Nguyễn Lãm Thắng Lam Thuỵ

Nguyễn Lãm Thắng (1973-) vừa là bút danh vừa là tên thật, ngoài ra còn có các bút danh danh khác là Lãm Thắng, Lam Thuỵ và các bút danh viết cho thiếu nhi: Nguyễn Trần Bảo Nghi, Du Lãm, Nhật Quang... Anh sinh ngày 14-8 năm 1973 (Quý Sửu), quê tại làng Tịnh Đông Tây (Hà Dục), Đại Lãnh, Đại Lộc, Quảng Nam. Tốt nghiệp cử nhân văn-hoạ Trường Đại học Sư phạm Huế năm 1998, hiện là giảng viên Khoa Ngữ văn Trường Đại học Sư phạm Huế, là hội viên Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế, trưởng Gia đình Áo trắng Huế. Giải thưởng: - Giải thưởng báo Mực tím (Gửi tới yêu thương) năm 2003 - Giải thưởng Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế 2007 Có thơ đăng ở nhiều tạp chí trung ương và địa phương: Kiến thức ngày nay , Nhân dân , Sông Hương , Tuổi trẻ , Tài hoa trẻ , Áo trắng , Nữ sinh , Mực tím , Nhi đồng , Rùa vàng , Văn nghệ Bình Dương , Văn nghệ Gia Lai , Văn hoá - Thông tin , Thừa Thiên Huế , Đà Nẵng , Tiếp thị gia đình , Nhớ Huế ,… Anh cũng góp mặt trong nhiều thi tuyển. Tác phẩm đã in: - Điệp ngữ tình (NXB Hội Nhà văn, 2007) - Đầu non cuối bãi (NXB Đại học Huế, 2014) Tác phẩm sắp in: - 1008 bài thơ thiếu nhi - Hành trình tiếng vọng (thơ) - Đường thi tuyển dịch Nguyễn Lãm Thắng (1973-) vừa là bút danh vừa là tên thật, ngoài ra còn có các bút danh danh khác là Lãm Thắng, Lam Thuỵ và các bút danh viết cho thiếu nhi: Nguyễn Trần Bảo Nghi, Du Lãm, Nhật Quang... Anh sinh ngày 14-8 năm 1973 (Quý Sửu), quê tại làng Tịnh Đông Tây (Hà Dục), Đại Lãnh, Đại Lộc, Quảng Nam. Tốt nghiệp cử nhân văn-hoạ Trường Đại học Sư phạm Huế năm 1998, hiện là giảng viên Khoa Ngữ văn Trường Đại học Sư phạm Huế, là hội viên Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế, trưởng Gia đình Áo trắng Huế. Giải thưởng: - Giải thưởng báo Mực tím (Gửi tới yêu thương) năm 2003 - Giải thưởng Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế 2007 Có thơ đăng ở nhiều tạp chí trung ương và địa phương: Kiến thức ngày nay , Nhân dân , Sông Hương , Tuổi trẻ , Tài hoa trẻ , Áo trắng ,… 1008 bài thơ thiếu nhi Buổi sáng tự do Chạp qua sông vắng Cho đời biếc xanh Đường xưa Entry tình yêu Gió xao xác khúc điêu linh trên ngàn Hành trình tiếng vọng Hất một tiếng cười Họng đêm (2012) Hồn nhiên áo trắng Khát xưa Lục bát tứ tuyệt Những bài thơ ngắn Những khúc sông buồn trong cõi chết Nứt ra từng vết máu Thức dậy sau cơn bão Thương hoài thương huỷ Tiếng khóc trên đồng Tôi ngồi xâu những âm thanh lại Xướng hoạ thơ Đường Điệp ngữ tình (2007) Đầu non cuối bãi (2014) Nhà thơ Nguyễn Lãm Thắng: Người thơ ở xứ mộng mơn Văn Thành Lê Đăng bởi Nguyễn Lãm Thắng vào 06/10/2016 10:31 Đã sửa 1 lần, lần cuối bởi Admin vào 07/10/2016 07:08 Dẫu có thời lực lượng viết trẻ ở đất Thần Kinh khá hùng hậu, với những cái tên như Phạm Nguyên Tường, Hồ Đăng Thanh Ngọc, Đông Hà, Lê Vĩnh Thái, Lê Tấn Quỳnh, Nguyễn Lãm Thắng, Châu Thu Hà… Tôi cứ cảm giác như các tác giả này mãi không chịu khác đi. Quẩn quanh mãi với "lối xưa xe ngựa hồn thu thảo". Có lẽ Nguyễn Lãm Thắng là cái tên bứt lên được khỏi dàn đồng ca ấy, thoát khỏi lối mòn quen thuộc, và cựa quậy đến cùng với thơ... 1.Huế trước giờ vẫn được xem là xứ sở của thơ. Vua làm thơ. Quan làm thơ. Và dân làm thơ. Một dì bán nước mía ở cầu ngói Thanh Toàn có thể tự biên tự diễn với thơ mình cả ngày không hết. Cố nhà thơ Phương Xích Lô ngoài những cuốc xích lô mưu sinh, rảnh chút là có thơ hay. Dường như ở đây người ta thở cũng có thể ra thơ. Nhiều tác giả không sống với Huế, chỉ đi qua hoặc tương tư thôi, thoáng chốc thôi, cũng để rớt lại cho nền thi ca Việt những tuyệt phẩm. Không tin cứ hỏi trong gia sản thơ của các thi sĩ như Hàn Mặc Tử, Bùi Giáng, Nguyễn Bính, Thu Bồn, Nguyễn Duy... thì rõ ngay. Xuyên suốt chiều dài thời gian, từ Phú Xuân trước đây đến Huế ngày nay, mảnh đất này thiếu gì thì thiếu, chắc chắn không thiếu thi sĩ. Thi sĩ xứng tầm với Huế cố đô, với Huế di sản, với dòng chảy thi ca dân tộc, chứ không phải mức độ thi sĩ bế quan toả cảng đóng cửa bảo nhau. Tuy nhiên, đến thế hệ làm thơ 7X, cho tới lúc này, độ tuổi từ 36 đến 46 rõ ràng đủ để chín nẫu rồi, thì hình như thơ Huế đang bàng bạc đi. Bàng bạc như sương khói dòng Hương lúc chiều xuống từ phía đồi Vọng Cảnh. Dẫu có thời lực lượng viết trẻ ở đất Thần Kinh khá hùng hậu, với những cái tên như Phạm Nguyên Tường, Hồ Đăng Thanh Ngọc, Đông Hà, Lê Vĩnh Thái, Lê Tấn Quỳnh, Nguyễn Lãm Thắng, Châu Thu Hà… Tôi cứ cảm giác như các tác giả này mãi không chịu khác đi. Quẩn quanh mãi với "lối xưa xe ngựa hồn thu thảo". Có lẽ Nguyễn Lãm Thắng là cái tên bứt lên được khỏi dàn đồng ca ấy, thoát khỏi lối mòn quen thuộc, và cựa quậy đến cùng với thơ. 2.Trước khi "cựa quậy", Nguyễn Lãm Thắng được biết đến là một trong những giọng thơ đẹp viết cho học sinh - sinh viên, râm ran với mùa chữ ngọt, cùng Đàm Huy Đông, Bình Nguyên Trang, Đinh Thu Hiền, Đường Hải Yên… Thời gian gần đây, một số hiện tượng thơ trẻ nổi lên, làm thị trường sách vốn ảm đạm trở nên sôi động. Các ấn bản thơ thành best seller. Độc giả trẻ mua ồn ào, đọc ầm ĩ. Nhưng hình như đấy chưa phải là thơ, chỉ là những tản văn/ tản mạn/ suy nghĩ vụn được ngắt câu xuống dòng. Ý nghĩ đơn giản. Câu chữ đơn điệu. Xúc cảm đơn sơ. Đọc vào, cảm giác người viết chưa có lao động chữ. Hay có lao động, mà chưa tới? Thế hệ thơ 7x, trong đó có Nguyễn Lãm Thắng, không thế. Ở họ có lao động chữ, với những câu thơ ngập tràn thi ảnh, giàu xúc cảm và nhạc tính. Có lẽ không mấy sinh viên ngữ văn ở Huế lại không thuộc vài câu thơ trong tập "Điệp ngữ tình", tập thơ đầu tay của Nguyễn Lãm Thắng. Những câu thơ hoặc trong veo hoặc buồn vu vơ của tuổi mới lớn được diễn đạt bằng thứ ngôn từ kĩ càng, chau chuốt, giàu hình ảnh, và lạ hoá vốn từ đã cũ, như: "Anh gom cô đơn nối lại những giọt buồn/ Trong đôi mắt chiêm bao của từng đêm giông bão/ Cái rét gánh tương tư về trong lảo đảo/ Từng giọt mưa trò chuyện với cơn mê", hay "Nơi anh sống lối về thơm hoa cỏ/ Những con đường dung dị không tên/ Anh nằm nghe xanh mùa lên tiếng thở/ Từ trong hồn phố nhỏ thân quen", rồi "Bâng khuâng gió chạm sân trường cũ/ Nắng đã thay mùa xanh biếc xanh/ Con bướm ngày xưa không đến nữa/ Nỗi buồn ghế đá cứ vây quanh, hoặc nữa: "Sợi khói buồn thơm những nụ hôn/ Chiều cướp vội bay theo đàn gió lạ/ Mùa đổi dạ lá run cành hối hả/ Anh khai sinh cho đá giọt thơ mềm" v.v… 3. Thực ra Nguyễn Lãm Thắng không phải người xứ Huế. Huế chỉ là nơi anh an cư. "Học trò trong Quảng ra thi/ Thấy o gái Huế chân đi không đành". Câu ấy trúng phóc với Nguyễn Lãm Thắng. Chàng trai đất Quảng Nam chưa mưa đã thấm làm sinh viên Sư phạm Ngữ văn Huế rồi thành giảng viên trong Khoa, kết duyên với o gái Huế cùng công tác tại Trường Đại học Sư phạm, thế là hết đường lui, cắm dùi ở lại mảnh đất, nói như nhà thơ Thu Bồn, là có "Con sông dùng dằng con sông không chảy/ Sông chảy vào lòng nên Huế rất sâu". Huế. Khúc giữa mềm mại và quyến rũ, trong Nam ra, ngoài Bắc vào, dường như người viết nào cũng một vài lần mắc cạn với mảnh đất này ít nhiều vài ngày. Và ở đấy, Nguyễn Lãm Thắng luôn hết mình với bạn văn nghệ. Mà không chỉ bạn văn nghệ. Cả những sinh viên cũng gần gũi, xem Nguyễn Lãm Thắng như người anh. Nửa đêm gà gáy hay giữa tháng ngâu mưa nhàu mặt mũi, bất cứ lúc nào ới là có anh lăn xả. Tôi nể Nguyễn Lãm Thắng bởi lẽ đó. Và nể anh một thì nể vợ anh mười. Chẳng hiểu sao tôi cứ liên tưởng người vợ Nguyễn Lãm Thắng lấp lánh phẩm cách của vợ các cụ Văn Cao, cụ Phùng Quán, cụ Nguyên Hồng. Nếu không vậy, chắc chắn sẽ không có một Nguyễn Lãm Thắng sống hết mình với bạn và hết mình với thơ. 4. Sau "Điệp ngữ tình", tập thơ đèm đẹp thuở ban đầu lưu luyến ấy, Nguyễn Lãm Thắng cựa mình, lột xác và khác hẳn, như chẳng dây mơ rễ má gì với kiểu thơ áo trắng sân trường trước đây, với tập "Họng đêm". Thơ tự do, bứt phá, cách tân cả về hình thức, ngôn ngữ biểu hiện lẫn chiều sâu suy tưởng. Nhà phê bình trẻ Hoàng Thuỵ Anh nhận định: "Các con chữ sắc ngọt, trương nở qua các công đoạn cắt dán và lắp ghép, hình thành nên những điểm nhô, nhọn, tượng trưng, siêu thực. Do đó, những thi ảnh của "Họng đêm" vừa cất giấu những ám ảnh vô thức, vừa đầy lí trí, gợi nhiều luồng tiếp nhận. (…) Với "Họng đêm", Nguyễn Lãm Thắng thực sự đã minh chứng được vị trí của mình đối với thơ trẻ đương đại." Tiếp nữa là cuộc lội ngược dòng về lục bát, với tập "Đầu non cuối bãi". Đọc 54 bài thơ, tưởng chừng Nguyễn Lãm Thắng làm thơ lục bát chẳng cần chút cố gắng hay đầu tư gì. Cứ tự nhiên như không. Lục bát chảy. Chảy trước mắt Nguyễn Lãm Thắng. Và anh lấy giấy ra hứng. Chảy từ đường phố vào. Chảy từ ngôn ngữ nói vào. Mà ngọt. Mà êm ru. Người đọc dễ vấp phải những câu thơ kiểu ấy, như "Thưa em, anh biết chết liền/ Bàn tay năm ngón làm phiền… bàn tay", hay "Một nghèo cộng với một nghèo/ Níu nhau, ta cõng qua đèo đức tin", rồi "Nắng loang ướt lá bồ đề/ Tiếng chuông đột quỵ bên lề hoàng hôn", và "Trời mang mang, đất mang mang/ Một đêm nằm nhớ văn lang quá trời". Thi sĩ Du Tử Lê gọi Nguyễn Lãm Thắng là "Người thi sĩ trẻ tuổi có những ngôn ngữ đường phố trong lục bát, cho tôi niềm hân hoan. Hạnh phúc. Mới". Từ "Điệp ngữ tình" đến "Họng đêm" rồi "Đầu non cuối bãi", là đi từ mới lớn mộng trắng trong đến cách tân đương đại và trở về làm sáng truyền thống. Nhiều người trẻ đi như vậy, không riêng gì Nguyễn Lãm Thắng. Tất nhiên, trên "lối mòn hoa cỏ" ấy, đi đứng cụ thể ở mỗi người là khác nhau. Nhưng thoát xác, trở lại trong veo với thiếu nhi, thì chưa nhiều nhà thơ làm, và làm có dấu ấn, nhất là vài năm gần đây. Tập thơ "Giấc mơ buổi sáng" gồm 333 bài thơ thiếu nhi của Nguyễn Lãm Thắng khiến nhiều người bật ngửa. Trong trẻo. Hồn nhiên. Dễ thương. Nhiều bài thơ được nhạc sĩ Trương Pháp phổ nhạc, đoạt giải ở các cuộc sáng tác nhạc cho thiếu nhi, trẻ em hát véo von suốt ngày. 5. Sự tài hoa của Nguyễn Lãm Thắng không chỉ toát ra theo bề mặt chữ mà còn toát ra từ… miệng. Trong bất cứ cuộc gặp gỡ vui vẻ nào, chén trước chén sau là anh nói thơ, nói gì cũng câu sáu câu tám. Tất cả đều có thể ca vọng cổ. Giọng Quảng đọc thơ đã hùng hồn, dẫu với nhiều người phải cần phiên dịch, ca vọng cổ lại càng mùi và… cuốn. Hồi tôi còn ở Bà Rịa - Vũng Tàu, hằng năm Nguyễn Lãm Thắng đều vào Cao đẳng Sư phạm Bà Rịa - Vũng Tàu dạy lớp liên thông đại học theo dạng liên kết với Đại học Huế. Mỗi lần anh vào anh em lại ngồi với nhau. Nhâm nhi vài ly. Nhâm nhi chuyện Huế. Nhâm nhi chuyện văn nghệ. Cách Nguyễn Lãm Thắng ngồi giữa bàn nhậu, khiến người xa lạ thành gần gũi, người mới quen thành thân thiết, và người đã biết thành tri kỉ. Thơ văn xoá nhoà mọi khoảng cách. Chữ nghĩa kéo mọi người về cùng một phía. Và Nguyễn Lãm Thắng phiêu bồng theo miền chữ. Sau cùng, tôi muốn nhắc đến mấy câu thơ Nguyễn Lãm Thắng tự hoạ về mình ngay từ thuở ban đầu cầm bút, rằng: "Tôi vẽ mặt tôi với màu da gió rét/ Ngoài kia còi tàu giục giã cuộc đi/ Tôi hong chân dung bằng hơi rượu nóng/ Khói thuốc bềnh bồng mở cõi thiên di…". Đến giờ, sau biết bao lao lung và chấp chới, tôi vẫn tin anh tự hoạ về mình trúng quá. Cuộc đi và thiên di của anh là đi vào thơ và thiên di theo thơ. Bởi vậy, tôi gọi Nguyễn Lãm Thắng là người thơ ở xứ mộng mơ! Văn Thành Lê 08:37 27/09/2016 Nguồn: http://vnca.cand.com.vn/d...-mon-Van-Thanh-Le-409923/ ☆ ☆ ☆ ☆ ☆ Chưa có đánh giá nào Chia sẻ trên Facebook Nguyễn Lãm Thắng và sự sống được nuôi bằng cái chết Đăng bởi Nguyễn Lãm Thắng vào 07/10/2016 23:49 Đã sửa 1 lần, lần cuối bởi Vanachi vào 09/10/2016 16:53 Từ tập thơ đầu tay – Điệp ngữ tình[1] cho đến nay, thơ Nguyễn Lãm Thắng đã có sự lột xác hoàn toàn. Cái giản dị, mộc mạc, đằm thắm giờ đây được hoán đổi bằng những vần thơ tự do, triết lý, bằng những hình ảnh siêu thực, những cuộc kết nối ngôn từ dư ba. Mỗi nhà thơ đều có sở trường, sở đoản trong việc xây dựng hình ảnh thơ. Với Nguyễn Lãm Thắng, anh thường dùng hình ảnh để luận bàn về chính nó. Tìm được hình ảnh mấu chốt trong bài thơ, cơ hội nắm bắt dòng chảy triết lý càng lớn. Tất nhiên, nhà thơ không dễ dàng nói A là A, mà thường khúc xạ A qua nhiều lăng kính. Nhà thơ khúc xạ hình ảnh của mình bao nhiêu thì ý nghĩa mà nó mang đến có thể là vô cùng, nghĩa là hình ảnh không bất động, xơ cứng mà luôn sống động. Hơn nữa, chiều sâu của hình ảnh thơ mới là tấm gương đích thực cho thế giới thực tại. Hình ảnh "trở thành một con đường tắt nối hai thực tại, một đoản mạch loại bỏ những liên hệ duy lý nói lên những nhận thức mới lạ về thế giới hiện tại”[2]. Trong thơ Nguyễn Lãm Thắng, hình ảnh rất phong phú, đa dạng: về biển, về lũ trẻ, về loài côn trùng, về người đàn bà học vẽ, về lăng tẩm, bia mộ... Các hình ảnh đều thấm chất thế sự. Dáng vẻ trong xanh, thơ mộng của con sông bị đẩy lùi bởi lớp trầm tích: xác chết, nhịp thở của gái điếm, cuộc nhậu vô tội vạ... Hình ảnh phố chật chội người, sặc mùi than đá ong, nhà bia nằm chung với rác, inh ỏi còi xe, tiếng rao, nghẹt thở với nhiều công trình... như ngốn hết bầu không. Rừng nguyên sinh nay trở thành đất có chủ. Mọi người được tự do khai phá và kể cả việc làm thẻ đỏ cho rừng. Nhà thơ gọi đó là sự lẫn lộn thật khổng lồ: ta tập mở mắt lần nữa để nhìn thế giới phía giác độ người mù để thấy đằng sau câu chúc tụng là vết đâm tứa máu để thấy từng miếng thời gian gãy khúc trên chiếc lưỡi dối lừa để thấy sự hoài nghi trong từng nụ hôn vài ba giọt rượu lăn lóc trên bầu vú căng phồng sữa độc ngày kéo dài hơn những vở tuồng phù phiếm đêm hoang mang hơn những huyền thoại đen như máu ứ trục đất đang nóng dần trong tim ta máu đang bùng lên ngọn lửa (Máu đang bùng lên ngọn lửa) Các hình ảnh thơ mang giá trị riêng tuỳ theo ý đồ của người nghệ sĩ. Xuyên suốt hành trình thơ tự do của Nguyễn Lãm Thắng, hình ảnh cái chết được lặp đi lặp lại khá nhiều. Chết là quy luật tự nhiên. Không ai thoát khỏi vòng quay nghiệt ngã của số phận. Vấn đề là chúng ta có vượt qua được một cách thoải mái hay không? Vì cuộc đời này chỉ là bến dừng chân, bến đỗ, là cõi tạm, chỉ có thế giới bên kia mới là thực, là vĩnh cửu. Khi ấy chúng ta mới thực sự sống. Nói như nhà soạn nhạc W.A.Mozart: "Tôi cảm ơn chúa đã độ lượng ban cho mình cơ hội để hiểu rằng cái chết là chìa khoá mở cánh cửa dẫn tới chân hạnh phúc”. Viết về cái chết, Nguyễn Lãm Thắng hoàn toàn tự chủ, bản lĩnh : tôi sở hữu hàng ngàn cánh đồng bạt ngàn nỗi buồn và hàng vạn ngôi mộ gió tôi tin vào điều đó như tin vào cái chết của mình vì tôi vĩnh viễn sở hữu cái chết ấy (Sở hữu) Sự tự thức bản ngã giúp anh sở hữu được nó. Nói thế, không phải anh lẫn tránh, lo sợ hay vô trách nhiệm mà thực ra đó là cách anh giữ cho tâm hồn mình không bị hoen rỉ, biến chất trước thế cuộc đầy bất ổn: chiến tranh, thù oán, giả dối... Anh nói đến cái chết để đoạn tuyệt với thế giới rỗng rễnh, lên án, phủ nhận nó. Và anh sẵn sàng đón nhận cái bi thương: tôi biết tiết kiệm những nỗi đau của mình/ để biến nó thành những quả đồi mang hình nấm mộ/ chôn những linh hồn vất vưởng (Tiết kiệm). Hình thức tiết kiệm đặc biệt ấy chỉ có ở những con người giàu lòng trắc ẩn như Nguyễn Lãm Thắng. Thơ ca non giống sẽ chịu số phận chết yểu. Người nghệ sĩ cần sinh những đứa con đủ ngày, đủ tháng. Nếu không, chúng chỉ chóng vánh như cơn mưa rào tháng sáu. Bằng những lời thành tâm, anh bày tỏ chính kiến: bạn đâm vào tim tôi bằng những lời khen ngọt như đường phèn/ bạn bảo tôi hãy sống/ và hồn nhiên sống/ đừng âu lo/ buồn bực/ hãy an phận/ an phận tột cùng/ để ăn tròn ba bữa/ và gắng sức đẻ ra những câu thơ cũ mèm nịnh bợ/ vâng/ cảm ơn bạn/ bạn hãy xem tôi đã chết từ lâu/ thế nhé! (Bạn ảo). Ý thức được sứ mệnh cao cả của người nghệ sĩ, anh xem cái chết của bài thơ cũng chính là cái chết của mình: những con chữ run lên đợi ngọn lửa hoá vàng tôi thắp nghìn chung rượu mời những sinh linh thơ thiếu tháng đã chết trong bào thai sự thật [sự thật thường yểu mệnh hoặc bị chối bỏ như một quái thai] những giọt mưa vấp tiếng kinh cầu nguyện lăn lóc trên linh hồn bạch lạp tôi gục đầu tưởng niệm chính tôi đưa tiễn một phần đời mình xuống mộ! (Khóc cho bài thơ chết non) Cái chết ám ảnh người thơ. Chính anh đã viết: cái chết tồn tại trong ta. Anh chấp nhận, trân trọng và sắp đặt cái chết cho mình. Anh nói về cái chết trong tâm thế vô tư như là sự thách thức, tuyên chiến với cuộc sống này – một cuộc sống hoang hoác, đầy những cạm bẫy. Khi lòng người bị nhiễm mặn/ niềm tin bị xâm thực, anh thành thực: tôi sợ những chuỗi ngày mệt mỏi thừa thải vô tích sự cứ trôi qua như xác chết khổng lồ/ giẫm lên đời tôi (Thêm một ngày kết tủa). Anh thẳng thừng tẩy chay việc lặp lại chính mình: câu thơ mọc sợi tóc buồn trên truông già khi vết cắn/ còn bầm đen của nòi rắn độc/ gió róc cơn mê khủng/ gió xoáy âm khí/ ngày đã chết vào đêm vũng lầy xương trắng trong chiếc hộp bình minh rỗng tuếch/ sự lặp lại đớn hèn! (Câu thơ bung gai giữa ngày không nắng). Vậy, Nguyễn Lãm Thắng không tìm đến cái chết để trốn chạy, lánh đời, ngược lại, nó minh chứng cho sự nổi loạn, dấn thân vào thế giới thực này bằng chính bản ngã của anh. Nói như Albert Camus: Tôi nổi loạn, vậy tôi hiện hữu [3]. Xét theo ý kiến của Camus, có thể coi Nguyễn Lãm Thắng là một thi sĩ nổi loạn. Dùng cái chết để tỏ sự bất mãn và chống lại sự suy về thời cuộc. Điều đó khiến thơ anh có cái bản lĩnh, tố chất của một cái tôi biệt dị và có phần ngông. Mà sự đời cái biệt dị luôn đi liền với cái ngông. Nguyễn Lãm Thắng ngông để bộc bạch cái tôi của mình. Một cái tôi cô đơn, đau đớn đến tột cùng trước thực trạng những tệ nạn của xã hội, song anh không đánh mất chính mình. Sống ở thế giới này mà Nguyễn Lãm Thắng đã với đến được khoảng không gian của thế giới bên kia: ròng rã những tang thương trôi theo từng bước chân mỗi ngày tôi đưa tang một lần mỗi đêm tôi đưa đám tang tôi về khư mộ nơi đó tôi nghe tiếng trẻ khóc oằn trên vũng đói nơi đó tôi nghe âm thanh máu đổ nơi đó tôi nghe bốn mùa tạo hoá chỉ còn một mùa đông rởn xương nơi đó tôi nghe những bi kịch đang hấp hối nơi đó tôi nghe đất và nước quằn quại bi thương bởi căn bệnh ung thư não nơi đó tôi nghe ròng rã tiếng ma cười... (Ròng rã nơi đó...) Từ việc mổ xẻ cái chết của chính mình, nhà thơ phản chiếu hiện thực của thế giới này. Nếu đứng trong cảnh thực để nhìn đời thực có lẽ chưa thể khái quát hết, vì thế, Nguyễn Lãm Thắng đứng trong cõi âm, phóng mình vào cõi âm mà chiếu ra mới thấy hết từng lớp màn sương bao phủ của thế thái nhân tình. Nhờ vị thế ấy, thơ anh trở nên ma quái, hun hút những hố sâu của sự liên tưởng. Người đọc có thể nhận dạng qua một số tiêu đề như: Chiều mọc râu trên hoàng hôn cỏ; Câu thơ bung gai giữa ngày không nắng; Đêm nở ra hoa ấm; Bài hát buồn của bầy chim tổ rách; Tôi nhặt mình trong góc sân nhà thờ; Ở một góc phố câm có cơn mưa điếc... Nhiều câu thơ khai thác hình ảnh siêu thực: trong cuống họng của ánh sáng; đêm hoang mang hơn những huyền thoại đen như máu ứ; bóng đêm gợn lên thuỷ triều đen; tiếng hôn nhảy múa lăn tròn trên ngực em; trên đầu lưỡi ban mai quyện dính những sợi tơ mướt, câu thơ mỏng như cánh ve non trần truồng hơi thở... Câu chữ thơ anh đứt gãy, bị xô lệch trong những trận ngôn từ chắt lọc, vượt khỏi tầm kiểm soát của người đọc. Không chỉ thế, tránh sự đơn điệu khi nói về cái chết, Nguyễn Lãm Thắng còn sử dụng rất nhiều từ cùng trường: cõi tĩnh (những tín hiệu rú lên trong cõi tĩnh), mộ địa (những con đường mộ địa), huyệt mộ (nỗi buồn cứ kéo dài ra khi huyền thoại một loài dơi bay qua huyệt mộ), âm hồn (phố/ như bàn tay âm hồn điên loạn), cô hồn (chiều muộn cô hồn/ bầy chim sẻ hoảng hốt giữa chiêm bao), linh hồn (tôi vác linh hồn xuống dốc), rỉ máu (chập choạng vầng trăng rỉ máu dậy thì), ma (mặt người lẩn vào cơn hen suyễn ma trơi; cái chết vực dậy bóng ma trong suy nghĩ loài người)… Một số dẫn chứng trên đã chứng minh sự tinh tế và tài hoa của một hồn thơ đất Quảng. Dẫu rằng sự sống thơ anh được nuôi dưỡng từ cái chết, là một cõi về cho tôi mầm sống có phần bi thương nhưng là cái bi thương thăng hoa cốt cách, nhân phẩm của người nghệ sĩ. Hơn nữa, quyền năng đặc biệt của nhà thơ, là tạo ra một vật không thể nào có kiểu mẫu (André Frénaud). Trước cám cảnh thế sự, chọn cho mình một lộ trình như thế, Nguyễn Lãm Thắng đã khẳng định phong cách riêng cho mình. Đối với anh, khoảng cách sống và chết, yêu và ghét luôn rạch ròi: câu thơ cõng lời ru trong bể lửa hun từ nước mắt/ lặng lẽ đi/ bia mộ nào khắc ghi được tiếng thở/ bởi hơi thở cuối cùng là di ngôn rạch ròi yêu và ghét (Câu thơ bung gai giữa ngày không nắng). Như vậy, cái chết là kiểu mẫu thiết kế riêng cho thơ Nguyễn Lãm Thắng – một thi sĩ hết mình vì nghệ thuật và cuộc sống. Đồng Hới, ngày 7-6-2011 Hoàng Thuỵ Anh Nguồn: http://vannghedanang.org....tiet.php?id=357&so=30 ☆ ☆ ☆ ☆ ☆ Chưa có đánh giá nào Chia sẻ trên Facebook Thơ Nguyễn Lãm Thắng và những sự thật nghiệt ngã Đăng bởi Nguyễn Lãm Thắng vào 07/10/2016 23:51 Đã sửa 1 lần, lần cuối bởi Vanachi vào 09/10/2016 16:55 Nhà thơ, Thạc sĩ Hán Nôm Nguyễn Lãm Thắng sinh 14/8/1973, Hội viên Hội Nhà văn Thừa Thiên-Huế, Trưởng Gia đình Áo trắng Huế. Hiện anh là Giảng viên Khoa Ngữ văn Trường Đại học sư phạm Huế. Sau khi học xong ĐHSP Huế anh đã từng làm nhiều nghề để kiếm sống, sau đó anh mới về giảng dạy. Chính thời gian anh lăn lộn trong Nam ngoài Bắc để kiếm sống ấy nó đã trở thành vốn sống, vốn kinh nghiệm, thành nguồn cảm xúc, đem đến cho thơ anh một giọng điệu khác lạ, tạo ra một nét phong cách riêng không thể lẫn lộn với bất cứ một nhà thơ nào. Ngay trong chính hành trình thơ của anh cũng có sự chuyển biến, chuyển biến gần như là đối lập. Nếu ở tập thơ đầu tay Điệp ngữ tình (NXB Hội Nhà văn, 2007) những bài thơ mộc mạc, giản dị, da diết về tình yêu và sự sống thì đến những bài thơ anh sáng tác gần đây nó không còn đằm thắm như thế nữa. Ngôn từ giờ đây đã có sự “nổi loạn”- câu thơ ngắn, dài, liền mạch, đứt quãng tạo nên những khoảng lặng, khoảng trống; đôi lúc gây khó hiểu cho người tiếp nhận. Nhưng chính điều này đã tạo nên phong cách và hồn thơ Nguyễn Lãm Thắng, một hồn thơ đau đáu nỗi niềm, một sự ám ảnh của cuộc sống nhân sinh. Tất cả mọi khía cạnh của đời sống xã hội được đưa vào thơ anh ngồn ngộn, dạt dào tuôn chảy theo dòng cảm xúc của một con người có một lối sống nội tâm độc đáo. Đối diện với anh, nói chuyện với anh ta bắt gặp một con người hiền lành, một đôi mắt buồn với cái nhìn xa xăm. Nhưng bao giờ anh cũng nở một nụ cười phúc hậu. Có thể nói ẩn đằng sau nụ cười ấy, đôi mắt ấy là những suy tư, trăn trở, dằn vặt, có cả sự đau đớn của một công dân sống hết mình vì cái đẹp, cái thiện, cái cao cả của cuộc sống này. Bằng cách sử dụng từ ngữ, tứ thơ và những nét mới trong thơ anh, Nguyễn Lãm Thắng đã tạo được một nét dị biệt và có phần ngông. Nói như Hoàng Thuỵ Anh: “Nguyễn Lãm Thắng ngông để bộc lộ cái tôi của mình, một cái tôi cô đơn, đau đớn đến tột cùng trước những thực trạng xã hội, song anh không đánh mất chính mình”. Với đôi mắt nhạy cảm của người nghệ sĩ anh nhìn cuộc sống này ở cả bề rộng lẫn chiều sâu. Bên cạnh những cái tốt đẹp người ta vẫn ca tụng hằng ngày anh còn nhận ra những cái xấu, những mặt trái, sự oái ăm, nghịch lý của cuộc đời. Nhìn cuộc sống ở trần thế này chưa đủ anh đã tự đưa mình vào thế giới cõi âm để nhìn nhận cho toàn vẹn, đủ đầy những tiêu cực, hạn chế, yếu kém, bất công... của cuộc sống thực tại. Vì vậy, hình ảnh cái chết, bia mộ, lăng tẩm được nói đến nhiều trong thơ anh cũng có nguồn cội sâu xa của nó. Đúng như Jakobson nói: “Thơ là sự trở lại hình ảnh, nhịp điệu, cảm xúc... thơ là sự trùng điệp liên tục, điệp trùng gây day dứt, khắc khoải đến đau đớn, nhức nhối hoặc gợi những giấc mơ xa”. Anh nói đến cái chết, sẵn sàng chuẩn bị đón nhận nó không phải là anh lẫn tránh, lo sợ, trốn chạy nó mà theo anh đó là cách tốt nhất để giữ cho tâm hồn không bị hoen rỉ, bào mòn, biến chất trước cuộc sống đầy những biến động, bon chen, cám dỗ và đầy những cạm bẫy! Tôi biết tiết kiệm những nỗi đau của mình để biến nó thành những quả đồi mang hình nấm mộ chôn những linh hồn vất vưởng (Tiết kiệm) Khi lòng người bị nhiễm mặn/ niềm tin bị xâm thực, anh đau xót thốt lên: tôi sợ những chuỗi ngày mệt mỏi thừa thải vô tích sự cứ trôi qua như xác chết khổng lồ/ giẫm lên đời tôi (Thêm một ngày kết tủa) Những sự thật hết sức nghiệt ngã của cuộc sống này đã được nhà thơ phản ánh một cách khá sinh động trên nhiều phương diện, khía cạnh, sự việc. Đó có thể chỉ đơn giản là: một tiếng khóc trên đồng, một dòng sông, một góc phố, những linh hồn trôi, trái tim mùa cũ, trong cơn mưa vội, bài hát buồn của bầy chim tổ rách, lời ru của người cha trẻ, chuyển động của thời gian, những oan hồn hoá đá, bi kịch, trước biển, một chiều nghĩa trang, cỏ mọc thành giếng cũ, một chiều nắng xế miền Trung, có thể nói nhiều về cái không thể nói, thấy lạnh trong hồn... Tất cả đều đi vào thơ anh như là sự giãi bày những cảm xúc, những nỗi lòng, những tâm sự; có lúc đó là những lời độc thoại với chính mình như một sự chiêm nghiệm, suy ngẫm, soi xét... Chỉ ra được như vậy theo tôi đó là một điều rất đáng quý, đáng trân trọng, chỉ ra rõ như thế để chúng ta biết cách mà sửa chữa. Và sửa để mục đích nhằm thanh lọc, loại bỏ, hạn chế, khắc phục cái xấu, cái sai, cái nhược điểm... làm cho cuộc sống ngày càng tiến bộ hơn, ý nghĩa hơn, đáng sống hơn. Dẫu biết rằng, việc anh nói chân xác, thực quá, có lúc gọi đích danh sự việc.... Có người sẽ cho anh là thế này thế nọ. Điều này cũng dễ hiểu vì văn chương vốn dĩ muôn đời là thế, nó phải chịu sự phán xét của bạn đọc, của xã hội, của sự khen chê, những lời ca ngợi hay những quy kết... Nhưng chúng ta tin chắc rằng anh không hề dựng chuyện, tô vẽ thêm mà đó là những sự việc có thật được anh phản ánh bằng thơ. Chẳng hạn trong bài Khi lũ trẻ lớn lên: chúng không biết màu xanh của mùa xuân khát vọng nhưng chúng biết màu xanh của những hình xăm trên ngực trên lưng trên đùi trên rốn trên mông chúng không biết khúc tấu ca mùa hè của loài ve ngàn dặm nhưng chúng biết những nhạc khúc yểu mệnh cùng với ca từ sáo rỗng nhạt phèo như nước ốc chúng không biết lá mùa thu vàng hay đỏ nhưng chúng biết tóc vàng lốm đốm mắt xanh môi đỏ hợm người chúng không biết ruộng đồng ngày mưa tháng nắng ướt dầm mưa đông gió rét nhưng chúng biết say sưa trên cánh đồng web để cày xới game online chát chít sex và “yêu” ...................... rồi chúng lớn lên mơ hồ những địa danh lịch sử mơ hồ nguồn cội Rồng Tiên mơ hồ chính mình mơ hồ trong từng hơi thở bởi sự thật tìm đâu trong lớp lớp mơ hồ? Bài thơ phác hoạ rõ nét những thực tế hết sức đáng buồn của một bộ phận thế hệ trẻ hôm nay- những người được coi là chủ nhân tương lai của đất nước, là lực lượng rường cột của nước nhà. Chính họ có đủ mọi điều kiện để học tập, trau dồi tri thức, làm được nhiều việc có ích khi đang thừa hưởng mọi điều tốt đẹp. Ấy vậy mà họ đã đánh mất đi nhiều thứ, những điều căn bản cần phải có thì họ lại không quan tâm. Ngược lại họ chú ý đến cách ăn chơi đua đòi, xăm mình, nhuộm tóc, học đòi những kẻ côn đồ, đầu đường xó chợ... Chúng có biết đâu nỗi vất vả cơ cực của bố mẹ ông bà? Chúng đã đánh mất đi cái gọi là bản sắc, là truyền thống, là cốt cách, tinh hoa của dân tộc.... Chúng yêu đương theo kiểu mì ăn liền, sống gấp, sống vội và chúng chỉ biết sống để hưởng thụ, sống ngày hôm nay mà không cần biết cho ngày mai! Đau xót biết nhường nào, khi: khi lũ trẻ lớn lên không thèm biết hai từ đất nước chúng chỉ biết tìm cái nghề trong cái nghĩa làm thuê bởi bằng cấp cũng chỉ là món hàng đem ra chợ bán Đất nước hai tiếng ấy nó thiêng liêng làm sao! Ông cha ta mấy nghìn năm nay đã đổ biết bao máu xương cũng vì nó. Vì lòng tự tôn, vì ý thức giống nòi, vì mình là con Rồng cháu Lạc phải sống đúng với lương tâm và trách nhiệm. Ấy vậy mà một bộ phận thanh thiếu niên vì đua đòi ăn chơi lêu lỏng nên bỏ học giữa chừng, thiếu sự quản lý của gia đình, nhà trường và xã hội dẫn đến hậu quả là làm nhiều việc phạm pháp như: cướp giật, đâm chém, nghiện ngập và rất nhiều vụ vi phạm pháp luật đau lòng khác xảy ra...con số thanh thiếu niên phạm tội ngày càng gia tăng. Đó là nỗi đau đấy chứ, gánh nặng đấy chứ? Một sự thật nghiệt ngã nữa đó là việc chạy chức, chạy quyền, mua bằng cấp đã và đang diễn ra. Bằng cấp giống như một món hàng rao bán chợ, bằng Đại học, thậm chí bằng Thạc sĩ, Tiến sĩ cũng được bán! Một bộ phận nhỏ cán bộ vì nhiều lý do cũng tranh thủ kiếm cho mình một cái bằng cho nó “oách” nhằm phòng thân. Có vị đang giữ cương vị chủ chốt ở một vài cơ quan, đơn vị chưa có bằng THPT nhưng đã có đến mấy bằng Đại học. Có vị chưa học một ngày, một giờ nào ở trường vẫn có bằng Tiến sĩ. Một số Tiến sĩ giấy ở nước ta như báo chí đã đưa tin là một minh chứng. Nguyễn Lãm Thắng đã có sự liên tưởng khá thú vị trong “Thí điểm hay trò chơi” từ chuyện những tin nhắn điện thoại tác giả đặt ra nhiều vấn đề lớn cần suy ngẫm về sự thay đổi xoành xoạch của nền giáo dục nước nhà. Vẫn còn đó bệnh thành tích, một căn bệnh mãn tính đã và đang diễn ra ở mọi cấp, mọi ngành và để lại những hậu quả khôn lường... Những cơn đại hồng thuỷ đã cướp đi rất nhiều mạng người hằng năm, những cơn lũ bất chợt từ thượng nguồn đổ về, cảnh tang tóc đau thương, mất đi nhà cửa người thân, người còn may mắn sống sót phải cố bám trụ để mà sống. Thậm chí có những cơn đại hồng thuỷ đi qua, có nơi bị xoá sạch... Cơn hồng thuỷ dồn lên cổ họng mặt đất tắt thở những con sông đồng loã cấu kết dìm kiếp sống những mảnh đời sâu đo Ngọ nguậy trong biển lũ quét và quét chỉ còn lại vạt đất trống không người khóc (Những con sông cướp máu phố phường làng xóm) Vì sao vậy? Rừng thượng nguồn giờ bị tàn phá dữ dội, rừng giờ đã có chủ, người ta đã chặt phá, đốt sạch rừng nguyên sinh để thay vào đó là việc “trồng cây gây rừng”? Nhà thơ gọi đó là: Sự lẫn lộn thật khổng lồ giữa đốt rừng và trồng rừng ........................ núi rừng là của chung cho mọi người dân là nơi kiếm củi, làm rẫy, hái sim, và chôn người thân... mà bây giờ núi rừng quê tôi đã có (thẻ đỏ) dễ hiểu hơn là đã có chủ (Rừng ơi ta khóc cho rừng) Tận trong sâu thẳm tâm hồn, trái tim một con người sống thành tâm anh thảng thốt: Ta tập mở mắt lần nữa để nhìn thế giới phía giác độ người mù để thấy đằng sau câu chúc tụng là vết đâm tứa máu để thấy từng miếng thời gian gãy khúc trên chiếc lưỡi dối lừa để thấy trong sự hoài nghi trong từng nụ hôn vài ba giọt rượu lăn lóc trên bầu vú căng phồng sữa độc ngày kéo dài hơn những vở tường phù phiếm đêm hoang mang hơn những huyền thoại đen như máu ứ trục đất đang nóng dần trong tim ta máu đang bùng lên ngọn lửa (Máu đang bùng lên ngọn lửa) Ta cũng bắt gặp một sự thật, một sự thật quá ư đáng buồn, nói ra đến phát khóc trong Cuối năm và cảm giác tồn vong của lão Q ........................... năm ngoái/ vào dịp tết/ có tiền cứu trợ cho những hộ nghèo đói/ thằng con trai lên xã từ 7 giờ sáng/ trưa quên ăn/ chờ mãi đến chiều/ nghe nói đoàn còn bận phát chẩn ở hai xã khác chưa về/ người nghèo đứng chờ chật cả sân uỷ ban xã/ khói thuốc bay lòng vòng ngột ngạt bao vây kiếp nghèo phận khổ/ rồi 8 giờ tối đoàn mới về/ mấy ông cán bộ còn nạt nộ la lối om sòm/ thôi cứ giả điếc giả câm giả lơ cho qua chuyện/ tội nghiệp đôi dòng nước mắt/ cứ rỉ ra từ hai con mắt đỏ hoe/ đêm nớ có người thức tới 2 giờ sáng mới về đến nhà/ nhận được đồng tiền cũng chảy máu con mắt/ tưởng rứa là êm chuyện/ ngờ đâu/ về nhà/ còn bị mấy chú cán bộ thôn (làng văn hoá) chặt bớt một nửa/ các chú còn doạ/ nếu không “tự nguyện” (chia sẻ) sẽ bị xoá tên khỏi danh sách người nghèo/ đành ngậm đắng nuốt cay mà chấp nhận/ dù chi nghèo cũng đã nghèo rồi/ âu cũng là của bổng trời cho... Có lẽ chúng ta không cần bàn luận nhiều, những gì đã nói trong bài thơ đã rõ. Đau xót quá! Tủi nhục quá! Vẫn là chuyện miếng ăn, vẫn là cảnh đói nghèo thê thảm, vẫn là chuyện cán bộ ăn chặn của dân! Thiết nghĩ, những anh cán bộ như thế có còn là đầy tớ của nhân dân hay nhân dân là đầy tớ? Cán bộ mà đan tâm làm được những việc nhơ nhuốc đó thì làm sao dân tin? Hoá ra chính những việc làm bậy bạ, chính thái độ coi thường nhân dân, coi thường pháp luật, họ đã tự đánh mất danh dự và nhân phẩm chính mình. Ai đã từng đi qua phố chắc chắn sẽ nhìn thấy những hình ảnh mà nhà thơ vẽ nên trong bài Góc phố. Dù rằng có lúc người qua đường sẽ cảm thấy quen thuộc với những hình ảnh, những âm thanh, việc làm ấy! Nhưng với những người có tâm hồn nhạy cảm, những người có trách nhiệm, họ sẽ nghĩ suy gì? Những hình ảnh được phản ánh, được ghi lại trong bài thơ có phải là xã hội thực sự văn minh không? Những câu hỏi lớn đang đặt ra cho nhiều cấp, nhiều ngành, cho ý thức trách nhiệm của từng công dân trước yêu cầu của thời đại. Đến bài Những câu hỏi thầm trong quán nhậu Bao nhiêu tiếng hô một hai ba zô zô zô! bao nhiêu tiếng cười tràn trề gác quán bao nhiêu em gái xinh đẹp hở ngực hở rốn bao nhiêu lời nịnh lời khen lời chê sau lưng bao nhiêu cái bắt tay hờ... và bao nhiêu tờ hoá đơn đỏ? Cũng là một sự thật 100%, nó đang diễn ra hàng ngày hàng giờ quanh ta đây thôi, dù rằng ai cũng biết nhưng lâu rồi cũng trở thành bình thường? Một sự bình thường nhưng lại nhức nhối! bởi đằng sau những cuộc nhậu, cuộc chơi vô tội vạ ấy, những tờ hoá đơn đỏ ấy chính là những sự giả dối, lọc lừa, một cuộc sống đầy những phù phiếm, lố lăng, hoang hoác, hỗn tạp, xô bồ... Họ có biết đâu rằng vẫn còn đó biết bao người dân, bao mảnh đời phải sống trong đói nghèo, vật vã, đau thương? Trước sự biến đổi thế cuộc, những gì là ký ức là kỷ niệm đẹp một thời giờ nó đã trở thành dĩ vãng xa xôi, khó mà tìm lại được. Trong số những ký ức ấy, nhà thơ đau đáu nuối tiếc cho làng xưa của mình: nơi có luỹ tre xanh, có mái đình cổ kính, vòm nâu mái ngói, thờ Thành hoàng làng oai linh lẫm liệt, rất thiêng liêng, nghi ngút khói hương trong những ngày tế lễ xuân thu... Tất cả những điều ấy đã ăn sâu vào máu thịt, vào tiềm thức. Ấy vậy mà: Qua gió bụi thời gian/ nghẹn ngào dâu bể/ làng mất tên/ đình chùa tiêu thổ/ những mả đống gò mồ nghĩa địa... còng lưng vào núi xa/ leo lên mấy đồi mấy dốc/ bia gãy đứt làm đôi/ ma lên ngủ trên đồi/ huyệt mộ nhường cho ngô lúa/ chết rồi hồn phách không yên/ nhường nhà mồ cho dự án quy hoạch cư dân/ cho ruộng đồng cải tạo/ rồi làng không còn làng/ dẫu tên gọi mới là làng- văn- hoá... (Ký hoạ làng) Bên cạnh việc nói đến những hiện thực của đời sống Nguyễn Lãm Thắng còn vẽ lại bức chân dung tự hoạ về mình, về người thân với những gian truân vất vả, khổ đau, buồn vui lẫn lộn và quá khứ đau thương, bi thảm của những năm tháng còn trong khói lửa chiến tranh. Đó là nỗi đau của người cha mù không thấy mặt con ngay lúc chào đời, rồi những năm tháng tuổi thơ của tác giả sống trong nhọc nhằn, tủi cực và đói khát, sự ra đi không bao giờ trở lại của người của những người ruột thịt... Để rồi từng cơn đau thắt ruột lại đến với anh, đã dắt anh vào những giấc ngủ ma/ những giấc ngủ chập chờn nửa mơ nửa thực/ gặp lại người anh ruột/ chết đã mười ba năm vì tai nạn giao thông ở Gò Vấp/ anh gặp lại người em chết đói năm 1977 không gặp mẹ lần cuối cùng/ khi mẹ về Đà Nẵng kiếm từng manh áo rách, bo bo/ anh gặp lại người cha già thương phế hơn 35 năm viết câu thơ lành lặn... (Từng cơn đau thắt ruột) Vốn là một con người giàu lòng trắc ẩn Nguyễn Lãm Thắng chợt nhận ra mình còn nhiều điều dang dở chưa thực hiện được khi tuổi đời đã gần 40! ................ gần bốn mươi năm chưa trọn một giấc mơ tự xé mình ra hai mươi năm mất ngủ từng ngón tay dắt mình vào nấm mộ những huyền thoại cuộc đời bóp nghẹt trái tim đau! gần bốn mươi năm râu tóc trẽn trơ màu ngờ nghệch phố lều bều bao nẻo chợ giọng ly quê nôm nồm lơ lớ ................... băm sáu tuổi đầu len lén ghé tai nghe khuya xao xác dăm tiếng gà gáy muộn và len lén nhìn mây trời gãy vụn thực thực hư hư ảo ảo huyền huyền ................... Rồi còn biết bao nhiêu sự thật nghiệt ngã khác của đời sống này được Nguyễn Lãm Thắng viết thành thơ. Ở đây trong khuôn khổ bài này người viết chỉ lấy một vài dẫn chứng minh hoạ mà thôi. Nhìn chung, những bài thơ anh sáng tác ở giai đoạn sau này hầu như bài nào cũng đề cập đến những mảng hiện thực của cuộc sống đương đại, có sự liên hệ, kết nối giữa quá khứ - hiện tại và tương lai. Nguyễn Lãm Thắng mổ xẻ nó dưới tư cách là người chứng kiến, nhìn thấy, cảm nhận, đau xót, cảm thông... nhiều khi anh ghê tởm và nguyền rủa nó. Chính những mảng tối đó nó ám ảnh anh, ám ảnh thơ anh, tâm hồn anh. Phan Ngọc đã rất có lý khi ông cho rằng: “Văn xuôi là tiếng nói của công việc, thơ là tiếng nói của thân phận con người”. Thơ Nguyễn Lãm Thắng đúng là tiếng nói của thân phận con người. Giữa cõi đời mênh mông, nhiều lúc anh cảm thấy chới với, anh tìm đến cái chết như là sự giải thoát, một sự giữ gìn tâm hồn, cốt cách, danh dự nhân phẩm theo cách của riêng anh. Những phận người bé mọn, những sự việc xảy trong cõi nhân sinh này cũng được anh phản ánh một cách thành thực như chính con tim anh mách bảo. Chúng ta dễ dàng tìm thấy trong thơ anh tần số lặp lại những từ nói về nỗi buồn, cái chết, bia mộ, nỗi đau, tiếng khóc, sự sống và cái chết, sự được mất, có-không, ánh sáng và bóng tối... Do vậy, nhiều bài ngôn từ cũng giản dị, dễ hiểu. Nhưng cũng có nhiều bài có sự so sánh, liên tưởng bất ngờ, thú vị; thậm chí có khi gây sự khó hiểu cho công chúng thưởng thức. Ta có thể liệt kê ra một số nhan đề bài thơ như thế: Ở một góc phố câm có cơn mưa điếc, Câu thơ bung gai giữa ngày không nắng, Tôi nhặt mình trong góc sân nhà thờ, Chiều mọc râu trên hoàng hôn cỏ, Đêm nở ra hoa ấm, Máu đang bùng lên ngọn lửa, Những khúc sông buồn trong cõi chết, trong bình minh đã có nhiều chiếc lá xanh rơi rụng, Bài hát buồn của bầy chim tổ rách... “Cùng với nó là nhiều câu thơ mang hình ảnh siêu thực: trong cuống họng của ánh sáng; đêm hoang mang hơn những huyền thoại đen như ứ máu; bóng đêm gợn lên thuỷ triều đen; tiếng hôn nhảy múa lăn tròn trên ngực em; câu thơ mỏng như cánh ve non trần truồng hơi thở... Câu chữ thơ anh đứt gãy, bị xô lệch trong những trận ngôn từ chắt lọc, vượt khỏi tầm kiểm soát của người đọc” (Hoàng Thuỵ Anh). Hơn bất kỳ thể loại văn học nào khác, thơ tồn tại tính chủ quan của người nghệ sĩ nhiều nhất. Và chính cấp độ tầng bậc của các lớp nghĩa, ý nghĩa, tần số xuất hiện các thuộc tính đã làm nên nét riêng của từng nhà thơ. “:Thơ là một cách tổ chức ngôn ngữ một cách quái đản để bắt người tiếp nhận phải nhớ, phải xúc cảm và phải suy nghĩ do chính hình thức tổ chức này” (Phan Ngọc). Và chính điều này đã làm cho thơ Nguyễn Lãm Thắng có nét dị biệt. Phải là người mẫn cảm và có con mắt tinh đời như anh mới phát hiện ra những điều bất ổn ấy. Những điều chỉ có một con người thực sự yêu con người, yêu thương chính đồng loại, quan tâm đến sự sống này mới có thể nói lên thành thơ tha thiết, day dứt, đau đáu nỗi niềm thế cuộc và để lại những dư âm trong lòng bạn đọc. Phú Yên, tháng 9/2011 Nguyễn Văn Hoà Trường PT cấp 2-3 Xuân Phước, huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên Nguồn: http://tapchivan.com/tin-...-that-nghiet-nga-283.html ☆ ☆ ☆ ☆ ☆ Chưa có đánh giá nào Chia sẻ trên Facebook

Nguyễn Lãm Thắng (1973-) vừa là bút danh vừa là tên thật, ngoài ra còn có các bút danh danh khác là Lãm Thắng, Lam Thuỵ và các bút danh viết cho thiếu nhi: Nguyễn Trần Bảo Nghi, Du Lãm, Nhật Quang... Anh sinh ngày 14-8 năm 1973 (Quý Sửu), quê tại làng Tịnh Đông Tây (Hà Dục), Đại Lãnh, Đại Lộc, Quảng Nam. Tốt nghiệp cử nhân văn-hoạ Trường Đại học Sư phạm Huế năm 1998, hiện là giảng viên Khoa Ngữ văn Trường Đại học Sư phạm Huế, là hội viên Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế, trưởng Gia đình Áo trắng Huế.

Giải thưởng:
- Giải thưởng báo Mực tím (Gửi tới yêu thương) năm 2003
- Giải thưởng Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế 2007

Có thơ đăng ở nhiều tạp chí trung ương và địa phương: Kiến thức ngày nay, Nhân dân, Sông Hương, Tuổi trẻ, Tài hoa trẻ, Áo trắng, Nữ sinh, Mực tím, Nhi đồng, Rùa vàng, Văn nghệ Bình Dương, Văn nghệ Gia Lai, Văn hoá - Thông tin, Thừa Thiên Huế, Đà Nẵng, Tiếp thị gia đình, Nhớ Huế,… Anh cũng góp mặt trong nhiều thi tuyển.

Tác phẩm đã in:
- Điệp ngữ tình (NXB Hội Nhà văn, 2007)
- Đầu non cuối bãi (NXB Đại học Huế, 2014)

Tác phẩm sắp in:
- 1008 bài thơ thiếu nhi
- Hành trình tiếng vọng (thơ)
- Đường thi tuyển dịch
Nguyễn Lãm Thắng (1973-) vừa là bút danh vừa là tên thật, ngoài ra còn có các bút danh danh khác là Lãm Thắng, Lam Thuỵ và các bút danh viết cho thiếu nhi: Nguyễn Trần Bảo Nghi, Du Lãm, Nhật Quang... Anh sinh ngày 14-8 năm 1973 (Quý Sửu), quê tại làng Tịnh Đông Tây (Hà Dục), Đại Lãnh, Đại Lộc, Quảng Nam. Tốt nghiệp cử nhân văn-hoạ Trường Đại học Sư phạm Huế năm 1998, hiện là giảng viên Khoa Ngữ văn Trường Đại học Sư phạm Huế, là hội viên Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế, trưởng Gia đình Áo trắng Huế.

Giải thưởng:
- Giải thưởng báo Mực tím (Gửi tới yêu thương) năm 2003
- Giải thưởng Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế 2007

Có thơ đăng ở nhiều tạp chí trung ương và địa phương: Kiến thức ngày nay, Nhân dân, Sông Hương, Tuổi trẻ, Tài hoa trẻ, Áo trắng,…

1008 bài thơ thiếu nhi

Buổi sáng tự do

Chạp qua sông vắng

Cho đời biếc xanh

Đường xưa

Entry tình yêu

Gió xao xác khúc điêu linh trên ngàn

Hành trình tiếng vọng

Hất một tiếng cười

Họng đêm (2012)

Hồn nhiên áo trắng

Khát xưa

Lục bát tứ tuyệt

Những bài thơ ngắn

Những khúc sông buồn trong cõi chết

Nứt ra từng vết máu

Thức dậy sau cơn bão

Thương hoài thương huỷ

Tiếng khóc trên đồng

Tôi ngồi xâu những âm thanh lại

Xướng hoạ thơ Đường

Điệp ngữ tình (2007)

Đầu non cuối bãi (2014)

 

Ảnh đại diện

Nhà thơ Nguyễn Lãm Thắng: Người thơ ở xứ mộng mơn Văn Thành Lê

Dẫu có thời lực lượng viết trẻ ở đất Thần Kinh khá hùng hậu, với những cái tên như Phạm Nguyên Tường, Hồ Đăng Thanh Ngọc, Đông Hà, Lê Vĩnh Thái, Lê Tấn Quỳnh, Nguyễn Lãm Thắng, Châu Thu Hà… Tôi cứ cảm giác như các tác giả này mãi không chịu khác đi. Quẩn quanh mãi với "lối xưa xe ngựa hồn thu thảo". Có lẽ Nguyễn Lãm Thắng là cái tên bứt lên được khỏi dàn đồng ca ấy, thoát khỏi lối mòn quen thuộc, và cựa quậy đến cùng với thơ...

1.Huế trước giờ vẫn được xem là xứ sở của thơ. Vua làm thơ. Quan làm thơ. Và dân làm thơ. Một dì bán nước mía ở cầu ngói Thanh Toàn có thể tự biên tự diễn với thơ mình cả ngày không hết. Cố nhà thơ Phương Xích Lô ngoài những cuốc xích lô mưu sinh, rảnh chút là có thơ hay.

Dường như ở đây người ta thở cũng có thể ra thơ. Nhiều tác giả không sống với Huế, chỉ đi qua hoặc tương tư thôi, thoáng chốc thôi, cũng để rớt lại cho nền thi ca Việt những tuyệt phẩm. Không tin cứ hỏi trong gia sản thơ của các thi sĩ như Hàn Mặc Tử, Bùi Giáng, Nguyễn Bính, Thu Bồn, Nguyễn Duy... thì rõ ngay.

Xuyên suốt chiều dài thời gian, từ Phú Xuân trước đây đến Huế ngày nay, mảnh đất này thiếu gì thì thiếu, chắc chắn không thiếu thi sĩ. Thi sĩ xứng tầm với Huế cố đô, với Huế di sản, với dòng chảy thi ca dân tộc, chứ không phải mức độ thi sĩ bế quan toả cảng đóng cửa bảo nhau. Tuy nhiên, đến thế hệ làm thơ 7X, cho tới lúc này, độ tuổi từ 36 đến 46 rõ ràng đủ để chín nẫu rồi, thì hình như thơ Huế đang bàng bạc đi. Bàng bạc như sương khói dòng Hương lúc chiều xuống từ phía đồi Vọng Cảnh.

Dẫu có thời lực lượng viết trẻ ở đất Thần Kinh khá hùng hậu, với những cái tên như Phạm Nguyên Tường, Hồ Đăng Thanh Ngọc, Đông Hà, Lê Vĩnh Thái, Lê Tấn Quỳnh, Nguyễn Lãm Thắng, Châu Thu Hà… Tôi cứ cảm giác như các tác giả này mãi không chịu khác đi. Quẩn quanh mãi với "lối xưa xe ngựa hồn thu thảo". Có lẽ Nguyễn Lãm Thắng là cái tên bứt lên được khỏi dàn đồng ca ấy, thoát khỏi lối mòn quen thuộc, và cựa quậy đến cùng với thơ.

2.Trước khi "cựa quậy", Nguyễn Lãm Thắng được biết đến là một trong những giọng thơ đẹp viết cho học sinh - sinh viên, râm ran với mùa chữ ngọt, cùng Đàm Huy Đông, Bình Nguyên Trang, Đinh Thu Hiền, Đường Hải Yên…

Thời gian gần đây, một số hiện tượng thơ trẻ nổi lên, làm thị trường sách vốn ảm đạm trở nên sôi động. Các ấn bản thơ thành best seller. Độc giả trẻ mua ồn ào, đọc ầm ĩ. Nhưng hình như đấy chưa phải là thơ, chỉ là những tản văn/ tản mạn/ suy nghĩ vụn được ngắt câu xuống dòng. Ý nghĩ đơn giản. Câu chữ đơn điệu. Xúc cảm đơn sơ.

Đọc vào, cảm giác người viết chưa có lao động chữ. Hay có lao động, mà chưa tới? Thế hệ thơ 7x, trong đó có Nguyễn Lãm Thắng, không thế. Ở họ có lao động chữ, với những câu thơ ngập tràn thi ảnh, giàu xúc cảm và nhạc tính.

Có lẽ không mấy sinh viên ngữ văn ở Huế lại không thuộc vài câu thơ trong tập "Điệp ngữ tình", tập thơ đầu tay của Nguyễn Lãm Thắng. Những câu thơ hoặc trong veo hoặc buồn vu vơ của tuổi mới lớn được diễn đạt bằng thứ ngôn từ kĩ càng, chau chuốt, giàu hình ảnh, và lạ hoá vốn từ đã cũ, như: "Anh gom cô đơn nối lại những giọt buồn/ Trong đôi mắt chiêm bao của từng đêm giông bão/ Cái rét gánh tương tư về trong lảo đảo/ Từng giọt mưa trò chuyện với cơn mê", hay "Nơi anh sống lối về thơm hoa cỏ/ Những con đường dung dị không tên/ Anh nằm nghe xanh mùa lên tiếng thở/ Từ trong hồn phố nhỏ thân quen", rồi "Bâng khuâng gió chạm sân trường cũ/ Nắng đã thay mùa xanh biếc xanh/ Con bướm ngày xưa không đến nữa/ Nỗi buồn ghế đá cứ vây quanh, hoặc nữa: "Sợi khói buồn thơm những nụ hôn/ Chiều cướp vội bay theo đàn gió lạ/ Mùa đổi dạ lá run cành hối hả/ Anh khai sinh cho đá giọt thơ mềm" v.v…

3. Thực ra Nguyễn Lãm Thắng không phải người xứ Huế. Huế chỉ là nơi anh an cư. "Học trò trong Quảng ra thi/ Thấy o gái Huế chân đi không đành". Câu ấy trúng phóc với Nguyễn Lãm Thắng. Chàng trai đất Quảng Nam chưa mưa đã thấm làm sinh viên Sư phạm Ngữ văn Huế rồi thành giảng viên trong Khoa, kết duyên với o gái Huế cùng công tác tại Trường Đại học Sư phạm, thế là hết đường lui, cắm dùi ở lại mảnh đất, nói như nhà thơ Thu Bồn, là có "Con sông dùng dằng con sông không chảy/ Sông chảy vào lòng nên Huế rất sâu".

Huế. Khúc giữa mềm mại và quyến rũ, trong Nam ra, ngoài Bắc vào, dường như người viết nào cũng một vài lần mắc cạn với mảnh đất này ít nhiều vài ngày. Và ở đấy, Nguyễn Lãm Thắng luôn hết mình với bạn văn nghệ. Mà không chỉ bạn văn nghệ. Cả những sinh viên cũng gần gũi, xem Nguyễn Lãm Thắng như người anh. Nửa đêm gà gáy hay giữa tháng ngâu mưa nhàu mặt mũi, bất cứ lúc nào ới là có anh lăn xả. Tôi nể Nguyễn Lãm Thắng bởi lẽ đó. Và nể anh một thì nể vợ anh mười.

Chẳng hiểu sao tôi cứ liên tưởng người vợ Nguyễn Lãm Thắng lấp lánh phẩm cách của vợ các cụ Văn Cao, cụ Phùng Quán, cụ Nguyên Hồng. Nếu không vậy, chắc chắn sẽ không có một Nguyễn Lãm Thắng sống hết mình với bạn và hết mình với thơ.

4. Sau "Điệp ngữ tình", tập thơ đèm đẹp thuở ban đầu lưu luyến ấy, Nguyễn Lãm Thắng cựa mình, lột xác và khác hẳn, như chẳng dây mơ rễ má gì với kiểu thơ áo trắng sân trường trước đây, với tập "Họng đêm". Thơ tự do, bứt phá, cách tân cả về hình thức, ngôn ngữ biểu hiện lẫn chiều sâu suy tưởng.

Nhà phê bình trẻ Hoàng Thuỵ Anh nhận định: "Các con chữ sắc ngọt, trương nở qua các công đoạn cắt dán và lắp ghép, hình thành nên những điểm nhô, nhọn, tượng trưng, siêu thực. Do đó, những thi ảnh của "Họng đêm" vừa cất giấu những ám ảnh vô thức, vừa đầy lí trí, gợi nhiều luồng tiếp nhận. (…) Với "Họng đêm", Nguyễn Lãm Thắng thực sự đã minh chứng được vị trí của mình đối với thơ trẻ đương đại."


Tiếp nữa là cuộc lội ngược dòng về lục bát, với tập "Đầu non cuối bãi". Đọc 54 bài thơ, tưởng chừng Nguyễn Lãm Thắng làm thơ lục bát chẳng cần chút cố gắng hay đầu tư gì. Cứ tự nhiên như không. Lục bát chảy. Chảy trước mắt Nguyễn Lãm Thắng. Và anh lấy giấy ra hứng. Chảy từ đường phố vào. Chảy từ ngôn ngữ nói vào. Mà ngọt. Mà êm ru.

Người đọc dễ vấp phải những câu thơ kiểu ấy, như "Thưa em, anh biết chết liền/ Bàn tay năm ngón làm phiền… bàn tay", hay "Một nghèo cộng với một nghèo/ Níu nhau, ta cõng qua đèo đức tin", rồi "Nắng loang ướt lá bồ đề/ Tiếng chuông đột quỵ bên lề hoàng hôn", và "Trời mang mang, đất mang mang/ Một đêm nằm nhớ văn lang quá trời". Thi sĩ Du Tử Lê gọi Nguyễn Lãm Thắng là "Người thi sĩ trẻ tuổi có những ngôn ngữ đường phố trong lục bát, cho tôi niềm hân hoan. Hạnh phúc. Mới".

Từ "Điệp ngữ tình" đến "Họng đêm" rồi "Đầu non cuối bãi", là đi từ mới lớn mộng trắng trong đến cách tân đương đại và trở về làm sáng truyền thống. Nhiều người trẻ đi như vậy, không riêng gì Nguyễn Lãm Thắng.

Tất nhiên, trên "lối mòn hoa cỏ" ấy, đi đứng cụ thể ở mỗi người là khác nhau. Nhưng thoát xác, trở lại trong veo với thiếu nhi, thì chưa nhiều nhà thơ làm, và làm có dấu ấn, nhất là vài năm gần đây. Tập thơ "Giấc mơ buổi sáng" gồm 333 bài thơ thiếu nhi của Nguyễn Lãm Thắng khiến nhiều người bật ngửa. Trong trẻo. Hồn nhiên. Dễ thương. Nhiều bài thơ được nhạc sĩ Trương Pháp phổ nhạc, đoạt giải ở các cuộc sáng tác nhạc cho thiếu nhi, trẻ em hát véo von suốt ngày.

5. Sự tài hoa của Nguyễn Lãm Thắng không chỉ toát ra theo bề mặt chữ mà còn toát ra từ… miệng. Trong bất cứ cuộc gặp gỡ vui vẻ nào, chén trước chén sau là anh nói thơ, nói gì cũng câu sáu câu tám. Tất cả đều có thể ca vọng cổ. Giọng Quảng đọc thơ đã hùng hồn, dẫu với nhiều người phải cần phiên dịch, ca vọng cổ lại càng mùi và… cuốn.

Hồi tôi còn ở Bà Rịa - Vũng Tàu, hằng năm Nguyễn Lãm Thắng đều vào Cao đẳng Sư phạm Bà Rịa - Vũng Tàu dạy lớp liên thông đại học theo dạng liên kết với Đại học Huế. Mỗi lần anh vào anh em lại ngồi với nhau. Nhâm nhi vài ly. Nhâm nhi chuyện Huế. Nhâm nhi chuyện văn nghệ. Cách Nguyễn Lãm Thắng ngồi giữa bàn nhậu, khiến người xa lạ thành gần gũi, người mới quen thành thân thiết, và người đã biết thành tri kỉ. Thơ văn xoá nhoà mọi khoảng cách. Chữ nghĩa kéo mọi người về cùng một phía. Và Nguyễn Lãm Thắng phiêu bồng theo miền chữ.

Sau cùng, tôi muốn nhắc đến mấy câu thơ Nguyễn Lãm Thắng tự hoạ về mình ngay từ thuở ban đầu cầm bút, rằng: "Tôi vẽ mặt tôi với màu da gió rét/ Ngoài kia còi tàu giục giã cuộc đi/ Tôi hong chân dung bằng hơi rượu nóng/ Khói thuốc bềnh bồng mở cõi thiên di…". Đến giờ, sau biết bao lao lung và chấp chới, tôi vẫn tin anh tự hoạ về mình trúng quá. Cuộc đi và thiên di của anh là đi vào thơ và thiên di theo thơ. Bởi vậy, tôi gọi Nguyễn Lãm Thắng là người thơ ở xứ mộng mơ!

Văn Thành Lê
08:37 27/09/2016

Nguồn: http://vnca.cand.com.vn/d...-mon-Van-Thanh-Le-409923/
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Nguyễn Lãm Thắng và sự sống được nuôi bằng cái chết

Từ tập thơ đầu tay – Điệp ngữ tình[1] cho đến nay, thơ Nguyễn Lãm Thắng đã có sự lột xác hoàn toàn. Cái giản dị, mộc mạc, đằm thắm giờ đây được hoán đổi bằng những vần thơ tự do, triết lý, bằng những hình ảnh siêu thực, những cuộc kết nối ngôn từ dư ba.

Mỗi nhà thơ đều có sở trường, sở đoản trong việc xây dựng hình ảnh thơ. Với Nguyễn Lãm Thắng, anh thường dùng hình ảnh để luận bàn về chính nó. Tìm được hình ảnh mấu chốt trong bài thơ, cơ hội nắm bắt dòng chảy triết lý càng lớn. Tất nhiên, nhà thơ không dễ dàng nói A là A, mà thường khúc xạ A qua nhiều lăng kính. Nhà thơ khúc xạ hình ảnh của mình bao nhiêu thì ý nghĩa mà nó mang đến có thể là vô cùng, nghĩa là hình ảnh không bất động, xơ cứng mà luôn sống động. Hơn nữa, chiều sâu của hình ảnh thơ mới là tấm gương đích thực cho thế giới thực tại. Hình ảnh "trở thành một con đường tắt nối hai thực tại, một đoản mạch loại bỏ những liên hệ duy lý nói lên những nhận thức mới lạ về thế giới hiện tại”[2]. Trong thơ Nguyễn Lãm Thắng, hình ảnh rất phong phú, đa dạng: về biển, về lũ trẻ, về loài côn trùng, về người đàn bà học vẽ, về lăng tẩm, bia mộ... Các hình ảnh đều thấm chất thế sự. Dáng vẻ trong xanh, thơ mộng của con sông bị đẩy lùi bởi lớp trầm tích: xác chết, nhịp thở của gái điếm, cuộc nhậu vô tội vạ... Hình ảnh phố chật chội người, sặc mùi than đá ong, nhà bia nằm chung với rác, inh ỏi còi xe, tiếng rao, nghẹt thở với nhiều công trình... như ngốn hết bầu không. Rừng nguyên sinh nay trở thành đất có chủ. Mọi người được tự do khai phá và kể cả việc làm thẻ đỏ cho rừng. Nhà thơ gọi đó là sự lẫn lộn thật khổng lồ:
ta tập mở mắt lần nữa để nhìn thế giới phía giác độ người mù
để thấy đằng sau câu chúc tụng là vết đâm tứa máu
để thấy từng miếng thời gian gãy khúc trên chiếc lưỡi dối lừa
để thấy sự hoài nghi trong từng nụ hôn

vài ba giọt rượu lăn lóc trên bầu vú căng phồng sữa độc
ngày kéo dài hơn những vở tuồng phù phiếm
đêm hoang mang hơn những huyền thoại đen như máu ứ
trục đất đang nóng dần trong tim ta
máu đang bùng lên ngọn lửa
(Máu đang bùng lên ngọn lửa)

Các hình ảnh thơ mang giá trị riêng tuỳ theo ý đồ của người nghệ sĩ. Xuyên suốt hành trình thơ tự do của Nguyễn Lãm Thắng, hình ảnh cái chết được lặp đi lặp lại khá nhiều. Chết là quy luật tự nhiên. Không ai thoát khỏi vòng quay nghiệt ngã của số phận. Vấn đề là chúng ta có vượt qua được một cách thoải mái hay không? Vì cuộc đời này chỉ là bến dừng chân, bến đỗ, là cõi tạm, chỉ có thế giới bên kia mới là thực, là vĩnh cửu. Khi ấy chúng ta mới thực sự sống. Nói như nhà soạn nhạc W.A.Mozart: "Tôi cảm ơn chúa đã độ lượng ban cho mình cơ hội để hiểu rằng cái chết là chìa khoá mở cánh cửa dẫn tới chân hạnh phúc”. Viết về cái chết, Nguyễn Lãm Thắng hoàn toàn tự chủ, bản lĩnh :
tôi sở hữu hàng ngàn cánh đồng bạt ngàn nỗi buồn

hàng vạn ngôi mộ gió
tôi tin vào điều đó
như tin vào cái chết của mình

tôi vĩnh viễn sở hữu cái chết ấy
(Sở hữu)

Sự tự thức bản ngã giúp anh sở hữu được nó. Nói thế, không phải anh lẫn tránh, lo sợ hay vô trách nhiệm mà thực ra đó là cách anh giữ cho tâm hồn mình không bị hoen rỉ, biến chất trước thế cuộc đầy bất ổn: chiến tranh, thù oán, giả dối... Anh nói đến cái chết để đoạn tuyệt với thế giới rỗng rễnh, lên án, phủ nhận nó. Và anh sẵn sàng đón nhận cái bi thương: tôi biết tiết kiệm những nỗi đau của mình/ để biến nó thành những quả đồi mang hình nấm mộ/ chôn những linh hồn vất vưởng (Tiết kiệm). Hình thức tiết kiệm đặc biệt ấy chỉ có ở những con người giàu lòng trắc ẩn như Nguyễn Lãm Thắng.

Thơ ca non giống sẽ chịu số phận chết yểu. Người nghệ sĩ cần sinh những đứa con đủ ngày, đủ tháng. Nếu không, chúng chỉ chóng vánh như cơn mưa rào tháng sáu. Bằng những lời thành tâm, anh bày tỏ chính kiến: bạn đâm vào tim tôi bằng những lời khen ngọt như đường phèn/ bạn bảo tôi hãy sống/ và hồn nhiên sống/ đừng âu lo/ buồn bực/ hãy an phận/ an phận tột cùng/ để ăn tròn ba bữa/ và gắng sức đẻ ra những câu thơ cũ mèm nịnh bợ/ vâng/ cảm ơn bạn/ bạn hãy xem tôi đã chết từ lâu/ thế nhé! (Bạn ảo). Ý thức được sứ mệnh cao cả của người nghệ sĩ, anh xem cái chết của bài thơ cũng chính là cái chết của mình:
những con chữ run lên đợi ngọn lửa hoá vàng
tôi thắp nghìn chung rượu
mời những sinh linh thơ thiếu tháng
đã chết trong bào thai sự thật
[sự thật thường yểu mệnh hoặc bị chối bỏ như một quái thai]

những giọt mưa
vấp tiếng kinh cầu nguyện
lăn lóc trên linh hồn bạch lạp
tôi gục đầu
tưởng niệm chính tôi
đưa tiễn một phần đời mình xuống mộ!
(Khóc cho bài thơ chết non)

Cái chết ám ảnh người thơ. Chính anh đã viết: cái chết tồn tại trong ta. Anh chấp nhận, trân trọng và sắp đặt cái chết cho mình. Anh nói về cái chết trong tâm thế vô tư như là sự thách thức, tuyên chiến với cuộc sống này – một cuộc sống hoang hoác, đầy những cạm bẫy. Khi lòng người bị nhiễm mặn/ niềm tin bị xâm thực, anh thành thực: tôi sợ những chuỗi ngày mệt mỏi thừa thải vô tích sự cứ trôi qua như xác chết khổng lồ/ giẫm lên đời tôi (Thêm một ngày kết tủa). Anh thẳng thừng tẩy chay việc lặp lại chính mình: câu thơ mọc sợi tóc buồn trên truông già khi vết cắn/ còn bầm đen của nòi rắn độc/ gió róc cơn mê khủng/ gió xoáy âm khí/ ngày đã chết vào đêm vũng lầy xương trắng trong chiếc hộp bình minh rỗng tuếch/ sự lặp lại đớn hèn! (Câu thơ bung gai giữa ngày không nắng). Vậy, Nguyễn Lãm Thắng không tìm đến cái chết để trốn chạy, lánh đời, ngược lại, nó minh chứng cho sự nổi loạn, dấn thân vào thế giới thực này bằng chính bản ngã của anh. Nói như Albert Camus: Tôi nổi loạn, vậy tôi hiện hữu [3]. Xét theo ý kiến của Camus, có thể coi Nguyễn Lãm Thắng là một thi sĩ nổi loạn. Dùng cái chết để tỏ sự bất mãn và chống lại sự suy về thời cuộc. Điều đó khiến thơ anh có cái bản lĩnh, tố chất của một cái tôi biệt dị và có phần ngông. Mà sự đời cái biệt dị luôn đi liền với cái ngông. Nguyễn Lãm Thắng ngông để bộc bạch cái tôi của mình. Một cái tôi cô đơn, đau đớn đến tột cùng trước thực trạng những tệ nạn của xã hội, song anh không đánh mất chính mình. Sống ở thế giới này mà Nguyễn Lãm Thắng đã với đến được khoảng không gian của thế giới bên kia:
ròng rã những tang thương trôi theo từng bước chân
mỗi ngày tôi đưa tang một lần
mỗi đêm tôi đưa đám tang tôi về khư mộ
nơi đó tôi nghe tiếng trẻ khóc oằn trên vũng đói
nơi đó tôi nghe âm thanh máu đổ
nơi đó tôi nghe bốn mùa tạo hoá chỉ còn một mùa đông rởn xương
nơi đó tôi nghe những bi kịch đang hấp hối
nơi đó tôi nghe đất và nước quằn quại bi thương bởi căn bệnh ung thư não nơi đó tôi nghe ròng rã tiếng ma cười...
(Ròng rã nơi đó...)

Từ việc mổ xẻ cái chết của chính mình, nhà thơ phản chiếu hiện thực của thế giới này. Nếu đứng trong cảnh thực để nhìn đời thực có lẽ chưa thể khái quát hết, vì thế, Nguyễn Lãm Thắng đứng trong cõi âm, phóng mình vào cõi âm mà chiếu ra mới thấy hết từng lớp màn sương bao phủ của thế thái nhân tình. Nhờ vị thế ấy, thơ anh trở nên ma quái, hun hút những hố sâu của sự liên tưởng. Người đọc có thể nhận dạng qua một số tiêu đề như: Chiều mọc râu trên hoàng hôn cỏ; Câu thơ bung gai giữa ngày không nắng; Đêm nở ra hoa ấm; Bài hát buồn của bầy chim tổ rách; Tôi nhặt mình trong góc sân nhà thờ; Ở một góc phố câm có cơn mưa điếc... Nhiều câu thơ khai thác hình ảnh siêu thực: trong cuống họng của ánh sáng; đêm hoang mang hơn những huyền thoại đen như máu ứ; bóng đêm gợn lên thuỷ triều đen; tiếng hôn nhảy múa lăn tròn trên ngực em; trên đầu lưỡi ban mai quyện dính những sợi tơ mướt, câu thơ mỏng như cánh ve non trần truồng hơi thở... Câu chữ thơ anh đứt gãy, bị xô lệch trong những trận ngôn từ chắt lọc, vượt khỏi tầm kiểm soát của người đọc. Không chỉ thế, tránh sự đơn điệu khi nói về cái chết, Nguyễn Lãm Thắng còn sử dụng rất nhiều từ cùng trường: cõi tĩnh (những tín hiệu rú lên trong cõi tĩnh), mộ địa (những con đường mộ địa), huyệt mộ (nỗi buồn cứ kéo dài ra khi huyền thoại một loài dơi bay qua huyệt mộ), âm hồn (phố/ như bàn tay âm hồn điên loạn), cô hồn (chiều muộn cô hồn/ bầy chim sẻ hoảng hốt giữa chiêm bao), linh hồn (tôi vác linh hồn xuống dốc), rỉ máu (chập choạng vầng trăng rỉ máu dậy thì), ma (mặt người lẩn vào cơn hen suyễn ma trơi; cái chết vực dậy bóng ma trong suy nghĩ loài người)… Một số dẫn chứng trên đã chứng minh sự tinh tế và tài hoa của một hồn thơ đất Quảng.

Dẫu rằng sự sống thơ anh được nuôi dưỡng từ cái chết, là một cõi về cho tôi mầm sống có phần bi thương nhưng là cái bi thương thăng hoa cốt cách, nhân phẩm của người nghệ sĩ. Hơn nữa, quyền năng đặc biệt của nhà thơ, là tạo ra một vật không thể nào có kiểu mẫu (André Frénaud). Trước cám cảnh thế sự, chọn cho mình một lộ trình như thế, Nguyễn Lãm Thắng đã khẳng định phong cách riêng cho mình. Đối với anh, khoảng cách sống và chết, yêu và ghét luôn rạch ròi: câu thơ cõng lời ru trong bể lửa hun từ nước mắt/ lặng lẽ đi/ bia mộ nào khắc ghi được tiếng thở/ bởi hơi thở cuối cùng là di ngôn rạch ròi yêu và ghét (Câu thơ bung gai giữa ngày không nắng). Như vậy, cái chết là kiểu mẫu thiết kế riêng cho thơ Nguyễn Lãm Thắng – một thi sĩ hết mình vì nghệ thuật và cuộc sống.

Đồng Hới, ngày 7-6-2011
Hoàng Thuỵ Anh

Nguồn: http://vannghedanang.org....tiet.php?id=357&so=30
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Thơ Nguyễn Lãm Thắng và những sự thật nghiệt ngã

Nhà thơ, Thạc sĩ Hán Nôm Nguyễn Lãm Thắng sinh 14/8/1973, Hội viên Hội Nhà văn Thừa Thiên-Huế, Trưởng Gia đình Áo trắng Huế. Hiện anh là Giảng viên Khoa Ngữ văn Trường Đại học sư phạm Huế.

Sau khi học xong ĐHSP Huế anh đã từng làm nhiều nghề để kiếm sống, sau đó anh mới về giảng dạy. Chính thời gian anh lăn lộn trong Nam ngoài Bắc để kiếm sống ấy nó đã trở thành vốn sống, vốn kinh nghiệm, thành nguồn cảm xúc, đem đến cho thơ anh một giọng điệu khác lạ, tạo ra một nét phong cách riêng không thể lẫn lộn với bất cứ một nhà thơ nào. Ngay trong chính hành trình thơ của anh cũng có sự chuyển biến, chuyển biến gần như là đối lập. Nếu ở tập thơ đầu tay Điệp ngữ tình (NXB Hội Nhà văn, 2007) những bài thơ mộc mạc, giản dị, da diết về tình yêu và sự sống thì đến những bài thơ anh sáng tác gần đây nó không còn đằm thắm như thế nữa. Ngôn từ giờ đây đã có sự “nổi loạn”- câu thơ ngắn, dài, liền mạch, đứt quãng tạo nên những khoảng lặng, khoảng trống; đôi lúc gây khó hiểu cho người tiếp nhận. Nhưng chính điều này đã tạo nên phong cách và hồn thơ Nguyễn Lãm Thắng, một hồn thơ đau đáu nỗi niềm, một sự ám ảnh của cuộc sống nhân sinh. Tất cả mọi khía cạnh của đời sống xã hội được đưa vào thơ anh ngồn ngộn, dạt dào tuôn chảy theo dòng cảm xúc của một con người có một lối sống nội tâm độc đáo.

Đối diện với anh, nói chuyện với anh ta bắt gặp một con người hiền lành, một đôi mắt buồn với cái nhìn xa xăm. Nhưng bao giờ anh cũng nở một nụ cười phúc hậu. Có thể nói ẩn đằng sau nụ cười ấy, đôi mắt ấy là những suy tư, trăn trở, dằn vặt, có cả sự đau đớn của một công dân sống hết mình vì cái đẹp, cái thiện, cái cao cả của cuộc sống này.

Bằng cách sử dụng từ ngữ, tứ thơ và những nét mới trong thơ anh, Nguyễn Lãm Thắng đã tạo được một nét dị biệt và có phần ngông. Nói như Hoàng Thuỵ Anh: “Nguyễn Lãm Thắng ngông để bộc lộ cái tôi của mình, một cái tôi cô đơn, đau đớn đến tột cùng trước những thực trạng xã hội, song anh không đánh mất chính mình”.

Với đôi mắt nhạy cảm của người nghệ sĩ anh nhìn cuộc sống này ở cả bề rộng lẫn chiều sâu. Bên cạnh những cái tốt đẹp người ta vẫn ca tụng hằng ngày anh còn nhận ra những cái xấu, những mặt trái, sự oái ăm, nghịch lý của cuộc đời. Nhìn cuộc sống ở trần thế này chưa đủ anh đã tự đưa mình vào thế giới cõi âm để nhìn nhận cho toàn vẹn, đủ đầy những tiêu cực, hạn chế, yếu kém, bất công... của cuộc sống thực tại.

Vì vậy, hình ảnh cái chết, bia mộ, lăng tẩm được nói đến nhiều trong thơ anh cũng có nguồn cội sâu xa của nó. Đúng như Jakobson nói: “Thơ là sự trở lại hình ảnh, nhịp điệu, cảm xúc... thơ là sự trùng điệp liên tục, điệp trùng gây day dứt, khắc khoải đến đau đớn, nhức nhối hoặc gợi những giấc mơ xa”.

Anh nói đến cái chết, sẵn sàng chuẩn bị đón nhận nó không phải là anh lẫn tránh, lo sợ, trốn chạy nó mà theo anh đó là cách tốt nhất để giữ cho tâm hồn không bị hoen rỉ, bào mòn, biến chất trước cuộc sống đầy những biến động, bon chen, cám dỗ và đầy những cạm bẫy!
Tôi biết tiết kiệm những nỗi đau của mình
để biến nó thành những quả đồi mang hình nấm mộ
chôn những linh hồn vất vưởng
(Tiết kiệm)

Khi lòng người bị nhiễm mặn/ niềm tin bị xâm thực, anh đau xót thốt lên: tôi sợ những chuỗi ngày mệt mỏi thừa thải vô tích sự cứ trôi qua như xác chết khổng lồ/ giẫm lên đời tôi (Thêm một ngày kết tủa) Những sự thật hết sức nghiệt ngã của cuộc sống này đã được nhà thơ phản ánh một cách khá sinh động trên nhiều phương diện, khía cạnh, sự việc. Đó có thể chỉ đơn giản là: một tiếng khóc trên đồng, một dòng sông, một góc phố, những linh hồn trôi, trái tim mùa cũ, trong cơn mưa vội, bài hát buồn của bầy chim tổ rách, lời ru của người cha trẻ, chuyển động của thời gian, những oan hồn hoá đá, bi kịch, trước biển, một chiều nghĩa trang, cỏ mọc thành giếng cũ, một chiều nắng xế miền Trung, có thể nói nhiều về cái không thể nói, thấy lạnh trong hồn...

Tất cả đều đi vào thơ anh như là sự giãi bày những cảm xúc, những nỗi lòng, những tâm sự; có lúc đó là những lời độc thoại với chính mình như một sự chiêm nghiệm, suy ngẫm, soi xét...

Chỉ ra được như vậy theo tôi đó là một điều rất đáng quý, đáng trân trọng, chỉ ra rõ như thế để chúng ta biết cách mà sửa chữa. Và sửa để mục đích nhằm thanh lọc, loại bỏ, hạn chế, khắc phục cái xấu, cái sai, cái nhược điểm... làm cho cuộc sống ngày càng tiến bộ hơn, ý nghĩa hơn, đáng sống hơn.

Dẫu biết rằng, việc anh nói chân xác, thực quá, có lúc gọi đích danh sự việc.... Có người sẽ cho anh là thế này thế nọ. Điều này cũng dễ hiểu vì văn chương vốn dĩ muôn đời là thế, nó phải chịu sự phán xét của bạn đọc, của xã hội, của sự khen chê, những lời ca ngợi hay những quy kết... Nhưng chúng ta tin chắc rằng anh không hề dựng chuyện, tô vẽ thêm mà đó là những sự việc có thật được anh phản ánh bằng thơ.
Chẳng hạn trong bài Khi lũ trẻ lớn lên:
chúng không biết màu xanh của mùa xuân khát vọng
nhưng chúng biết màu xanh của những hình xăm trên ngực trên lưng trên
đùi trên rốn trên mông
chúng không biết khúc tấu ca mùa hè của loài ve ngàn dặm
nhưng chúng biết những nhạc khúc yểu mệnh cùng với ca từ sáo rỗng
nhạt phèo như nước ốc
chúng không biết lá mùa thu vàng hay đỏ
nhưng chúng biết tóc vàng lốm đốm mắt xanh môi đỏ hợm người
chúng không biết ruộng đồng ngày mưa tháng nắng ướt dầm mưa đông gió
rét
nhưng chúng biết say sưa trên cánh đồng web để cày xới game online chát
chít sex và “yêu”

......................
rồi chúng lớn lên
mơ hồ những địa danh lịch sử
mơ hồ nguồn cội Rồng Tiên
mơ hồ chính mình
mơ hồ trong từng hơi thở
bởi sự thật tìm đâu trong lớp lớp mơ hồ?

Bài thơ phác hoạ rõ nét những thực tế hết sức đáng buồn của một bộ phận thế hệ trẻ hôm nay- những người được coi là chủ nhân tương lai của đất nước, là lực lượng rường cột của nước nhà. Chính họ có đủ mọi điều kiện để học tập, trau dồi tri thức, làm được nhiều việc có ích khi đang thừa hưởng mọi điều tốt đẹp. Ấy vậy mà họ đã đánh mất đi nhiều thứ, những điều căn bản cần phải có thì họ lại không quan tâm. Ngược lại họ chú ý đến cách ăn chơi đua đòi, xăm mình, nhuộm tóc, học đòi những kẻ côn đồ, đầu đường xó chợ... Chúng có biết đâu nỗi vất vả cơ cực của bố mẹ ông bà? Chúng đã đánh mất đi cái gọi là bản sắc, là truyền thống, là cốt cách, tinh hoa của dân tộc.... Chúng yêu đương theo kiểu mì ăn liền, sống gấp, sống vội và chúng chỉ biết sống để hưởng thụ, sống ngày hôm nay mà không cần biết cho ngày mai! Đau xót biết nhường nào, khi:
khi lũ trẻ lớn lên không thèm biết hai từ đất nước
chúng chỉ biết tìm cái nghề trong cái nghĩa làm thuê
bởi bằng cấp cũng chỉ là món hàng đem ra chợ bán

Đất nước hai tiếng ấy nó thiêng liêng làm sao! Ông cha ta mấy nghìn năm nay đã đổ biết bao máu xương cũng vì nó. Vì lòng tự tôn, vì ý thức giống nòi, vì mình là con Rồng cháu Lạc phải sống đúng với lương tâm và trách nhiệm. Ấy vậy mà một bộ phận thanh thiếu niên vì đua đòi ăn chơi lêu lỏng nên bỏ học giữa chừng, thiếu sự quản lý của gia đình, nhà trường và xã hội dẫn đến hậu quả là làm nhiều việc phạm pháp như: cướp giật, đâm chém, nghiện ngập và rất nhiều vụ vi phạm pháp luật đau lòng khác xảy ra...con số thanh thiếu niên phạm tội ngày càng gia tăng. Đó là nỗi đau đấy chứ, gánh nặng đấy chứ?

Một sự thật nghiệt ngã nữa đó là việc chạy chức, chạy quyền, mua bằng cấp đã và đang diễn ra. Bằng cấp giống như một món hàng rao bán chợ, bằng Đại học, thậm chí bằng Thạc sĩ, Tiến sĩ cũng được bán!

Một bộ phận nhỏ cán bộ vì nhiều lý do cũng tranh thủ kiếm cho mình một cái bằng cho nó “oách” nhằm phòng thân. Có vị đang giữ cương vị chủ chốt ở một vài cơ quan, đơn vị chưa có bằng THPT nhưng đã có đến mấy bằng Đại học. Có vị chưa học một ngày, một giờ nào ở trường vẫn có bằng Tiến sĩ. Một số Tiến sĩ giấy ở nước ta như báo chí đã đưa tin là một minh chứng.

Nguyễn Lãm Thắng đã có sự liên tưởng khá thú vị trong “Thí điểm hay trò chơi” từ chuyện những tin nhắn điện thoại tác giả đặt ra nhiều vấn đề lớn cần suy ngẫm về sự thay đổi xoành xoạch của nền giáo dục nước nhà.
Vẫn còn đó bệnh thành tích, một căn bệnh mãn tính đã và đang diễn ra ở mọi cấp, mọi ngành và để lại những hậu quả khôn lường...

Những cơn đại hồng thuỷ đã cướp đi rất nhiều mạng người hằng năm, những cơn lũ bất chợt từ thượng nguồn đổ về, cảnh tang tóc đau thương, mất đi nhà cửa người thân, người còn may mắn sống sót phải cố bám trụ để mà sống. Thậm chí có những cơn đại hồng thuỷ đi qua, có nơi bị xoá sạch...
Cơn hồng thuỷ dồn lên cổ họng
mặt đất tắt thở
những con sông đồng loã
cấu kết dìm kiếp sống
những mảnh đời sâu đo
Ngọ nguậy trong biển lũ
quét

quét chỉ còn lại vạt đất trống
không người khóc
(Những con sông cướp máu phố phường làng xóm)

Vì sao vậy? Rừng thượng nguồn giờ bị tàn phá dữ dội, rừng giờ đã có chủ, người ta đã chặt phá, đốt sạch rừng nguyên sinh để thay vào đó là việc “trồng cây gây rừng”? Nhà thơ gọi đó là:
Sự lẫn lộn thật khổng lồ
giữa đốt rừng
và trồng rừng
........................
núi rừng là của chung cho mọi người dân
là nơi kiếm củi, làm rẫy, hái sim, và chôn người thân...
mà bây giờ
núi rừng quê tôi đã có (thẻ đỏ)
dễ hiểu hơn là đã có chủ
(Rừng ơi ta khóc cho rừng)
Tận trong sâu thẳm tâm hồn, trái tim một con người sống thành tâm anh thảng thốt:
Ta tập mở mắt lần nữa để nhìn thế giới phía giác độ người mù
để thấy đằng sau câu chúc tụng là vết đâm tứa máu
để thấy từng miếng thời gian gãy khúc trên chiếc lưỡi dối lừa
để thấy trong sự hoài nghi trong từng nụ hôn

vài ba giọt rượu lăn lóc trên bầu vú căng phồng sữa độc
ngày kéo dài hơn những vở tường phù phiếm
đêm hoang mang hơn những huyền thoại đen như máu ứ
trục đất đang nóng dần trong tim ta
máu đang bùng lên ngọn lửa
(Máu đang bùng lên ngọn lửa)

Ta cũng bắt gặp một sự thật, một sự thật quá ư đáng buồn, nói ra đến phát khóc trong Cuối năm và cảm giác tồn vong của lão Q
...........................

năm ngoái/ vào dịp tết/ có tiền cứu trợ cho những hộ nghèo đói/ thằng con trai lên xã từ 7 giờ sáng/ trưa quên ăn/ chờ mãi đến chiều/ nghe nói đoàn còn bận phát chẩn ở hai xã khác chưa về/ người nghèo đứng chờ chật cả sân uỷ ban xã/ khói thuốc bay lòng vòng ngột ngạt bao vây kiếp nghèo phận khổ/ rồi 8 giờ tối đoàn mới về/ mấy ông cán bộ còn nạt nộ la lối om sòm/ thôi cứ giả điếc giả câm giả lơ cho qua chuyện/ tội nghiệp đôi dòng nước mắt/ cứ rỉ ra từ hai con mắt đỏ hoe/ đêm nớ có người thức tới 2 giờ sáng mới về đến nhà/ nhận được đồng tiền cũng chảy máu con mắt/ tưởng rứa là êm chuyện/ ngờ đâu/ về nhà/ còn bị mấy chú cán bộ thôn (làng văn hoá) chặt bớt một nửa/ các chú còn doạ/ nếu không “tự nguyện” (chia sẻ) sẽ bị xoá tên khỏi danh sách người nghèo/ đành ngậm đắng nuốt cay mà chấp nhận/ dù chi nghèo cũng đã nghèo rồi/ âu cũng là của bổng trời cho...

Có lẽ chúng ta không cần bàn luận nhiều, những gì đã nói trong bài thơ đã rõ. Đau xót quá! Tủi nhục quá! Vẫn là chuyện miếng ăn, vẫn là cảnh đói nghèo thê thảm, vẫn là chuyện cán bộ ăn chặn của dân! Thiết nghĩ, những anh cán bộ như thế có còn là đầy tớ của nhân dân hay nhân dân là đầy tớ? Cán bộ mà đan tâm làm được những việc nhơ nhuốc đó thì làm sao dân tin? Hoá ra chính những việc làm bậy bạ, chính thái độ coi thường nhân dân, coi thường pháp luật, họ đã tự đánh mất danh dự và nhân phẩm chính mình.

Ai đã từng đi qua phố chắc chắn sẽ nhìn thấy những hình ảnh mà nhà thơ vẽ nên trong bài Góc phố. Dù rằng có lúc người qua đường sẽ cảm thấy quen thuộc với những hình ảnh, những âm thanh, việc làm ấy! Nhưng với những người có tâm hồn nhạy cảm, những người có trách nhiệm, họ sẽ nghĩ suy gì?

Những hình ảnh được phản ánh, được ghi lại trong bài thơ có phải là xã hội thực sự văn minh không? Những câu hỏi lớn đang đặt ra cho nhiều cấp, nhiều ngành, cho ý thức trách nhiệm của từng công dân trước yêu cầu của thời đại.

Đến bài Những câu hỏi thầm trong quán nhậu
Bao nhiêu tiếng hô một
hai ba zô zô zô!
bao nhiêu tiếng cười tràn
trề gác quán bao nhiêu
em gái xinh đẹp hở
ngực hở rốn bao nhiêu
lời nịnh lời khen lời
chê sau lưng bao nhiêu
cái bắt tay hờ...
và bao nhiêu tờ hoá đơn đỏ?

Cũng là một sự thật 100%, nó đang diễn ra hàng ngày hàng giờ quanh ta đây thôi, dù rằng ai cũng biết nhưng lâu rồi cũng trở thành bình thường? Một sự bình thường nhưng lại nhức nhối! bởi đằng sau những cuộc nhậu, cuộc chơi vô tội vạ ấy, những tờ hoá đơn đỏ ấy chính là những sự giả dối, lọc lừa, một cuộc sống đầy những phù phiếm, lố lăng, hoang hoác, hỗn tạp, xô bồ... Họ có biết đâu rằng vẫn còn đó biết bao người dân, bao mảnh đời phải sống trong đói nghèo, vật vã, đau thương?

Trước sự biến đổi thế cuộc, những gì là ký ức là kỷ niệm đẹp một thời giờ nó đã trở thành dĩ vãng xa xôi, khó mà tìm lại được. Trong số những ký ức ấy, nhà thơ đau đáu nuối tiếc cho làng xưa của mình: nơi có luỹ tre xanh, có mái đình cổ kính, vòm nâu mái ngói, thờ Thành hoàng làng oai linh lẫm liệt, rất thiêng liêng, nghi ngút khói hương trong những ngày tế lễ xuân thu... Tất cả những điều ấy đã ăn sâu vào máu thịt, vào tiềm thức. Ấy vậy mà:
Qua gió bụi thời gian/ nghẹn ngào dâu bể/ làng mất tên/ đình chùa tiêu thổ/ những mả đống gò mồ nghĩa địa... còng lưng vào núi xa/ leo lên mấy đồi mấy dốc/ bia gãy đứt làm đôi/ ma lên ngủ trên đồi/ huyệt mộ nhường cho ngô lúa/ chết rồi hồn phách không yên/ nhường nhà mồ cho dự án quy hoạch cư dân/ cho ruộng đồng cải tạo/ rồi làng không còn làng/ dẫu tên gọi mới là làng- văn- hoá...
(Ký hoạ làng)
Bên cạnh việc nói đến những hiện thực của đời sống Nguyễn Lãm Thắng còn vẽ lại bức chân dung tự hoạ về mình, về người thân với những gian truân vất vả, khổ đau, buồn vui lẫn lộn và quá khứ đau thương, bi thảm của những năm tháng còn trong khói lửa chiến tranh. Đó là nỗi đau của người cha mù không thấy mặt con ngay lúc chào đời, rồi những năm tháng tuổi thơ của tác giả sống trong nhọc nhằn, tủi cực và đói khát, sự ra đi không bao giờ trở lại của người của những người ruột thịt...

Để rồi từng cơn đau thắt ruột lại đến với anh, đã dắt anh vào những giấc ngủ ma/ những giấc ngủ chập chờn nửa mơ nửa thực/ gặp lại người anh ruột/ chết đã mười ba năm vì tai nạn giao thông ở Gò Vấp/ anh gặp lại người em chết đói năm 1977 không gặp mẹ lần cuối cùng/ khi mẹ về Đà Nẵng kiếm từng manh áo rách, bo bo/ anh gặp lại người cha già thương phế hơn 35 năm viết câu thơ lành lặn... (Từng cơn đau thắt ruột)

Vốn là một con người giàu lòng trắc ẩn Nguyễn Lãm Thắng chợt nhận ra mình còn nhiều điều dang dở chưa thực hiện được khi tuổi đời đã gần 40!
................
gần bốn mươi năm
chưa trọn một giấc mơ
tự xé mình ra
hai mươi năm mất ngủ
từng ngón tay dắt mình vào nấm mộ
những huyền thoại cuộc đời bóp nghẹt trái tim đau!

gần bốn mươi năm
râu tóc trẽn trơ màu
ngờ nghệch phố
lều bều bao nẻo chợ
giọng ly quê
nôm nồm lơ lớ
...................
băm sáu tuổi đầu
len lén ghé tai nghe
khuya xao xác dăm tiếng gà gáy muộn
và len lén nhìn mây trời gãy vụn
thực thực hư hư ảo ảo huyền huyền
...................

Rồi còn biết bao nhiêu sự thật nghiệt ngã khác của đời sống này được Nguyễn Lãm Thắng viết thành thơ. Ở đây trong khuôn khổ bài này người viết chỉ lấy một vài dẫn chứng minh hoạ mà thôi.

Nhìn chung, những bài thơ anh sáng tác ở giai đoạn sau này hầu như bài nào cũng đề cập đến những mảng hiện thực của cuộc sống đương đại, có sự liên hệ, kết nối giữa quá khứ - hiện tại và tương lai.

Nguyễn Lãm Thắng mổ xẻ nó dưới tư cách là người chứng kiến, nhìn thấy, cảm nhận, đau xót, cảm thông... nhiều khi anh ghê tởm và nguyền rủa nó. Chính những mảng tối đó nó ám ảnh anh, ám ảnh thơ anh, tâm hồn anh. Phan Ngọc đã rất có lý khi ông cho rằng: “Văn xuôi là tiếng nói của công việc, thơ là tiếng nói của thân phận con người”. Thơ Nguyễn Lãm Thắng đúng là tiếng nói của thân phận con người. Giữa cõi đời mênh mông, nhiều lúc anh cảm thấy chới với, anh tìm đến cái chết như là sự giải thoát, một sự giữ gìn tâm hồn, cốt cách, danh dự nhân phẩm theo cách của riêng anh. Những phận người bé mọn, những sự việc xảy trong cõi nhân sinh này cũng được anh phản ánh một cách thành thực như chính con tim anh mách bảo. Chúng ta dễ dàng tìm thấy trong thơ anh tần số lặp lại những từ nói về nỗi buồn, cái chết, bia mộ, nỗi đau, tiếng khóc, sự sống và cái chết, sự được mất, có-không, ánh sáng và bóng tối... Do vậy, nhiều bài ngôn từ cũng giản dị, dễ hiểu. Nhưng cũng có nhiều bài có sự so sánh, liên tưởng bất ngờ, thú vị; thậm chí có khi gây sự khó hiểu cho công chúng thưởng thức. Ta có thể liệt kê ra một số nhan đề bài thơ như thế: Ở một góc phố câm có cơn mưa điếc, Câu thơ bung gai giữa ngày không nắng, Tôi nhặt mình trong góc sân nhà thờ, Chiều mọc râu trên hoàng hôn cỏ, Đêm nở ra hoa ấm, Máu đang bùng lên ngọn lửa, Những khúc sông buồn trong cõi chết, trong bình minh đã có nhiều chiếc lá xanh rơi rụng, Bài hát buồn của bầy chim tổ rách... “Cùng với nó là nhiều câu thơ mang hình ảnh siêu thực: trong cuống họng của ánh sáng; đêm hoang mang hơn những huyền thoại đen như ứ máu; bóng đêm gợn lên thuỷ triều đen; tiếng hôn nhảy múa lăn tròn trên ngực em; câu thơ mỏng như cánh ve non trần truồng hơi thở... Câu chữ thơ anh đứt gãy, bị xô lệch trong những trận ngôn từ chắt lọc, vượt khỏi tầm kiểm soát của người đọc” (Hoàng Thuỵ Anh).

Hơn bất kỳ thể loại văn học nào khác, thơ tồn tại tính chủ quan của người nghệ sĩ nhiều nhất. Và chính cấp độ tầng bậc của các lớp nghĩa, ý nghĩa, tần số xuất hiện các thuộc tính đã làm nên nét riêng của từng nhà thơ. “:Thơ là một cách tổ chức ngôn ngữ một cách quái đản để bắt người tiếp nhận phải nhớ, phải xúc cảm và phải suy nghĩ do chính hình thức tổ chức này” (Phan Ngọc). Và chính điều này đã làm cho thơ Nguyễn Lãm Thắng có nét dị biệt.

Phải là người mẫn cảm và có con mắt tinh đời như anh mới phát hiện ra những điều bất ổn ấy. Những điều chỉ có một con người thực sự yêu con người, yêu thương chính đồng loại, quan tâm đến sự sống này mới có thể nói lên thành thơ tha thiết, day dứt, đau đáu nỗi niềm thế cuộc và để lại những dư âm trong lòng bạn đọc.

Phú Yên, tháng 9/2011
Nguyễn Văn Hoà
Trường PT cấp 2-3 Xuân Phước, huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên

Nguồn: http://tapchivan.com/tin-...-that-nghiet-nga-283.html
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook

Bài liên quan

Trần Nghi Hoàng Thông Biện Tiên Sinh

Trần Nghi Hoàng sinh năm 1949 tại Bến Tre. Ông còn có bút hiệu khác là Thông Biện Tiên Sinh. Ông bắt đầu viết từ 14 tuổi. Năm 1966 tác phẩm đầu tay Người tình của đêm được một người bạn lớn tuổi bỏ tiền in nhưng không biết cách phát hành. Trần Nghi Hoàng định cư ở Mỹ từ năm 1975, sinh hoạt trong ...

Trần Anh Đào

Trần Anh Đào (1939-) là nhà viết kịch, nhà thơ, quê ở làng Duyên Hưng, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định. Là giáo viên, hội viên Hội Văn học nghệ thuật Nam Định, hội viên Hội Nhà báo Việt Nam. Tác phẩm: - Lỗi tại em (Kịch, in chung)/ Ty văn hoá Nam Hà, 1974. - Giờ dạy của hiệu trưởng (Kịch, in chung)/ ...

Hồ Đình Phương Phương Nhật Hồ

Hồ Đình Phương (1927-1979) là nhà thơ Việt Nam, đã viết lời cho nhiều bản nhạc của các nhạc sĩ nổi tiếng trước 1975. Ông sinh ngày 1-3-1927 tại Huế, quê Phước Tích, tỉnh Thừa Thiên. Cha là Hồ Văn Huân làm quan triều Nguyễn. Mẹ ông họ Võ, mất sớm lúc ông còn nhỏ. Sau khi đất nước bị chia cắt bởi hiệp ...

Vương Anh Đào

Vương Anh Đào sinh năm 1955 tại Quảng Nam, đã đi dạy học và sinh sống tại thành phố Hồ Chí Minh, thích thơ Đường và thơ lục bát.

Vũ Thanh Hoa

Vũ Thanh Hoa sinh năm 1969 tại Hà Nội, hiện là luật sư, công tác tại Vũng Tàu. Hội viên Hội VHNT tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. Tác phẩm: - Nỗi đau của lá (tập thơ, Nxb Hội Nhà Văn 2006), Giải VHNT Của UBND tỉnh BR-VT năm 2004-2009 - Trong em có người đàn bà khác (tập thơ, Nxb Hội Nhà Văn, 2009) - Người ...

Văn Lê Lê Chí Thuỵ

Nhà thơ Văn Lê tên thật là Lê Chí Thuỵ, sinh ngày 2/3/1949, quê ở Gia Thanh, Gia Viễn, Ninh Bình. Ông nhập ngũ 1966, vào chiến trường B2 năm 1967, về tạp chí Văn Nghệ Quân Giải Phóng năm 1974. Sau 1975, ông công tác ở tuần báo Văn Nghệ Giải Phóng rồi tuần báo Văn Nghệ, Hội Nhà văn Việt Nam. Năm ...

Phạm Trọng Cầu

Phạm Trọng Cầu là nhạc sĩ chuyên về Contrepointiste và Fuguiste. Ông sinh ngày 25 tháng 12 năm 1935 tại Nam Vang (Campuchia), mất năm 1998 tại Sài Gòn. Nguyên quán của ông ở Hà Nội (có nơi chép là Nghệ An). Ông là con trắc địa sư Phạm Văn Lạng và bà Ðào Thị Ngọc Thư vốn người ở Hà Nội sau đổi sang ...

Nguyễn Phi Nguyện

Nguyễn Phi Nguyện (1942-) là nhà thơ Việt Nam quê ở Điện Phong, Điện Bàn (Quảng Nam). Tác phẩm: - Tiếng hát dòng sông (thơ), NXB Văn nghệ, 1993 - Sông ơi và thơ ơi, NXB Văn học, 2013

Ma Xuân Đạo 麻春道

Ma Xuân Đạo 麻春道 (1931-2009) xuất thân là nhà giáo, sinh tại huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình, lớn lên tại khu V, có vốn chữ Nho khá, từng là học trò của cụ Lê Thước. Sau Hiệp định Genève năm 1954, ông vào Sài Gòn và tham gia Đài phát thanh Sài Gòn viết bình luận. Sau năm 1975, ông sống phiêu bạc, ...

Trịnh Bửu Hoài

Trịnh Bửu Hoài sinh ngày 16 tháng 5 năm 1952, quê quán Mỹ Đức, Châu Phú, An Giang, hiện là Chủ tịch Hội Văn nghệ An Giang, Phó Ban công tác Hội Nhà văn Việt Nam tại Đồng bằng sông Cửu Long, thường trú tại thành phố Long Xuyên, An Giang. Ông là hội viên Hội nhà văn Việt Nam, sáng tác từ trước 1966. ...

Mới nhất

THPT Đinh Tiên Hoàng

THPT Đinh Tiên Hoàng đang không ngừng nỗ lực phát triển trở thành một ngôi trường với chất lượng giảng dạy tốt nhất, tạo ra những thế hệ học sinh chất lượng

THPT Thực nghiệm

Trường THPT Thực Nghiệm trực thuộc Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam. Trường là cơ sở giáo dục đào tạo công lập trong hệ thống giáo dục quốc dân và trong hệ thống các trường phổ thông của thành phố Hà Nội. Trường dạy học theo chương trình giáo dục Trung học phổ thông của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Tiếp ...

THPT Đông Kinh

Khẩu hiệu hành động: “ Hãy đặt mình vào vị trí cha mẹ học sinh để giảng giải giáo dục và xử lý công việc ” “ Tất cả vì học sinh thân yêu ”

THPT Hà Nội Academy

Những rào cản còn tồn tại kể trên sẽ được vượt qua bởi những công dân toàn cầu tích cực với nhiệm vụ chung tay xây dựng một thế giới tốt đẹp hơn thông qua việc nghiên cứu và tìm kiếm giải pháp cho những vấn đề toàn cầu bao gồm, nhưng không giới hạn ở nhân quyền, đói nghèo và công bằng xã hội. Nhận ...

http://thptkimlien-hanoi.edu.vn/

Qua 40 năm nỗ lực phấn đấu trong các hoạt động giáo dục, vượt khó khăn, thiếu thốn về cơ sở vật chất, trường THPT Kim Liên đã tạo dựn được uy tín vững chắc, là 1 trong 5 trường THPT hàng đầu của Thủ đô có chất lượng giáo dục toàn diện không ngừng nâng cao và trở thành địa chỉ tin cậy của các bậc ...

THPT Tô Hiến Thành

Trường THPT Tô Hiến Thành được thành lập từ năm học 1995-1996, theo quyết định của Ủy Ban nhân dân tỉnh Thanh Hóa. Đến tháng 6/2010, trường chuyển đổi loại hình sang công lập. Suốt 20 năm phát triển, thầy, cô giáo, thế hệ học sinh đã phấn đấu vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, từng bước phát triển ...

THPT Mai Hắc Đế

Trường THPT Mai Hắc Đế được thành lập năm 2009, sau gần 10 năm xây dựng và phát triển, Trường đã trở thành một địa chỉ tin cậy trong đào tạo bậc THPT trên địa bàn Hà Nội.

Trường Trung học phổ thông Nguyễn Gia Thiều

Nhìn lại chặng đường gần 60 năm xây dựng và trưởng thành , các thế hệ giáo viên và học sinh trường Nguyễn Gia Thiều có thể tự hào về truyền thống vẻ vang của trường ; tự hào vì trường đã đóng góp cho đất nước những Anh hùng , liệt sĩ , những người chiến sĩ , nhà khoa học , trí thức , những cán bộ ...

Trường Trung học phổ thông MV.Lô-mô-nô-xốp

Sứ mệnh Xây dựng Hệ thống giáo dục Lômônôxốp có môi trường học tập nền nếp, kỉ cương, chất lượng giáo dục cao; học sinh được giáo dục toàn diện, có cơ hội, điều kiện phát triển phẩm chất, năng lực và tư duy sáng tạo, tự tin hội nhập.

Trường Trung học phổ thông Quốc tế Việt Úc Hà Nội

Trường thực hiện việc giảng dạy và học tập theo chương trình do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành, thực hiện thời gian học tập theo biên chế năm học do Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định. Song song với chương trình này là chương trình học bằng tiếng Anh được giảng dạy bởi đội ngũ giáo viên bản ngữ giàu ...