày hoà bình đầu tiên Một chấm xanh (1992)

Huỳnh Văn Hối

Huỳnh Văn Hối sinh ngày 03-06-1984 tại Phú Hiệp, Phú Tân, An Giang. Hiện là sinh viên chuyên ngành Ngữ Văn, mong muốn trở thành một giáo viên.

Hoàng Trúc Ly Đinh Đắc Nghĩa

Hoàng Trúc Ly (1933-1983) tên thật là Đinh Đắc Nghĩa, sinh ngày 14 tháng 4 năm 1933 tại Bình Định. Sau khi đậu bằng tú tài Pháp, ông đã ghi danh vào trường Luật, nhưng chẳng được bao lâu thì bỏ học vì không khí chật hẹp, nóng bức, chẳng thoải mái của các giảng đường. Ông mất vì tai nạn giao thông ...

Trương Trọng Nghĩa

Trương Trọng Nghĩa sinh ngày 25-12-1983, quê tại Chợ Gạo, Tiền Giang, hiện công tác tại Hội Văn học Nghệ thuật Tiền Giang, đại biểu Hội nghị toàn quốc những người viết văn trẻ lần thứ 7. Giải thưởng văn học: Hội Văn học Nghệ thuật Tiền Giang (2000 và 2006), báo Mực Tím (2001), tạp chí Tài Hoa Trẻ ...

Thai Sắc Cái Văn Thái

Thai Sắc (1954-) tên thật là Cái Văn Thái, quê Mai Thuỷ, Lệ Thuỷ, Quảng Bình. Là Chuyên viên Sở giáo dục đào tạo Đồng Tháp. Hội viên Hội nhà văn Việt Nam. Tốt nghiệp THPT năm 1970. Bộ đội (1972-1977). Học khoa văn Đại học Sư phạm Hà Nội (1978-1982). Dạy học từ 1983. Sáng tác từ 1973, bắt đầu đăng ...

Phạm Đình Ân

Phạm Đình Ân nguyên quán ở Nam Định, sinh ngày 2 tháng 10 năm 1946 tại quê ngoại Hà Nam, từng sống nhiều năm ở Thanh Hoá. Ông có thơ đăng báo từ rất sớm. Năm 1972, khi mới là sinh viên ra trường, đi thực tế ở các tỉnh miền Trung, ông đã có một chùm thơ in trên tạp chí Tác phẩm mới của Hội Nhà văn ...

Phạm Thị Vĩnh Hà

Phạm Thị Vĩnh Hà sinh năm 1971, tốt nghiệp khoa tiếng Nga trường Đại học Sư phạm Ngoại ngữ tại Hà Nội, hiện là giáo viên trường THCS Hùng Lô, thành phố Việt Trì, Phú Thọ. Chị được biết tới nhiều qua bài thơ Người đàn bà thứ hai đăng trên báo Phụ nữ Việt Nam năm 1992 khi còn là sinh viên trường Sư ...

Nguyễn Đức Mậu Hương Hải Hưng, Hà Nam Ninh

Nguyễn Đức Mậu sinh năm 1948 tại Nam Ninh, Nam Hà. Các bút danh: Hương Hải Hưng, Hà Nam Ninh. Thể loại sáng tác: thơ, tiểu thuyết, truyện ngắn. Tác phẩm: - Thơ người ra trận (1971) - Cây xanh đất lửa (1973) - Áo trận (1976) - Mưa trong rừng cháy (1976) - Trường ca sư đoàn (1980) - Hoa đỏ nguồn sông ...

Trần Hữu Thung

Trần Hữu Thung (1923-1999) sinh tại quê gốc Diễn Châu, Nghệ An. Tham gia Việt Minh từ 1944. Trong kháng chiến chống Pháp là cán sự văn hóa, cán bộ tuyên truyền. Làm thơ, viết ca dao nhiều từ dạo đó. Trần Hữu Thung có phong cách một nhà thơ dân gian. Thơ đối với ông, những ngày đầu cầm bút, chỉ là ...

Nguyễn Nho Sa Mạc Nguyễn Nho Bửu, Nguyễn Thị Liên Phượng

Nguyễn Nho Sa Mạc tên thật là Nguyễn Nho Bửu, còn có bút hiệu Nguyễn Thị Liên Phượng. Ông sinh năm 1944 tại La Qua, Điện Bàn, Quảng Nam, mất vào 23 tháng Chạp năm 1964 tại bệnh viện Đà Nẵng. Thơ Nguyễn Nho Sa Mạc từ những năm 1960 đã đăng trên các tạp chí: Bách Khoa, Văn học, Mai, Văn... (Sài Gòn). ...

Mới nhất

THPT Đinh Tiên Hoàng

THPT Đinh Tiên Hoàng đang không ngừng nỗ lực phát triển trở thành một ngôi trường với chất lượng giảng dạy tốt nhất, tạo ra những thế hệ học sinh chất lượng

THPT Thực nghiệm

Trường THPT Thực Nghiệm trực thuộc Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam. Trường là cơ sở giáo dục đào tạo công lập trong hệ thống giáo dục quốc dân và trong hệ thống các trường phổ thông của thành phố Hà Nội. Trường dạy học theo chương trình giáo dục Trung học phổ thông của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Tiếp ...

THPT Đông Kinh

Khẩu hiệu hành động: “ Hãy đặt mình vào vị trí cha mẹ học sinh để giảng giải giáo dục và xử lý công việc ” “ Tất cả vì học sinh thân yêu ”

THPT Hà Nội Academy

Những rào cản còn tồn tại kể trên sẽ được vượt qua bởi những công dân toàn cầu tích cực với nhiệm vụ chung tay xây dựng một thế giới tốt đẹp hơn thông qua việc nghiên cứu và tìm kiếm giải pháp cho những vấn đề toàn cầu bao gồm, nhưng không giới hạn ở nhân quyền, đói nghèo và công bằng xã hội. Nhận ...

http://thptkimlien-hanoi.edu.vn/

Qua 40 năm nỗ lực phấn đấu trong các hoạt động giáo dục, vượt khó khăn, thiếu thốn về cơ sở vật chất, trường THPT Kim Liên đã tạo dựn được uy tín vững chắc, là 1 trong 5 trường THPT hàng đầu của Thủ đô có chất lượng giáo dục toàn diện không ngừng nâng cao và trở thành địa chỉ tin cậy của các bậc ...

THPT Tô Hiến Thành

Trường THPT Tô Hiến Thành được thành lập từ năm học 1995-1996, theo quyết định của Ủy Ban nhân dân tỉnh Thanh Hóa. Đến tháng 6/2010, trường chuyển đổi loại hình sang công lập. Suốt 20 năm phát triển, thầy, cô giáo, thế hệ học sinh đã phấn đấu vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, từng bước phát triển ...

THPT Mai Hắc Đế

Trường THPT Mai Hắc Đế được thành lập năm 2009, sau gần 10 năm xây dựng và phát triển, Trường đã trở thành một địa chỉ tin cậy trong đào tạo bậc THPT trên địa bàn Hà Nội.

Trường Trung học phổ thông Nguyễn Gia Thiều

Nhìn lại chặng đường gần 60 năm xây dựng và trưởng thành , các thế hệ giáo viên và học sinh trường Nguyễn Gia Thiều có thể tự hào về truyền thống vẻ vang của trường ; tự hào vì trường đã đóng góp cho đất nước những Anh hùng , liệt sĩ , những người chiến sĩ , nhà khoa học , trí thức , những cán bộ ...

Trường Trung học phổ thông MV.Lô-mô-nô-xốp

Sứ mệnh Xây dựng Hệ thống giáo dục Lômônôxốp có môi trường học tập nền nếp, kỉ cương, chất lượng giáo dục cao; học sinh được giáo dục toàn diện, có cơ hội, điều kiện phát triển phẩm chất, năng lực và tư duy sáng tạo, tự tin hội nhập.

Trường Trung học phổ thông Quốc tế Việt Úc Hà Nội

Trường thực hiện việc giảng dạy và học tập theo chương trình do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành, thực hiện thời gian học tập theo biên chế năm học do Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định. Song song với chương trình này là chương trình học bằng tiếng Anh được giảng dạy bởi đội ngũ giáo viên bản ngữ giàu ...