Nghị luận xã hội về danh và thực – Văn mẫu hay lớp 12
Xem nhanh nội dung Nghị luận xã hội về danh và thực – Bài làm 1 của một học sinh giỏi Văn tỉnh Bạc Liêu Danh và thực là vấn đề muôn thuở trong xã hội, được bàn luận và đề cập trong rất nhiều cuộc họp, hội thảo. Trên thực tế đề tài này chưa bao giờ hết nóng bởi rằng nạn "hữu ...
Xem nhanh nội dung
Nghị luận xã hội về danh và thực – Bài làm 1 của một học sinh giỏi Văn tỉnh Bạc Liêu
Danh và thực là vấn đề muôn thuở trong xã hội, được bàn luận và đề cập trong rất nhiều cuộc họp, hội thảo. Trên thực tế đề tài này chưa bao giờ hết nóng bởi rằng nạn "hữu danh vô thực", vì danh mà lu mờ nhân cách chưa bao giờ được giải quyết triệt để. Danh và thực hiện lên với những đường nét vô hình mà hữu hình khiến con người ta không thể nắm bắt được.
Từ xưa đến nay, danh luôn đi liền với thực, không hề tách rời nhau, chúng cứ bám riết lấy nhau mà tồn tại. Trong thời kỳ phong kiến thì vấn đề danh và thực dường như hiển hiện một cách lố lăng, lộ liễu và đầy bất công. Đặc biệt là những ông quan phong kiến dùng tiền để mua chức quyền địa vị, dùng tiền để "mua" nhân phẩm của một con người. Nguyễn Khuyến từng có một bài thơ nổi tiếng về vấn đề danh và thực rất sâu sắc và ý nghĩa "Tiến sĩ giấy". Ông đã mượn hình ảnh những đồ chơi của trẻ em để nói về những ông có chức có quyền nhưng thực ra ông đang châm biếm mỉa mai đầu óc của những ông đó không có gì, rỗng tuếch như đầu một đứa trẻ.
Danh chính là quyền, địa vị, danh lợi mà một con người có được khiến người khác ngưỡng mộ, khâm phục. Những chức danh và vị thế xã hội mà họ mang trong xã hội giúp họ có một chỗ đứng và sự ưu ái riêng.
Thực chính là sự cố gắng, phấn đấu không ngừng nghỉ để đạt được cái danh vẫn hằng mong muốn. Thực còn hiểu là thực lực vốn có hoặc là do sự nỗ lực hết mình của bản thân để dành lấy thành quả mà bản thân muốn đạt được.
Cái thực lực đó nếu là quá trình không ngừng nghỉ của bản thân, không nhờ cậy ai, không tranh giành, luồn cúi để đạt được thành quả thì cái danh ấy là cái danh đáng trân trọng, khen ngợi. Tuy nhiên mặt trái của danh và thực khiến con người ta mù quáng, quên hết và bất chấp hết. Chính vì mặt tiêu cực ấy đã khiến cho bản thân mỗi con người cũng như xã hội không bao giờ biết tự mình đứng lên, chỉ chìm đắm trong cái "ảo" vô biên, vô tận.
Hiện tường "hữu danh vô thực" trong xã hội đang trở thành vấn nạn cần được giải quyết triệt để thì mới có thể giúp cho cuộc sống này được thanh bạch và sáng trong hơn. Sức hút của danh lợi, của đồng tiền đầy ma lực khiến cho bản thân con người lao vào ngõ cụt, đường cùng của cái xấu. Đồng tiền quan trọng nhưng nếu coi nó quá cần có thể làm mù quáng nhân cách một con người.
Khi xã hội ngày càng phát triển, cái danh lợi phù phiếm trước mắt có thể "mua chuộc" một con người, và nguy hại hơn nữa là cả một đời người. Hệ quả của những kẻ chỉ biết chạy theo cái danh hão và không biết đâu là đúng đâu là sai thì thực sự lầm đường lạc lối là chuyện không thể tránh khỏi.
Con người ta khi có cung thì ắt có cầu và ngược lại; vũng bùn lầy của chữ danh quá lớn, quá sâu khiến con người ta đưa chân vào rồi thì khó mà có thể rút lại được. Bởi rằng không dựa trên chính thực lực của mình để có được chữ danh nhạt nhẽo vô vị đó thì làm sao họ có đủ thực lực và kiên nhẫn để có thể bước ra từ bóng tối đó.
Trong các trường học thì danh và thực diễn biến rất phức tạp, đó chính là hiện tượng "bệnh thành tích" tràn lan trong mọi ngóc ngách của trường học. Học sinh, phụ huynh và cả giáo viên vì một chữ "thành tích" to đùng ấy mà bất chấp hết. Phụ huynh "làm hư" giáo viên, chính giáo viên lại "làm hư" học sinh như một vòng tuần hoàn khép kín. Cuối cùng những học sinh yếu kém bị bệnh thành tích làm cho lu mờ, chỉ cần nghĩ bố mẹ mình có tiền là có thể có bằng này, cấp nọ, lớp này lớp kia. Cuối cùng hại cả một đời học sinh khi xã hội này cần những người có kiến thức, có học vấn sâu rộng chứ không cần những kẻ có bằng cấp nhưng để cho "vui", cho "có" như vậy. Thực trạng này rất đáng buồn.
Trong các lĩnh vực khác có rất nhiều ông này, bà nọ, mang chức danh tiến sĩ, giáo sư, thạc sĩ nhưng đó chỉ là cái danh mà họ dùng tiền để mua, dùng tiền để đổi lấy một chức danh rồi "ra oai" . Kỳ thực rất đáng buồn và đáng thất vọng cho những điều tiêu cực như thế này.
Những người đủ bản lĩnh để vượt qua chữ danh hư vô, nhạt nhẽo đó mà phấn đấu bằng chính thực lực và sự cố gắng không ngừng nghỉ của bản thân mình thì thực sự rất đáng quý và đáng trân trọng. Xã hội cần những con người và nhân cách như vậy. Những người không chịu sống luồn cúi, không chịu khuất phục và không chịu để cho đồng tiền làm mờ mắt. Nhân cách ấy, lối sống ấy có thể giúp hoàn thiện một con người.
Sự thành công, cái danh không dễ dàng để có được. Mỗi con người nên trân trọng những gì mà bản thân mình đã cố gắng để có được. Như thế là họ đang trân trọng chính nhân cách của bản thân cũng như trân trọng cái mà xã hội có thể mang lại cho chính bạn.
Danh và thực, những điều khiến chúng ta cần phải suy nghĩ rất nhiều để có thể trở thành những con người chân chính, không bị cái danh ảo mua chuộc, không bị đồng tiền làm lu mờ mắt. Hãy dùng chính thực lực của bản thân mình để đạt được cái mà mình mong muốn.
Nghị luận xã hội về danh và thực – Bài làm 2
Danh và thực là hai khái niệm gắn liền với con người và xã hội. Đó cũng là hai phạm trù có mối quan hệ hữu cơ chặt chẽ với nhau. Bàn về danh và thực, có rất nhiều vấn đề khiến chúng ta phải suy ngẫm.
Danh là tiếng tăm. Có người tiếng tăm lừng lẫy thiên hạ: nhưng phần lớn đều là tiểu tốt vô danh. Chữ danh thường đi kèm với các từ ngữ khác để có một nghĩa rộng hơn: danh giá, danh dự, tài danh, khoa danh, hữu danh, vô danh, thanh danh, công danh.. Danh dự, vinh danh và giá trị của một người rất khó phân giải. Danh tiếng càng lớn thì địa vị càng cao; rất nhiều người nổi tiếng rồi nhờ danh tiếng ấy mà kiếm được nhiều tiền. Các “sao” hiện nay trên vũ trường, kịch trường, các minh tinh màn bạc hiện nay cho ta rõ sự thật đó.
Danh luôn gắn với tài và đức. Có thực tài mới có thực danh. Có đức, có tài mới có danh. Chế độ khoa cử ngày xưa là để chọn nhân tài; những ông trạng, ông nghè là những người tài danh, có thực danh. Thời kháng chiến, trong nhân dân đã xuất hiện bao anh hùng. Đó là những tài danh đã đem xương máu lập nên bao chiến công, tô thắm lá cờ Tổ quốc thêm đỏ chói. Thành ngữ “hữu danh vô thực” là sự đánh giá về “cái tủi” và “cái thực" của một loại người nào đó trong xà hội. Những “giáo sư rởm”, “tiến sĩ rởm”, “chuyên gia rởm” nhan nhản trong xã hội ta hiện nay đã làm cho mọi người hiểu rõ, hiểu sâu hơn thành ngữ “lìữu danh vô thực”. Loại cán bộ tham nhũng hiện nay, dù "cái danh” có cao chót vót tầng mây, dù có đi xe hơi, ở nhà lầu, ăn sơn hào hải vị, thực chất chì là loại sâu mọt, bị nhân dân khinh bỉ, bị đồng loại oăm ghét.
Danh không phải là một thứ, một giá trị bất biến. Có bậc tài danh nhưng sinh bất phùng thời nên đã mai danh ẩn tích. Có người đã thoái quan vi sư. Có người đã lấy “trăng thanh gió mát làm bầu bạn”. Nguyễn Trãi đã có lúc phải lui về Côn Sơn, lấy suối làm đàn cầm, lấv đá, rêu làm chiếu, lấy thông, trúc làm bóng mát để “ngâm thơ nhàn”. Văn vương phải đến bờ sông Vị Thủy để mời Lã Vọng về triều làm Thái sư; Lưu Bị phải “tam cổ thảo lư" để mời cho kì được Khổng Minh làm quân sư.. Đó là chuyện ngày xưa ớ bên Tàu. Còn ớ ta, sau ngàv Cách mạng tháng Tám thành công, Hồ Chí Minh đã ân cần, đã trân trọng mời nhiều vị nhân sĩ như cụ Huỳnh Thúc Kháng ra gánh vác việc nước.
Cũng như hương sắc của hoa, danh có thể sớm nở chiều tàn. Trần Đăng Khoa nổi danh tài thơ từ lúc 7 – 8 tuổi. Sau Góc sân và khoảng trời, vườn thơ của đứa con họ Trần đã nhạt nhòa ánh trăng. Sau cái vụ “Giá Lương – Tiền” trong thập kí 80 thế kỉ XX ở nước ta, “cái danh" của một nhà thơ lớn đã bị sứt mẻ. Nhiều người vẫn nhắc lại câu ca dao châm biếm thời hãi hùng đó!
Thời Đông Tấn bên tàu (thế kỉ IV), Đào Uyên Minh chỉ nổi danh là kẻ sĩ cao khiết: treo áo mũ từ quan về quê cày ruộng, ươm cúc, uống rượu, làm thơ. Khi ông mất, Nhan Điền là bạn tri kỉ của ông, một thi bá thuở ấy, trong văn tế truy điệu chỉ ngợi ca danh tiết cao quý của Đào Uyên Minh, không có câu nào nói về thơ của bạn. Nhưng từ mấy thế kỉ nay, người ta đã hết lời ngợi ca phong cách thơ giản dị, sâu sắc của thi sĩ họ Đào, xếp ông ngang hàng với Khuất Nguyên, Lí Bạch, Đỗ Phủ… những đại thi hào cùa Trung Quốc thời cổ đại.
Như trăng, sao có khi tỏ khi mờ, cái danh của các nhân tài, hiển tài cũng vậy. Nhân tài. hiền tài là vấn quý của quốc gia, cần được vun trồng, ưu ái. Có vua sáng mới có tôi hiền, mới có thịnh trị. Hôn quân bạo chúa coi nhân tài như cỏ rác. Thủa “bình ngô”, Nguyễn Trãi mới có thế phát huy tài năng. “viết thư, thảo hịch tài giỏi hơn hết một thời”, nhưng năm 1442, Nguyễn Trãi đã chết thảm khốc trong vụ án Lệ Chi Viên!
Thời Nam Tống, Tể tướng Tần Cối đã dùng 12 kim bài đô sát hại Nhạc Phi, một vị trung thần, một vị danh tướng. Ai đã từng nhìn tận mắt tượng Tần Cối mới hiểu thế nào là ô danh; mới thấy rõ kẻ phản bội để lại tiếng nhơ muôn đời.
Trong kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ, các nhà trí thức lớn như Tôn Thất Tùng, Phạm Ngọc Thạch, Đặng Văn Ngữ, Tạ Quang Bửu, Trần Đại Nghĩ, Lương Đình Của., đã phát huy cao độ lòng yêu nước, đem tài năng hiến dâng đất nước và nhân dân. Họ đă gặp cụ Hồ. đã được cụ Hồ giao phó trọng trách và đãi ngộ, làm nên bao sự tích to lớn, đúng là “rồng gặp mây”. Nếu coi trí thức là “cục phân” thì sẽ xảy ra bao bi kịch, bao tổn thất to lớn cho xã hội. Đó là một sự thật đau đớn! Nhân tài phải được trọng dụng để phát huy. Cái thói đố kị tài năng thường dễ xảy ra, nhất là những nơi mất đoàn kết nội bộ, bị bọn cơ hội thao túng.
Vì danh và mệnh trong con mắt người đời có giá trị ngang nhau, cho nên nhiều người vì hám danh mà không từ bất cứ một thủ đoạn nào: chạy chức, chạy quyền, chạy khen thưởng, mua bán bằng cấp, mua quan bán tước… Có người vì hư danh mà “làm láo báo cáo hay", vì hư danh mà đánh mất chính bản thân mình, như tục ngữ đã nói: “Mua danh ba vạn, bán danh ba đồng”.
Có tài mới có danh. Có danh mới có quyền thế, bổng lộc. Có thực tài mới có thực danh. Kẻ sĩ chân chính xưa nay đều là người đức trọng tài cao, nêu gương sáng về tu nhân tích đức, sống cần, kiệm, liêm, chính, hết lòng vì nước vì dân. Tên tuổi họ, công đức họ để lại tiếng thơm muôn đời mai sau.
Trái lại, có kẻ hữu danh vô thực. Cũng bằng cấp đấy, cũng chức trọng quyền cao đấy. nhưng lại là hạng người vô tích sự. Thời nào cũng vậy, sự coi trọng hư danh đã làm nảy sinh tính giả tạo. Không hề ra trận đánh giặc mà có thẻ thương binh. Chẳng có công trạng gì, thành tích gì mà có huân chương treo lủng lẳng đầy ngực. Thích khoe học vị, học hàm ầm ĩ. Vì danh luôn luôn đi liền với lợi; danh lợi là cái bả. Có kẻ chìm đắm trong vòng danh lợi mà thân bại danh liệt. Nhà thơ Tú Xương trong bài Chúc Tết đã châm biếm:
Lẳng lặng mà nghe nó chúc sang,
Đứa thì mua tước, đứa mua quan
Phen này, ông quyết định đi buôn lọng.
Vừa bán vừa la cũng đắt hàng!
Thật buồn cười mà đau lòng. Có đứa con bất hiếu nhưng khi cha mẹ qua đời lại khóc lóc thảm thiết, tổ chức ma chay om sòm, kèn trống ầm ĩ. Lại có ả đàn bà dâm đãng nhưng trước mặt chồng lại tỏ ra chính chuyên.
Cổ nhân có nói: “Danh chi vu thục”. Qua đó, muốn nhắc nhở mọi người phải coi trọng tài danh, thực danh, thanh danh, công danh… và đừng vì hám danh, háo danh mà làm méo mó nhân cách, mà đánh mất bản tính của mình.
Ở đời, ai cũng muốn có nhiều tài năng để mưu sinh, để thi thố công danh với thiên hạ.
Có tài năng bẩm sinh, nhưng tất cả đều phải học tập và rèn luyện, trải qua nhiều gian khổ, bền bỉ để “mài sắt nên kim”. Phải khiêm tốn học hỏi, chớ tự kiêu tự đại, mà bông hoa tài năng sớm lụi tàn!
Tài năng chỉ có thể phát huy rực rỡ trên tâm đức. Tâm đức càng sáng, càng trong thì tài năng mới nở rộ. Đức trọng tài cao là cốt cách kẻ sĩ, bất cứ thời nào cũng thế.
Nghĩ về danh và thực, lúc nào tôi cũng nghĩ và nhớ tới hai câu thơ của Ức Trai trong Quốc âm thi tập:
Mấy kể công danh nhàn lẵng đẵng,
Mồ hoang cỏ lục thấy ai đâu?
(Tự thuật – bài số 10)
Nghị luận xã hội về danh và thực – Bài làm 3
Từ xưa tới nay, danh và thực là đề tài luôn được quan tâm. Nhiều khi cái danh không đi liền cái thực và ngược lại hữu danh, vô thực trở thành vấn đề bức xúc, lo âu cho cả xã hội. Vậy danh và thực là gì? Vì sao lại có hiện tượng hám danh, háo danh?
Danh ngày xưa là chức tước được vua ban, xứng với tiếng thơm được mọi người tôn vinh, quý trọng. Ngày nay được hiểu là bằng cấp, chức vụ được Nhà nước trao cho. Còn thực là năng lực, trí tuệ, việc làm, hành động của mỗi người. Những đóng góp của họ mang lại lợi ích thực sự cho cá nhân, cộng đồng, cho quê hương, đất nước.
Theo lẽ thường tình, muốn có được danh thì phải có thực tài, có trí tuệ, năng lực mới được cất nhắc. Đúng nghĩa danh và thực phải gắn liền với nhau, bởi thực là bản chất, cốt lõi còn danh là hình thức, bên ngoài. Thực tỏa sáng cho danh, vì thế danh và thực luôn phải thống nhất chứ không thể chênh lệch.
Nhưng danh cũng thường gắn với lợi, bởi thế xưa nay chữ danh và chữ lợi đã trở thành miếng mồi vinh hoa để bao người đua chen, giành giật. Người ta chỉ nghĩ có danh là có lợi, có chức tước là có quyền, có quyền là có tất cả, nên chẳng ngại ngần làm mọi điều để đạt được nó. Nhưng khi đã có chức tước, có vị trí thì chỉ là "tiến sĩ giấy" – hữu danh, vô thực, là trò cười cho thiên hạ
Trong cuộc sống, không phải ai cũng háo danh, hám danh. Từ xưa đã có bao danh nhân nổi tiếng và cả những người bình thường không tên tuổi được mọi người tôn vinh, kính trọng vì thực tài. Bởi họ đã cống hiến vì lợi ích của mọi người: Nguyễn Trãi, Phạm Ngũ Lão, Chu Văn An….Tuy nhiên, thời đại nào xã hội cũng có vô số kẻ hám danh.
"Mảnh giấy làm nên thân giáp bảng
Tưởng rằng đồ thật hóa đồ chơi'
Chỉ vì cái danh có lợi nên khiến nhiều kẻ dốt nát, vô tài phải cố chạy vạy không chỉ bằng tiền mà có khi bằng cả nhân cách để đổi lấy tấm bằng thạc sĩ, tiến sĩ hay chiếm được vị trí quan trọng nào đó để leo cao, chui sâu đục khoét của dân của nước. Khiến cho xã hội đảo điên, trắng đen, thật giả lẫn lộn.
Bệnh háo danh, hám lợi bất chấp thực tại là căn bệnh thâm căn cố đế của xã hội từ bao đời nay. Xã hội hiện đại đòi hỏi con người phải có thực tài, có trí tuệ. Trí tuệ là nền tảng của con người, hiền tài là nguyên khí quốc gia. Vậy tại sao nạn háo danh vẫn còn tồn tại mà còn tinh vi hơn, thủ đoạn hơn?
Nhiều cha mẹ học sinh cũng phải chạy vạy cho con được cái giấy khen loại giỏi để khoe với mọi người, được mang đến cơ quan lĩnh thưởng nhưng thực chất chỉ là cái đầu rỗng tuếch. Rồi nhiều học sinh đi thi nhờ quay cóp, chạy chọt nhưng rồi chứng nào tật nấy, vẫn cứ lười học, ham chơi vậy cha mẹ lại phải mất tiền để có được tấm bằng hữu danh vô thực.
Nhiều sinh viên ra trường học cao học, người đi làm tóc "hoa râm" vẫn cố phải đi học lấy tấm bằng thạc sĩ, tiến sĩ nhưng không phải để nâng cao trình độ, tay nghề mà để tiếp tục leo cao, để kiếm danh.
Sự kém cỏi của bộ máy lãnh đạo còn đáng sợ hơn cả thảm họa thiên tai, địch họa. Bởi đã là thảm họa không lường, ảnh hưởng tới mọi mặt của cuộc sống xã hội, làm tiêu tan hy vọng, thực tài của bao người, làm mất lòng tin của lớp trẻ, làm rối loạn xã hội, gây bức xúc và bất bình.
Vì thế, cần nhận thức được những mặt sáng – tối của xã hội để từ đó xây dựng được nhân cách của mình. Đừng sa lầy vào bệnh hữu danh, vô thực.
Từ bài thơ "Tiến sĩ giấy” của Nguyễn Khuyến, anh (chị) hãy viết bài văn bàn về danh và thực trong cuộc sống hiện nay – Bài làm 4
Nho học suy vi, các rường mối xã hội rệu rã, tệ mua quan bán tước phổ biến đã đào tạo ra một tầng lớp thống trị chỉ có hư danh mà không có thực học. Vả chăng những người được đào tạo quy củ từ cửa Khổng sân Trình cũng không còn có vai trò như trước trọng bộ máy xã hội. Bài thơ “Tiến sĩ giấy” của Nguyễn Khuyến ra đời trong hoàn cảnh như thế và cho đến ngày nay, nó vẫn vẹn nguyên ý nghĩa, gợi cho người đọc nhiều suy nghĩ về danh và thực trong cuộc đời.
Bài thơ “Tiến sĩ giấy” được viết bằng thể thơ thất ngôn bát cú truyền thống, chỉ gói gọn trong đề, thực, luận, kết mà ẩn chứa và khái quát biết bao nhiêu điều. Bài thơ có đến ba lớp nghĩa và cho dù hiểu theo lớp nghĩa nào thì cũng rất tương xứng với từng câu từng chữ trong bài:
Cũng cờ, cũng biển, cũng cân đai,
Cũng gọi ông nghè có kém ai.
Mảnh giấy làm nên thân giáp bảng,
Nét son điểm rõ mặt vân khôi.
Tấm thân xiêm áo sao mà nhẹ,
Cái giá khoa danh ấy mới hời.
Ghế tréo lọng xanh ngồi bảnh choẹ,
Nghĩ rằng đồ thật hoá đồ chơi.
Bài thơ miêu tả một thứ đồ chơi cho trẻ con? Không, đó chỉ là nghĩa hiểu ngôn của câu chữ. Thực chất, tác giả đang phê phán, đả kích những ông tiến sĩ chỉ có hình thức mà đầu óc rỗng tuếch, đồng thời cũng đang chế giễu chính mình, một vị Tam nguyên Yên Đổ mà không thể làm gì trước sự đổi thay của thời cuộc, sự tuột dốc của nền nho học, chỉ biết trút tâm sự u hoài của mình vào thơ văn:
Sách vở ích chi cho buổi ấy,
Nghĩ ra lại thẹn với thân già.
Bài thơ không chỉ truyền tải cho người đọc tâm sự ưu thời mẫn thế của tác giả mà còn đặt ra vấn đề về danh và thực trong cuộc đời. Đây vốn là hai khái niệm luôn luôn song hành cùng nhau trên suốt con đường đi tìm thành công của mỗi con người. Bởi có thực thì mới có danh và có danh ắt phải có thực. Vậy danh, thực ấy là gì mà khiến con người bỏ cả cuộc đời mình để theo đuổi? Danh là những thành quả mà con người gặt hái được như tiếng tăm, tiền bạc, địa vị… Thực là thực lực tự có, tự rèn luyện được của mỗi người. Thực rất đắng cay, gian khổ nhưng danh quả thật vô cùng ngọt ngào và hấp dẫn. Danh chỉ phát huy đúng ý nghĩa và lợi ích của mình khi nó thật sự là hệ quả của thực mà thôi. Nhưng rồi cuộc sống ngày một đi lên, con người dường như bị mờ mắt trước danh vọng, tiếng tăm mà quên đi rằng thực lực của họ chưa đủ để với tới những thứ xa hoa, phù phiếm đó. Và con người sẵn sàng đi đường tắt để có được một chỗ đứng trong xã hội, để được mọi người trọng vọng, để “một người làm quan, cả họ được nhờ”. Chính vì vậy mà sự xuất hiện của những kẻ hữu danh vô thực như là hậu quả, là mặt trái của tiến trình phát triển và đi lên của xã hội. Khi đã có cầu thì cung ra đời là một khách yếu tất quan theo quy luật vận động của cuộc sống. Những danh vọng, tiếng tăm kìa là thành quả ngọt ngào mà con người muốn đạt đến và nó nằm ở cuối con đường đang mở ra trước mắt họ, những lữ khách đi tìm hoa hồng. Để đến được với những điều đó, để đi hết con đường gian nan đó, con người phải từng bước, từng bước leo lên những bậc thang. Những bậc thang ngày càng cao, tỉ lệ thuận với hành trang mà mỗi người tích luỹ cho bản thân mình, đồng thời cũng là dấu hiệu báo rằng họ đang dần về đích. Thế nhưng có những người không đủ thực lực để bước tiếp nhưng lại bị ánh hào quang chói loà của danh tiếng cám dỗ, họ tham lam, lén lút trèo một lúc ba, bốn bậc để rồi tiến đến đỉnh vinh quang một cách hết sức dễ dàng. Và tất nhiên trên con đường ấy, có rất nhiều “quý nhân phù trợ” để hành động sai trái ấy được diễn ra trót lọt. Đáng buồn thay, những điều chướng tai gai mắt như thế lại đang diễn ra hằng ngày xung quanh ta.
Ngày xưa và cả bây giờ, muốn đạt được học vị tiến sĩ đâu phải chuyện dễ và những người có thực lực, có chí cầu tiến đều phải bỏ thời gian, công sức, trí tuệ của mình ra mà tìm lấy. Nhưng người ta vẫn có thể được gợi là tiến sĩ bằng một cách khác. Không bỏ thời gian, không bỏ trí tuệ, mà bỏ tiền. Đồng tiền với ma lực ma quái của nó đã đổi trắng thay đen, làm đảo lộn những giá trị đích thực của cuộc sống, bao che cho những hành động phạm pháp và làm lu mờ những phẩm chất tốt đẹp của con người. Chuyện dùng tiền mua lấy học vị tiến sĩ chỉ là một ví dụ nhỏ về sự suy đồi cả danh lẫn thực trong cuộc sống ngày nay. Còn rất nhiều những vụ tham nhũng, bê bối gây tổn thất cho nhà nước hàng chục, hàng trăm tỉ đồng. Điển hình là việc các cán bộ chia chác đất công ở Đồ Sơn. Các bị cáo Vũ Đức Vận – nguyên Bí thư Tỉnh uỷ Đồ Sơn, Hoàng Anh Hùng — nguyên Chủ tịch UBND thị xã, Chu Minh Tuấn – nguyên Giám đốc Sở Tài nguyên môi trường thành phố đa lợi dụng chức vụ để ra chủ trương giao đất vi phạm Luật Đất đai, mang tính đặc quyền đặc lợi cho bản thân và gia đình mình, không quan tâm đến nhân dân, dùng đất làm quà đối ngoại để mưu cầu lợi ích cá nhân. Từ nghị quyết sai trái trên, các phường đã triển khai việc giao đất sai trái mà không phổ biến tới nhân dân địa phương….
Danh và thực là vấn đề tuy khá quen thuộc nhưng không bao giờ là cũ bởi hiện nay chúng ta vẫn chưa thể giải quyết triệt để, tận gốc nạn hữu danh vô thực và đó cũng đang là một trăn trở, nhức nhối của toàn xã hội. Sự đảo lộn danh và thực ấy đã xoá nhòa tính công bằng trong quy luật cuộc sống. Nó đưa những người có tiền và biết đi đường tắt lên tột cùng của danh vọng, đồng thời đã làm lu mờ ý chí phấn đấu, cầu tiến của những ai có thực lực. Nó đào tạo ra một lớp người hữu danh vô thực, cư xử với nhau bằng quyền chức, bằng tiền bạc. Nó đào tạo ra một thế hệ kế tiếp không có thực lực, chỉ biết ỷ lại vào quyền thế của gia đình. Và rồi nó sẽ xây dựng nên một xã hội suy đồi về cả trình độ lẫn đạo đức. Thật đáng đau lòng!
Sự tráo trở giữa danh và thực ấy còn len lỏi vào học đường với căn bệnh thành tích đáng sợ mà vì nó, các thầy cô xuê xoa, sẵn sàng khống điểm cho học sinh để đạt được chỉ tiêu đã đề ra; các trường tổ chức thi lỏng lẻo, vẫn thường xảy ra nạn quay cóp, sử dụng tài liệu, thậm chí là mua điểm. Còn các bậc cha mẹ muốn nở mày nở mặt với thiên hạ mà sẵn sàng bỏ ra những khoản tiền khổng lồ để chạy cho con mình vào trường chuyên hay một trường đại học danh tiếng… Những câu chuyện đáng buồn ấy tiếc thay vẫn còn đang diễn ra từng giờ, từng phút. Tuy nhiên, trong vài năm trở lại đây, nắm bắt được tình hình đó, chúng ta đang thực hiện một cuộc cải cách triệt để không chỉ trong ngành giáo dục mà ở mọi lĩnh vực và toàn xã hội. Nhà nước ta đã đưa ra nhiều biện pháp tích cực, triệt để nhằm xoá bỏ tình trạng hữu danh vô thực, thay đổi toàn bộ bộ mặt xã hội. Tuy vẫn còn đâu đó những hạt sạn rất nhỏ nhưng dù sao đây cũng là một tín hiệu đáng mừng, củng cố cho mọi người niềm tin vào khả năng của chính bản thân mình và sẽ đạt được thành công.
Bài thơ “Tiến sĩ giấy” của Nguyễn Khuyến không chỉ phản ánh bộ mặt xã hội thời bấy giờ mà còn khiến người đọc phải dừng lại suy ngẫm về danh và thực trong cuộc đời và về con đường của chính bản thân mình. Danh và thực đều là những thứ mà con người phải bỏ công sức ra mới gặt hái được. Danh kia tuy sang trọng, tuy mát mặt với đời nhưng cũng chỉ như gấm thêu hoa, chỉ có thực mới tồn tại với con người mãi mãi theo thời gian. Chính vì vậy mà tất cả mọi người hãy cùng vun đắp cho trí tuệ, cho tài năng của mình. Đừng bị cám dỗ bởi xa hoa, phù phiếm của danh vọng, tiếng tăm. Hãy tin vào thực lực của mình; bởi nếu có thực lực thì danh tiếng có hay không chỉ còn là chuyến thời gian.
Thu Thủy (Tổng hợp)