06/05/2018, 09:46

Nghị luận xã hội về câu nói: Người chê ta mà chê phải là thầy của ta, người khen ta mà khen phải là bạn ta, những kẻ vuốt ve, nịnh bợ ta chính là kẻ thù của ta vậy – Văn mẫu hay lớp 12

Xem nhanh nội dung Nghị luận xã hội về câu nói: Người chê ta mà chê phải là thầy của ta, người khen ta mà khen phải là bạn ta, những kẻ vuốt ve, nịnh bợ ta chính là kẻ thù của ta vậy – Bài làm 1 của một học sinh giỏi Văn tỉnh Kiên Giang Trong cuộc sống của chúng ta, những ...

Xem nhanh nội dung

Nghị luận xã hội về câu nói: Người chê ta mà chê phải là thầy của ta, người khen ta mà khen phải là bạn ta, những kẻ vuốt ve, nịnh bợ ta chính là kẻ thù của ta vậy – Bài làm 1 của một học sinh giỏi Văn tỉnh Kiên Giang

Trong cuộc sống của chúng ta, những lời khen là vô cùng cẩn thiết để khích lệ, động viên hay khen ngợi ai đó. Lời khen giúp họ cảm thấy tự hào về những việc mình đã làm được và cố gắng làm tốt hơn nữa. Tuy nhiên, những lời khen mang tính chất nịnh bợ thì không tốt chút nào. Tuân Tử đã từng nói: “ Người chê ta mà chê phải là thầy ta, người khen ta mà khen phải là bạn ta, những kẻ vuốt ve, nịnh bợ ta chính là kẻ thù của ta vậy.” Trong câu nói bao gồm ba đối tượng: “Người chê ta”, “người khen ta”, “kẻ vuốt ve, nịnh bợ ta” và vai trò của họ đối với cuộc sống mỗi con người.

“Người chê ta mà chê phải là thầy ta”. Chê, nhưng là chê phải. Đó là những người thấy ta sai và dám chỉ ra cái sai của ta, để từ đó ta rút ra được bài học và sửa chữa sai lầm. Bình thường, chúng ta thường không thích những người chê mình. Tuy nhiên, người khôn ngoan phải là người biết phân biệt đâu là những lời chê có thiện chí. Trong cuộc sống, tất nhiên không thiếu những kẻ ganh ghét, luôn chê bai người khác một cách ác ý. Chúng ta nên biết phân biệt đâu là những lời chê ác ý để bỏ qua, và đâu là những lời chê mang tính góp ý để chúng ta tiến bộ. Một người chỉ khi biết tiếp thu ý kiến của người khác thì mới có thể thành công được. Còn nếu cứ khăng khăng làm theo ý mình, sớm muộn gì người đó cũng sẽ thất bại mà thôi. Chính vì thế, vai trò của những lời “chê phải”, những người dám nói lên những lời chê ấy là vô cùng quan trọng trong cuộc sống của chúng ta. Những người ấy chẳng khác gì thầy ta, giúp ta hiểu ra, học được nhiều điều trong cuộc sống.

Đối tượng thứ hai, là những người khen ta, nhưng tất nhiên, là “khen phải”. Vậy thế nào là khen phải? Đó là những lời khen chân thành, không nhằm vụ lợi cho bản thân mà tâng bốc đối tượng một cách quá đáng. Mục đích của lời khen ấy chỉ là xuất phát từ việc bày tỏ sự ngưỡng mộ, hay khích lệ người được khen. Con người ta luôn có xu hướng muốn được khen, vì những lời khen thường “dễ nghe” hơn những lời chê. Lời khen là quan trọng, có tác dụng giúp con người ta thấy tự hào vì những thứ được khen, tuy nhiên, chúng ta cần biết được đâu là những lời khen thật, đâu là những lời tâng bốc, xu nịnh. Không nên vì được khen quá nhiều mà dẫn đến suy nghĩ mình đã hoàn hảo, từ đó sẽ dẫn đến tự kiêu, không cố gắng, tất sẽ có ngày gặp thất bại. Những người có thể hiểu, có thể khen thật ta, đó chính là những người bạn của ta.

Còn đối tượng cuối cùng, cũng liên quan đến những lời khen, nhưng đó lại là “những kẻ vuốt ve, nịnh bợ”ta, như Tuân Tử nói, đó cũng chính là “kẻ thù của ta”. Những kẻ ấy chỉ nói những lời khen nhằm vụ lợi cho bản thân, chứ không xuất phát từ sự chân thành hay sự ngưỡng mộ đối với người được khen. Những lời khen ấy khiến cho người được khen cảm thấy mình thật tốt đẹp, thật quan trọng, thật vĩ đại, từ đó sẽ không cố gắng và dần dần sẽ bị thua kém so với những người xung quanh. Điều ấy thật nguy hiểm. Và những kẻ xu nịnh ta như vậy, giống như kẻ thù của ta vậy. Họ “giết” ta bằng những lời nịnh bợ, dối trá. Điều chúng ta cần làm là tránh xa, hạn chế giao lưu với những đối tượng ấy trong cuộc sống hàng ngày cũng như trong môi trường học tập, làm việc.

Câu nói của Tuân Tử, từ xưa đến nay, vẫn luôn là bài học sâu sắc và đáng ghi nhớ cho tất cả mọi người trong cuộc sống. Hãy luôn tỉnh táo, để phân biệt được đâu là bạn, đâu là thù, để có thể có được những lời góp ý, lời khen chân thành nhất từ đó có thể hoàn thiện bản thân mình.

Nghị luận xã hội về câu nói: Người chê ta mà chê phải là thầy của ta, người khen ta mà khen phải là bạn ta, những kẻ vuốt ve, nịnh bợ ta chính là kẻ thù của ta vậy – Bài làm 2

Trung Hoa là một trong những cái nôi của văn hoá nhân loại. Từ thời cổ đại, người dân Trung Quốc có quyền tự hào về những bậc học giả, về những người thầy lỗi lạc, uyên bác với những triết lí nhân sinh trở thành chân lý cho mọi thời đại. Tuân Tử là một trong số những bậc vĩ đại ấy. Và câu nói của ông: “ Người chê ta mà chê phải là thầy ta, người khen ta mà khen phải là bạn ta, những kẻ vuốt ve, nịnh bợ là kẻ thù của ta vậy”, cũng đủ cho hậu thế phải suy nghĩ.

Xã hội loài người ngày càng phát triển về kinh tế, về tư tưởng, nhận thức và cũng song hành với phát triển sự phức tạp trong mọi quan hệ đời sống. “ Miệng lưỡi thế gian” là điều không thể tránh khỏi. Mỗi con người sống chung trong đồng loại cần phải biết chấp nhận lời chê tiếng khen của mọi người. Nhưng để nhận biết sự “thật” – “giả” trong mỗi lời khen tiếng chê, để có ứng xử thích hợp, quả không đơn giản. Câu nói của Tuân Tử đã giúp chúng ta cái “kính chiếu yêu” nhận biết đâu là “thầy”, đâu là “bạn”, đâu là “thù” trong cuộc đời đầy phức tạp đó.

Là một con người, kể cả bậc vua chúa, vĩ nhân, trong cuộc sống, thật khó tránh khỏi những sai lầm. Những lúc như thế, hẳn chúng ta nhận được những lời nhận xét của mọi người. Tất yếu, mỗi người khác nhau, sẽ có những nhận xét, thái độ khác nhau về ta. Điều quan trọng là ở chính bản thân ta: biết nhận ra cái đúng, cái sai của mình; quan trọng hơn, trong vô số những lời “khen”, “chê” đó, ta nhận ra ai là “thầy ta”, ai là “bạn ta”, ai là “kẻ thù” của ta vậy!

Lời dạy của Tuân tử thật chí lí: “Người chê ta mà chê đúng là thầy ta, người khen ta mà khen đúng là bạn ta”. Mỗi người, khi phạm điều sai, tự mình không dễ gì nhận ra. Người nhận ra cái sai của ta, lại “chê”- tức khẳng định cái sai của ta và chỉ cho ta biết – hẳn phải là người có tầm tri thức, hiểu biết hơn ta. Người đó xứng đáng là bậc “thầy” của ta về trí tuệ. Hơn thế, người thấy và dám chỉ cho ta nhận ra cái sai của mình, để mình có hướng khắc phục, sửa chữa, hẳn đó phải là người có cái tâm thật cao quý: những muốn cho chúng ta nhanh chóng tiến bộ. Chúng ta, về thái độ, tình cảm không thể không tôn vinh người đó là bậc “thầy” về nhân cách để ta học tập.

Người “khen ta mà khen phải”- nghĩa là người đó không những không đố kị, hiềm khích trước những cái tốt, cái mạnh của ta, mà còn “khen”, cùng chung vui, chia ngọt sẻ bùi…Đó hẳn là người bạn tốt, người bạn tri âm, tri kỉ của ta vậy. Cuộc đời mỗi chúng ta, nếu có được nhiều người “thầy”, người “bạn” như thế thì hạnh phúc biết bao nhiêu.

Tuy nhiên, trong cuộc sống, không phải ai khen hay chê ta đều là “thầy”, là “bạn” của ta. Tuân Tử đã một lần nữa chỉ cho ta biết cách nhận ra “ bộ mặt thật” của những “kẻ” hiểm độc đó. Đó là “kẻ vuốt ve, nịnh bợ ta”, Tuân Tử tỏ thái độ rõ rệt, dứt khoát khi gọi những loại người đó “là kẻ thù của ta vậy”. Nhưng để nhận ra đâu là bạn “khen ta mà khen đúng” với “những kẻ vuốt ve, nịnh bợ” thật không dễ. Trước hết, kẻ vuốt ve, nịnh bợ, họ khen ta là xuất phát mục đích mưu cầu lợi ích riêng của chính họ. Bởi vậy, thành tích của ta chỉ có một, chúng thổi phồng lên ba, bốn hoặc nhiều hơn thế. Thậm chí, có khi chúng còn nguỵ biện, “phù phép” những khuyết điểm, sai lầm của ta thành “thành tích”. Những kẻ đó, luôn lấy việc “nịnh bợ” để tiến thân, khiến cho người được khen ngày càng tự đánh mất mình, xa rời lẽ phải…Thật đáng tiếc là những kẻ đó không thời đại không có. Sử sách đã ghi lại không biết bao nhiêu bậc vua chúa đã bị những kẻ nịnh thần làm cho u mê, dẫn đến hãm hại trung thần, triều chính đổ nát, xã tắc suy vong…Lời dạy của Tuân Tử lại một lần nhắc nhở mỗi chúng ta cần sáng suốt để nhận ra đâu là “bạn ta” khen ta thật lòng; đâu là “kẻ vuốt ve, nịnh bợ” ta.

Không chỉ đúng với xã hội xưa, mà ngày nay và với tất cả mọi người, ở trên mọi lĩnh vực, lời dạy của Tuân Tử như một chiếc kính “chiếu yêu” giúp chúng ta nhận ra người tốt, kẻ xấu trong cuộc sống, trong học tập. Khi kinh tế thị trường mở cửa, thì đội ngũ những kẻ chạy theo lợi nhuận, vì danh, vì lợi ngày càng nhiều. Nhân viên nịnh bợ thủ trưởng, cấp dưới luôn luôn vuốt ve, chiều theo ý cấp trên; các bạn lười học thì xun xoe các bạn học giỏi để cầu “phao cứu trợ” trong thi cử, kiểm tra…Hành động của những kẻ đó có thể khác nhau, nhưng đều chung một bản chất: mưu cầu lợi ích riêng tư. Nhưng bạn cũng vì những hiện tượng đó mà đánh mất niềm tin vào cuộc đời. Bởi người tốt, những người xứng đáng là “thầy ta”, “bạn ta” luôn luôn ở bên ta.

Câu nói của Tuân Tử, cũng là một lời nhắc nhở chí tình, chí lí cho chính mỗi chúng ta trong quan hệ ứng xử với mọi người. Chúng ta muốn mọi người chê ta thật lòng – như Tuân tử đã dạy- ta phải biết coi trọng những người đó như bậc “thầy của ta”. Cũng vậy, với bạn bè, đồng đội, ta phải sống với cái tâm chân thành; dám chỉ ra những khuyết điểm của bạn mà ta nhận thấy, với thức cầu mong cho bạn mình ngày càng hoàn thiện. Mỗi chúng ta cần biết “chia ngọt sẻ bùi"” với bạn bè coi thành tích của bạn làm niềm vui chung cùng chia sẻ.

Nghị luận xã hội về câu nói: Người chê ta mà chê phải là thầy của ta, người khen ta mà khen phải là bạn ta, những kẻ vuốt ve, nịnh bợ ta chính là kẻ thù của ta vậy – Bài làm 3

Tuân Tử ﴾313‐235TCN﴿ còn có tên là Tuân Huống, Tuân Khanh, người có học vấn vô cùng uyên thâm, được tôn vinh là " Đại sư nho học" thời Xuân thu chiến quốc. Ông có một câu nói bất hủ về mối quan hệ giữa nhân dân và vua : "Vua như thuyền, dân như nước, nước dâng thuyền nhưng cũng có thể lật thuyền".

Vốn là một nhà giáo đức trọng tài cao, Tuân Tử cũng từng khuyên đệ tử :

" Người chê ta mà chê phải là thầy của ta; người khen ta mà khen phải là bạn ta; những kẻ vuốt ve, nịnh bợ ta chính là kẻ thù của ta vậy"

Có thể nói đây là một lời dạy, một lời khuyên rất thấm thía, sâu sắc về ba mối quan hệ trong cuộc đời của mỗi người : thầy của ta, bạn của ta, kẻ thù của ta.

Tại sao người chê ta mà chê phải là thầy của ta ? Chữ "chê" trong câu này có nghĩa là đánh giá, nhận xét, khuyên bảo. Chê mà lại là "chê phải", chê đúng có nghĩa là đánh giá, nhận xét, khuyên bảo đúng. Có thể chê về khuyết điểm nào đó về nhân cách, có thể chê về hạn chế trong kiến thức, học vấn. Chê đúng, chê phải là chỉ mong ta sửa chữa, khắc phục sở đoản, nhận ra khuyết điểm để vươn lên, vượt lên hoàn thiện nhân cách, để tài giỏi hơn, tốt đẹp hơn, có sở trường hơn.

Xin để kể vắn tắt một truyện cổ dân gian : Ngày xưa có một họa gia vẽ bộ tứ bình trên lụa về phò mã và công chúa. Bức tranh một : Phò mã cầm tàn che cho công chúa. Bức tranh hai : Phò mã đẩy xe cho công chúa ngắm vườn thượng uyển. Bức tranh ba : Phò mã quạt cho công chúa nằm ngủ. Bức trang bốn : Phò mã đua võng cho công chúa. Ai cũng khen đẹp. Nhưng một hôm có một bác " nhà quê" ăn mặc áo nâu quần nâu, ngắm nhìn bức tranh rồi mỉm cười. Tuy kín đáo nhưng họa sĩ vẫn biết và nhẹ nhàng hỏi :

‐ Bác cười chắc có sự đánh giá ?

‐ Tranh vẽ đẹp lắm. Đúng là tài tử giai nhân hạnh ngộ. Nhưng ….

‐ Nhưng thế nào mong bác chỉ giáo

‐ Tôi e rằng các chi tiết nghệ thuật như cầm tàn, đẩy xe, quạt, đưa võng đã làm cho nhân cách phò mã không được đẹp, được nhã. Kẻ sĩ không nên có cử chỉ ấy.

Nhà danh họa vội bỏ bút lông xuống bàn. Chắp tay vái người khách lạ, rồi cung kính nói : " Đa tạ ! đa tạ ! Lời vàng ngọc…..tôi không bao giờ quên lời chỉ giáo của sư phụ…"

Qua mẩu chuyện nhỏ này, ta càng hiểu thêm lời Tuân Tử: " Người chê ta mà chê phải là thầy của ta". Cũng cần nói rõ hơn "lời chê". Trước mọi lời chê, ta cần xét đến nội dung đúng ‐ sai và động cơ, thái độ của người chê. Có lời chê chỉ châm biếm đả kích, xoi mói….ta cần phải thận trọng, tế nhị và có cách ứng xử hợp lí. Ca dao có câu: " Chuột chù chê khỉ rằng hôi ‐ Khỉ mới trả lời : Cả họ mày thơm !". Âu đó cũng là chuyện đời, cần biết.

Sau lời chê là lời khen. Ta phải tiếp nhận thế nào ? Tại sao người khen ta mà khen phải là bạn ? ‐ Khen phải khen đúng, khen có mức độ vừa phải, khen để động viên, khích lệ ta. Khen vô tư, khen chân tình. Khen như thế rất quý báu, giúp ta vươn lên sống tốt hơn, làm đẹp hơn. Đến bệnh viên thăm người bạn bị đau ốm, có người khen ta sống có tình. Một học sinh cuối năm được tặng giấy khen, được đón nhận phần thưởng, bạn bè xúm lại và khen học giỏi. Một nông dân làm ăn giỏi, trở thành triệu phú, được dân làng khen ngợi…. Đó là những lời khen đúng, khen phải. Người khen muốn được chia sẻ niềm vui với người được khen. Đúng là người khen ta mà khen phải là bạn ta. Bằng lới khen, qua lời khen, họ muốn ta tốt đẹp hơn nữa.

Trong xã hội lại có kẻ thích được tâng bốc, được xu nịnh. Nghe lời vuốt ve, xu nịnh thì phổng mũi lên. Lại có người xun xoe, ton hót, xu nịnh. Hai tiếng " nịnh thối" đã lột tả nhân cách kém cỏi của hạng người này.

Truyện cười dân gian " Bây giờ thì thối thật!" đã châm biếm sâu cay hạng người xu nịnh và ưa phỉnh nịnh. Lời xu nịnh, vuốt ve có bao giờ đúng đắn, thật thà. Kẻ xu nịnh hễ cất lời là ngọt như mía, như đường, nhằm cầu thần, cầu lợi. Vua nghe lời nịnh thần mà mất ngai vàng. Lãnh đạo mà tin dùng bọn xu nịnh thì hỏng việc và mất uy tín. Có kẻ vì ưa xu nịnh mà sa đọa, đáng chê. Đúng như Quân Tử đã nhắc nhở : "Những kẻ vuốt ve, nịnh bợ ta chính là kẻ thù của ta vậy." Truyện ngụ ngôn " Con chồn và con gà trống" nói về cái chết đau đớn của gà trống ưa phỉnh nịnh, chắc nhiều người trong chúng ta đều nhớ.

Tóm lại, câu nói trên đây của Tuân Tử là một lời khuyên sâu xa, lí thú. Lời dạy của ông giúp chúng ta biết được thầy ta, bạn ta, kẻ thù của ta. Phải học, học để nâng cao bản lĩnh sống, có thế mới phân biệt được lời chê, tiếng khen và sự vuốt ve, xu nịnh. "Làm người khó" là vì thế!

Nghị luận xã hội về câu nói: Người chê ta mà chê phải là thầy của ta, người khen ta mà khen phải là bạn ta, những kẻ vuốt ve, nịnh bợ ta chính là kẻ thù của ta vậy – Bài làm 4

Con người, bước chân ra khỏi nhà là sống với những người không thân thích. Việc phân biệt thật – giả, tốt – xấu rất khó khăn nhưng vô cùng quan trọng để “chọn bạn mà chơi”, “chọn thầy mà học”. Tuân tử, một học giả lỗi lạc TCN rút ra kinh nghiệm: “Người chê ta mà chê phải là thầy của ta, người khen ta mà khen phải là bạn của ta, những kẻ vuốt ve, nịnh bợ ta chính là kẻ thù của ta vậy”. Lời nhận xét ấy cho ta nhiều bài học và suy ngẫm.

Trong xã hội, “thầy” là người hơn ta, có thể chỉ bảo cho ta điều hay lẽ phải, đáng để cho ta học tập. Người Việt Nam ta có đúc kết kinh nghiệm “không thầy đố mày làm nên”. Cùng với người thầy, người bạn là đối tượng thứ hai đáng để ta tin cậy sau khi hòa mình vào dòng đời xuôi ngược. Đó là người đối xử với ta một cách chân thành, bình đẳng, có thể giúp đỡ, sẻ chia với ta khi khó khăn hoạn nạn, cũng như vui vẻ hạnh phúc. Bạn bè đó là một tiền đề quan trọng giúp ta thành công trong công việc. Tục ngữ, ca dao cũng ghi nhận mối quan hệ tốt đẹp này “giàu vì bạn” “Ra đi vừa gặp bạn hiền / Cũng bằng ăn quả đào tiên ừên trời”.

Ngược lại, kẻ thù lại là kẻ luôn có ác ý với ta, luôn đối địch, không muốn ta thành công, chỉ muốn làm ta thất bại, suy vong.

Câu nói của Tuân Tử giúp ta nhận diện bản chất những con người sống quanh mình. Từ đó có thái độ hành động ứng nhân xử thế đúng đắn yà rút ra những bài học bổ ích trong việc tu dưỡng, hoàn thiện nhân cách.

“Người chê ta mà chê phải là thầy của ta, người khen ta mà khen phải là bạn của ta, những kẻ vuốt ve, nịnh bợ ta chính là kẻ thù của ta vậy”. Tại sao vậy? Người mà chê ta, lại là “chê đúng” tức là người đã nhìn được cái sai của ta. Nhìn ra được cái sai của kẻ khác phải là người có tầm nhìn rộng, khách quan đồng thời cũng là người biết cách làm đúng đắn, hợp lí hợp tình. Biết được cái sai của người khác, có kẻ im ỉm khoanh tay nhếch mép, ấy là kẻ coi thường ta, không muốn họp tác với ta. Có kẻ chê nhưng kèm theo đó là chỉ ừích, lãng mạ, phóng đại vấn đề… ấy là kẻ có ác ý với ta. Cả hai loại ấy đều không đáng để ta học tập. Phải là người nhìn được cái sai của ta, chê ta nhưng là chê đúng. “Chê đúng” bao hàm việc chỉ ra đúng cái sai và đúng thời gian, hoàn cảnh, thời điểm. Ây là cái chê có thiện ý muốn ta tiếp thu được để tiến bộ được. Con người này vừa có tài rộng, vừa có đức rộng lượng khoan dung. Đó chính là thày ta vậy.

Thế mới biết ở đời nhiều khi phải nếm cay nếm mặn mới nên người. Nhắc đến “chê” ai cũng nhăn nhó chối từ: chẳng ai muốn mình bị chê bởi bị chê tức là sai trái, chưa đúng, chưa đủ. Điều đó cũng thật nực cười: “Nhân vô thập toàn” có ai mà không sai lúc này hay lúc khác? vấn đề là phải biết nhận sai và sửa chữa. Lời chê đúng như muối như gừng. Muối có mặn, gừng có cay thì cuộc sống mới cần đến chúng.

Không chê ta mà lại “khen ta” nhưng là “khen đúng” đó là bạn ta. Lời khen biểu lộ sự đồng tình, ca ngợi. Không phải ai cũng có đủ can đảm thắng cái tôi ích kỉ để khen người khác. Bởi khen người tức là thừa nhận mình không làm tốt như họ, nghĩ một cách tiêu cực là mình kém họ. Nhìn người khác thành công, không ít kẻ sinh lòng ghen ghét, đố kị dèm pha điều tiếng. Loại người này ta không bàn đến. Song ta cần thấy rõ khoảng cách giữa lời khen và lời “khen đúng”. Đành rằng lời khen mang thiện ý, nhưng có khi lời khen phóng đại cái đáng khen, khen không đúng lúc hàm ý nịnh bợ. Lời khen ấy cũng thuộc loại “ai cầu mà chi”. “Khen đúng” phải là khen đúng mực, khen đúng thời điểm, có tác dụng động viên khích lệ tinh thần người được khen giúp họ tiếp tục vươn tới thành công. Neu không phải là một người bạn tốt, luôn sẵn sàng giúp đỡ hi sinh vì người khác hẳn không thể “khen đúng” được.

“Biến tướng” của lời khen là những lời xu nịnh, bợ đỡ. Theo Tuân Tử những lời “mật ngọt chết ruồi” này chỉ có thể bay ra từ miệng những “kẻ thù của ta”. Lời xu nịnh, bợ đỡ cũng là những lời khen, nhưng là khen những cái không đáng khen, khen quá mực, khen không đúng nơi đúng lúc nhằm mục đích lấy lòng, làm vừa ý người khác. Những lời như thế dễ khiến ta ảo tưởng về mình, tường mình tài giỏi tốt đẹp lắm. Vì vậy mà lầm đường, thôi luyện rèn nỗ lực, sinh kiêu căng ngạo mạn. Những điều đó dẫn ta đến vực thẳm tiêu vong tài năng, nhân phẩm, sự nghiệp. Kẻ gây hại cho ta thế chẳng phải là “kẻ thù” của ta hay sao?

Biết rõ bản chất sự khen, chê để ta biết cách tiếp nhận chúng. Nghe chê mà không thấy nản, được khen mà không sinh kiêu, thấy lời bợ đỡ xu nịnh thì kiên quyết từ chối. Chẳng những thế nghe lời khen, chê mà còn biết đánh giá bản chất con người. Từ đó biết học ai, chơi với ai, xa lánh kẻ nào.

Nhưng ở đời, theo thói thường ai chẳng thích được khen không muốn bị chê. Vậy làm sao để nhìn rõ được bản chất của sự khen chê này? Muốn vậy mỗi người phải luôn khiêm nhường trong lối sống, luôn nghĩ mình còn kém cỏi, quanh mình còn nhiều điều đáng học hỏi “trong ba người đi trước ta ắt có người là thầy ta” (Khổng Tử). Nghĩ mình kém cỏi không có nghĩa là tự ti; nghĩ mình kém cỏi là để tự răn mình, tự thúc đẩy mình tiếp tục rèn luyện, phấn đấu.

Bên cạnh đó, cũng cần suy ra rằng lời chê, khen đúng có lợi cho ta, lời xu nịnh bợ đỡ có hại cho ta thì chúng cũng lợi hại như nhau đối với người khác. Vì vậy, trong cuộc sống phải biết cân nhắc để có lời chê, lời khen đúng nhằm tự khẳng định giá trị của mình, tốt cho bạn bè mình mà tránh buông những lời “Mật ngọt chết ruồi” thấp hèn kia.

Câu nói của Tuân Tử trải mấy nghìn năm ngụp lặn với thời gian, thách thức sự thăng trầm của lịch sử xã hội, khi đến với chúng ta vẫn còn nguyên giá ừị. Đó là bài học nhìn người, lảm người sao cho phải đạo, đúng lí ở trên đời. Không chỉ là sự khen, chê, còn bao điều cổ nhân chiêm nghiệm đó chính là tinh hoa của đạo học nhân loại chúng ta cần thấm thìa, học tập.

Thu Thủy (Tổng hợp)

Từ khóa tìm kiếm

0