16/01/2018, 13:19

Nghị luận xã hội về cái đẹp trong thiên nhiên và trong xã hội – Văn mẫu lớp 12

Nghị luận xã hội về cái đẹp trong thiên nhiên và trong xã hội – Văn mẫu lớp 12 Nghị luận xã hội về cái đẹp trong thiên nhiên và trong xã hội – Bài số 1 Đây là tình huống có thực ngoài đời trong gia đình 1 bà chủ có vỏ bọc bề ngoài trí thức điềm đạm nhưng trong lòng đầy sống ngầm đố ...

Nghị luận xã hội về cái đẹp trong thiên nhiên và trong xã hội – Văn mẫu lớp 12

Nghị luận xã hội về cái đẹp trong thiên nhiên và trong xã hội – Bài số 1

Đây là tình huống có thực ngoài đời trong gia đình 1 bà chủ có vỏ bọc bề ngoài trí thức điềm đạm nhưng trong lòng đầy sống ngầm đố kị sân si và hận thù. Bà chủ phải giỏi cắn răng chịu đựng cố sống giả trong sự cô độc buồn tủi nhục vì cùn đường, hết cách. Bà chủ chỉ muốn trả thù, muốn cả nhà chồng phải chịu nhục chịu đau như bà chủ. Bà chủ đang cắn răng cô độc chịu đựng để giải tỏa mối hận trong lòng vì bà chủ bơ mặt ngập đầu trong tiếng chê bai khinh bỉ xa lánh "là đồ bỏ đi, là hạng giẻ rách, là thứ đáng ghét, kinh tởm" của anh chị em trong nhà, của gia đình chồng và bạn bè, gục chết giữa đường đời và đường tình, vùi thân vào con đường ông ăn chả bà ăn nem để trả thù. Trong lòng bà chủ đang ngập tràn hận thâm sâu ông chủ và nhà chồng, ghen tị đố kị với bạn bè, hàng xóm. Bạn bè. chồng con, anh chị em cháu chắt trong nhà lẫn tôi tớ cho bà chủ là để bà chủ lợi dụng mọi thứ có thể lợi dụng không từ 1 việc nhỏ nào, làm công cụ không công cho con bà chủ, tự nguyện làm bình phong tô vẽ làm đẹp vỏ bọc bề ngoài tri thức giả tạo của bà chủ nhưng trong lòng đầy sống ngầm đố kị sân si và hận thù. Căn bệnh của bà chủ là tâm bệnh chủ động. Chính yếu tố sân si háo thắng ẩn giấu bên trong con người bà chủ đã đẩy bà chủ xuống vực sâu đen tối, ngày càng lún sâu vào bùn nhơ tội lỗi phát bệnh tâm thần.

Bà chủ hiện giờ muốn chết không chết đc, sống thì không ra sống, điên điên khùng khùng, tâm thần hoang tưởng. Bà chủ không thể hòa nhập được vì đố kị và tiểu nhân với mọi người kể cả chồng con anh em cháu trong nhà. Bà chủ tôi phát bệnh tâm thần vì ham tiền và vì ông chủ ăn chả bà ăn nem. Bà chủ vớ phải nem hôi trong khi ông chủ gặm cỏ non nên bà chủ điên tức. Với bà chủ thì tiền là trên hết, luôn mở miệng dạy chồng "tiền, tiền, tiền" ép chồng làm chuyện thất đức, bậy bạ cũng được, cần gì đạo đức, cần gì nhân cách tư cách miễn có nhiều tiền đem về cho bà chủ được giàu sang hưởng thụ sung sướng hơn người là được. Bà chủ ngồi chỉ tay 5 ngón, túc trực 24 tiếng trên YHĐ và trên tất cả các trang mạng khác ngồi đọc, đọc, đọc rồi sao chép ăn cắp thông tin của người khác trở thành của mình, còn tự đắc tự khen bả giỏi hơn người và toàn mở miệng nói sai nói ngược ngạo để dẫn dụ xúi dại người khác để bà chủ luôn hơn mọi người. Rồi bà chủ bắt chồng con mẹ chồng tôi tớ làm thay hết mọi việc để bả được toàn quyền hưởng thụ thăng tiến leo cao. Ông chủ tôi càng trắng tay trong khi bà chủ càng leo cao thì chồng con càng lệ thuộc càng sợ bà chủ nhưng kết cuộc ông chủ có sợ đâu càng mừng đc rảnh rang đi ăn chả đến khuya có hôm không về, còn bà chủ cùng đua với ông chủ đi ăn nem ở nhà nghỉ cũng đến khuya, cũng đi qua đêm không thua kém gì ông chủ.

Kết cục bây giờ bà chủ đang cùng đường, hoang mang ngậm đắng nuốt cay vì nhận ra chẳng ai ưa bà chủ cả từ chồng, con, gđ chồng, anh chị em cháu chắt trong nhà đến bạn bè, hàng xóm. Tàn bạo/tàn độc/tàn ác & thâm độc/thâm hiểm đều có trong dạ, trong đầu của bà chủ.

Nghị luận xã hội về cái đẹp trong thiên nhiên và trong xã hội – Bài số 2

Trong thực thể đẹp nghệ thuật dường như có tất cả mà cũng như không có riêng về một mặt nào của đời thực: quan hệ kinh tế – xã hội, chính trị, triết học, văn hóa, đạo đức, khoa học, nhân cách, lối sống và lời ăn tiếng nói, sự nghiệp vĩ đại và đời thường nhỏ nhặt, thế giới bên trong và mặt cắt bên ngoài, cá nhân và cộng đồng, xưa, nay và mai sau…

Đó là một hiện tượng xã hội sống động, chứa đựng biết bao số phận cụ thể có bản chất “tổng hòa những quan hệ xã hội” rất chung mà cũng rất riêng, rất quen thuộc mà cũng rất mới lạ. Chính thể nghệ thuật là "bản sao" sinh động, toàn vẹn cuộc sống xã hội nhưng đã vượt khỏi nguyên mẫu, lung linh tài năng sáng tạo và thấm đượm "cái tâm” vì con người, vì "người hơn" của quần chúng lao động mà nghệ sĩ là đại diện trung thực. Một tác phẩm có giá trị thẩm mỹ cao là kết quả của sự hòa quyện nhuần nhuyễn ba yếu tố cơ bản: phản ánh chân thực đời sống xã hội, độc đáo, đặc sắc sáng tạo nghệ thuật tình cảm nhân đạo, với ý thức xã hội tiên tiến.

Nhu cầu hướng tới cái đẹp của con người luôn luôn mang tính khẳng định: con người cần phải đẹp "cả khuôn mặt, cả quần áo, cả tư tưởng" (Tsêkhôp), và toàn bộ các quan hệ xã hội với những hoạt động cụ thể của chúng cũng cần phải "theo quy luật của cái đẹp" (Mác). Vì vậy, cái đẹp có quyền tuyệt đối tồn tại phát triển. Cái đẹp là chuẩn mực, thước đo để định giá và định hướng, là lý tưởng thẩm mỹ mang tính phổ biến trong mọi lĩnh vực sống của con người nói riêng, của xã hội nói chung. Chỉ từ cái đẹp người ta mới có thể phủ đinh cái ác, cái giả, cái cũ. Trong nghệ thuật cái đẹp càng hiện ra đầy đặn, rực rỡ càng cơ sức lôi cuốn, cổ vũ, cảm hóa.

Trước cái đẹp của con người và cuộc sống được mô tả trong tác phẩm nghệ thuật, tình cảm, thị hiếu phán đoán và lý tưởng thẩm mỹ của công chúng được khơi nguồn và rộng mở trực tiếp, chính diện và có ảnh hướng rõ ràng. Cảm thụ cái đẹp là cảm thụ đặc biệt tích cực, khoái cảm trước cái đẹp là niềm hân hoan, sự say mê vừa sâu vừa lâu bền. Thật là lạ, các cụ xưa đắng cay trăm nỗi, thế mà vẫn ngâm ngợi bông sen, con cò, cô Tấm, chàng Thạch Sanh, ông Bụt. Vào những khi xã hội lắm đảo điên, đời người đầy rẫy tang thương, nhân dân trông đợi ở nghệ sĩ không chỉ phê phán thực trạng tăm tối, mà chủ yểu là soi tỏ cho họ niềm tin vào sức sống nhân văn. Những "kết thúc có hậu", "đại đoàn viên" trong văn chương ta xưa dường như là một tất yếu nghệ thuật, một nguyên tắc đạo lý nhằm thỏa mãn nhu cầu xã hội – thẩm mỹ, mà nếu thiếu vắng chúng người ta sẽ mất đi chỗ dựa vững chãi trong cuộc đời thực. Ngay cả những nghệ sỉ hiện thực "phê phán nồng nhiệt" vì "nỗi đau về con người" (Dobrôliubôp) cũng trăn trở tìm kiếm "con người tốt tuyệt vời" (Dôxtôiepxki), "con người mới" (Tsecnưsepxki), "niềm tự hào về con người", vì nghệ thuật cần "phù hợp với những đứa con của cách mạng" (Xtăngđan). Chính những nghệ sĩ đó đã tiếp nhận tự giác hay chưa thật tự giác tư tưởng dân chủ và xã hội chủ nghĩa của quần chúng lao động, tư tưởng cách mạng trong xã hội đương thời. Không phải không từng có sự trùng khớp sóng đôi giữa sự rung chuyển tận gốc rễ xã hội và nghệ thuật sinh ra để đáp ứng yêu cần của sự rung chuyển đó: Đời sống không hiếm kỳ tích được lập nên do quần chúng tự giác, tự nguyện "gạt phăng hết đời tư nhỏ hẹp" để vươn tới thế giới mới đại đồng. Nghệ thuật nếu tự hào vào đám đông, vì đám đông, đương nhiên phải miêu tả "cho hay, cho chân thật và cho hùng hồn" (Hồ Chí Minh) cái đẹp – anh hùng, cái đẹp – cao cả trong tầm vĩ mô hơn là dừng lại, đào sâu một bộ phận vi mô riêng lẻ. Đó là trường hợp văn thơ công xã Pari, nghệ thuật xô viết trong cách mạng tháng 10 và Chiến tranh vệ quốc, nghệ thuật Việt Nam trong hai cuộc kháng chiến vừa qua. Khẩu đại bác tương lai bao nhiêu milimet sẽ nhằm vào ta khi hôm nay ta bắn súng lục vào "thứ văn nghệ ngợi ca" đó.

Giờ đây từ công cuộc đổi mới xã hội sâu sắc và toàn diện những nhân tố mới, những kết quả bước đầu quan trọng, những con người của CNXH đích thực đã xuất hiện và nhân lên mạnh mẽ. Quần chúng tin rằng nghệ sĩ và nghệ thuật sẽ đi cùng chiêu và đi trước để ghi nhạn, gây men, dự báo, đinh hướng. Muốn vậy, trước hết, nghệ sĩ phải có con mắt tinh đời nhìn thấy những cái mới mẻ. Nhưng sẽ không đơn giản một chút nào khi nhận thức và phản ánh cái mời, cái đẹp trong xã hội. Nhất là con người ngày nay năng động, cởi mở, nhảy vọt về tất cả mọi phương diện sống của nó, từ hoạt động thực tiễn, lối sống, nhân cách, lời nói đến ý thức, tư tưởng, tâm lý, tình cảm…

Tất nhiên, những thực thể hiện đại đó cũng phức tạp hơn, đa dạng hơn, nhiều ngõ ngách mê cung, nhiều nghịch lý “cái không thể trở thành cái có thể". Ở đây, sự hoạt động của cái đẹp, cái tốt, cái thật, cái mới không đứng ngoài những quy luật phổ biến của sự vận động và sự phát triển của con người và xã hội. Đó chính là sự vận động của mọi cái đang tồn tại, những bước nhảy vọt của sự gián đoạn tính tiệm tiến, sự chuyển hoá thành mặt đối lập, sự tiêu diệt cái cũ và sự nảy sinh ra cái mới, như Lê nin đã nói. Vì vậy tách rời, cô lập cái mới, cái đẹp, cái tốt ra khỏi mối liên hệ môi trường khách quan quy đinh chúng và cơ thể tự vận động, phát triển chủ quan của chúng thì chúng chỉ là một cái xác thậm chí, một quà tặng vô duyên đối với công chúng. "Tô hồng” cũng có nghĩa là “đánh lừa", dù xuất phát từ ý định thành thật biểu dương, ca ngợi đến mức nào.

Dự cảm, dự báo không phải là độc quyền hay ưu thể tuyệt đối của riêng nghệ thuật. Và cũng như bất cứ tư tưởng khoa học tiên tiến nào, nó là cái vốn có của ý thức thẩm mỹ chân chính khi nghệ sĩ nhận thức và phản ánh đúng đần nhũng điều trông thấy trong đời sống xã hội và xu hướng biển đổi tất yếu khách quan của nó. Nghệ thuật không chỉ tiên đoán, dự báo về sự nảy sinh, phát triển và chiến thắng của cái mới, cái đẹp mà còn dự đoán quá trình cái cũ, cái xấu sẽ tàn lụi, mất đi dù hôm nay nó đang hoành hành. Tính đi trước của tư tưởng khoa học ở chỗ chỉ ra con đường thực tiễn và cái đích, đi tới của sự phát triển xã hội do nắm bắt được những nhu cầu đã chín muồi của đời sống hiện thực, vì vậy, nó có ý nghĩa lớn lao trong việc hướng dẫn tổ chức và giáo dục quần chúng lao động và các lực lượng tiến bộ giải quyết những nhiệm vụ mới do chính đời sống thực tiễn đề ra. Còn nghệ thuật lại hình tượng hóa dự cảm để bộc lộ cụ thể, sinh động lý tường thẩm mỹ, trong đó cái đẹp cần có sẽ có vai trò trung tâm, hạt nhân hợp lý, tập trung và chi phối toàn bộ dự cảm nghệ thuật. Trong dự cảm này chất tư tưởng khoa học tiên tiến vê những quan hệ xã hội vừa là cơ sở khách quan trực tiếp vừa được hoà tan vào chất thẩm mỹ của cái đẹp được diễn tả. Đối với công chúng, dự cảm nghệ thuật đem lại chân lý, niềm tin của sự vươn tới về cái đẹp, gợi mở và thôi thúc hiện thực hóa nó thông qua sự tự thanh lọc, tự đồng hóa bằng chất men tình cảm vả ý thức xã hội của chủ thể thường thức.

Xét ở góc độ thẩm mỹ, cái đẹp trong nghĩa đầy đủ và sâu sắc nhất của nó dường như là cái cốt lõi của nhân bản, gốc rễ của chất người, bởi vì con người sáng tạo thế giới và sáng tạo mình "theo quy luật của cái đẹp". Những cái đẹp người và cái nhân bản không phải là cái thuần túy trừu tượng, phi xã hội – lịch sử do bản chất hiện thực của con người là một chỉnh thể "tổng hòa mọi quan hệ xã hội". Từ đó, cái đẹp nhân bản không thể không gắn bó chặt chẽ với tất cả những gì tác động qua lại với con người: đời sống kinh tế – xã hội, chỉnh trị, văn hóa, tư tưởng,… của một giai đoạn và thời đại của từng cộng đồng và tập đoàn xã hội nhất định và cả những điều kiện sống riêng của từng cá nhân, cá thể nào đó. Xét cho cùng, cái nhân bản, cái đẹp xã hội luôn mang tính cụ thể “chịu nhiều sự quy định" rất cụ thể, rất lịch sử và do đó chúng cũng biến đổi, phát triển trong sự phát triển chung toàn xã hội. Một xã hội thực sự cố tính loài, có nhân bản chỉ có thể tìm thấy ở xã hội cọng sàn chủ nghĩa với bước đi ban đầu của nó là xã hội chủ nghĩa. Do chính là thế giới của chủ nghĩa nhân đạo, nhân bàn thực sự, của "chủ nghĩa cộng sản” với tính cách là sự xóa bỏ một cách tích cực chế độ tư hữu như là sự tự tha hóa của con người, và do đó coi như sự chiếm hữu một cách thực sự bản chất con người bởi con người và vì con người do đó, coi như việc con người xã hội, nghĩa là có tính chất người – sự quay trở lại này diễn ra một cách có ý thức và có giữ lại tất cả sự phong phú của sự phát triển đã đạt được" (C.Mác). Prômêtê và Sơn Tinh, Anna Karênina và Thúy Kiều là nhân loại đang đi tìm cái toàn nhân loại trong từng nấc thang nghiệt ngã của sự tiến triển lịch sử – cụ thể. Những Sêchxpia, Huy gô, Bandăc, Lêôna đơ Vanhxi, Bethôven, Tônxtôi, Gôrơki, Nguyễn Du không phải là những nhà nhân đạo chủ nghĩa của thế kỷ XXI, mà là những đại biểu khổng lồ đấu tranh cho lý tưởng nhân bản trong những không gian và thời gian đương đại của họ, và chính vì vậy họ trở thành bất tử, vĩnh hằng trong dòng đời vô tận. Gần đây, người ta đã đội danh "chất người muôn thuở" đứng trên mọi xung đột xã hội để đánh đồng, đánh lộn, xóa sạch những cái vốn có ranh giới rõ ràng và đối lập trong mọi mặt của đời sống hiện thực. Người ta cũng treo biển "xem xét lại số phận và thiên chức con người" để mơn trớn, kích động những cái thấp hèn mà con người đích thực đang loại trừ hoặc co rút vào "bí ẩn vũ trụ riêng" để nhấm nháp, vuốt ve những mành tâm hồn tủn mủn, lạc lõng, thiếu hẳn một giá trị xã hội – thẩm mỹ cần thiết. Rút cục lại tất cả những cái mà người ta mệnh danh là "phát hiện", trở lại mình và "sáng tạo mới" trên đầy thực ra chỉ là sự vơ vào và nhai lại những "của nợ" mả cả lịch sử xã hội lẫn lịch sử nghệ thuật đã thải bỏ.

Trên tinh thần nghệ thuật hướng tới cái đẹp, cái nhân bản giá trị nhận thức – cảm hóa thẩm mỹ của nghệ thuật không loại trừ yêu cầu mô tả cái xấu, cái không nhân bản cái đối lập với cái đẹp và cái chất người. Trong những hoàn cảnh lịch sử nhất đinh và do yêu cầu phê phán xã hội, đối với một số nghệ sĩ nào đó, cái xấu được phản ánh, mô tả trực tiếp và gần như là duy.nhất (như Gôgôn, Vũ Trọng Phụng đã làm). Ở đây, cái xấu, cái ác được mô tả là cái chướng ngại của sự phát triển con người, thù địch với những gì là chất người dù ở một phạm vi sinh hoạt nhỏ nhất của nó. Nhưng cái xấu, cái ác, dù ma quái "hấp dẫn", hoành hành ngang nhiên hay ẩn náu giấu mặt đến thế nào chăng nữa rút cục cũng không thoát khỏi định mệnh sòng phẳng là bị tiêu diệt, do mâu thuẫn bên trong của nó, do áp lực và sự trừng phạt của cái đẹp, cái tốt, cái mới. Chính nghệ thuật quá khứ, từ bi kịch cổ đại đến chủ nghĩa hiện thực phê phán đã thấm đượm tinh thần nhân đạo chiến đấu đến cách nhìn mang những nhân tố phủ định biện chứng nhất định.

Mô tả, phản ánh cái " không phải là chết người", nếu chỉ dừng lại ở hiện tượng bên ngoài, đơn giản, hoặc thổi phồng quá khích, tuyệt đối hoá như một tai họa vĩnh cửu, một bản chất duy nhất của xã hội với cái tâm thương vay hoặc thù hận, thì chỉ đem lại cho công chúng sự nhận biết hời hợt vô bổ, "lo âu" buồn nôn và “tuyệt vọng" trước cuộc sống đang cần phải vượt lên. Bôi đen thực chất là vi phạm tính chân thực nghệ thuật và tính chân thành của nghệ sĩ. Gốc rễ của thứ "sáng tạo bóng tối" này là cách nhìn đời qua tấm kính của một "linh hồn chết" không mảy may niềm tin vào con người với tư cách là chủ thể quyết định vận mệnh của chính nó và vì nó. Cơn khủng hoảng hiện nay của không ít khuynh hướng nghệ thuật tư sản là sự chối bỏ chúng của đông đảo quần chúng Phương Tây là một điều có thể cắt nghĩa được.

Quan điểm phê phán của chủ nghĩa nhân đạo đích thực bao giờ cũng gắn liền với sự xem xét thế giới trong tính cụ thể lịch sử, trong tính phát triển, đổi mới và cách mạng. Việc định rõ bản chất, cấp độ và phạm vi của cái xấu, cái ác cái giả có ý nghĩa nhận biết và cảm hóa rất cụ thể, rất thực tiễn đối với quần chúng. Một sự mô tả và phê phán cái xấu bằng cặp mắt tùy tiện, trùm lấp hay mơ hồ sẽ không ra khỏi tầm nhìn của anh chàng Chí Phèo chửi cả làng Vũ Đại nhưng ai cũng nghĩ "nó chừa mình ra". Có hành động dại dột, lỗi thời vì chúng sinh đau khổ của hiệp sỉ Đônkihôtê, có bệnh tâm thần của giai cấp cầm quyền lầy lan đến tận tâm não anh cùng đinh A.Q có thời Ôblômôp và nhân cách cửa những linh hồn chết, có lão keo kiệt Grăngđê và người hùng hãnh tiến Saclơ, có Nghị Quế và có Xuân tóc đỏ, có Quỷ Mêphixtô và có bệnh sĩ của cậu giáo Thứ… Sự đa dạng, phong phú, phức tạp trong mô tả cái xấu cũng từ bản chất và cấp độ, phạm vi và vị trí của chính nó trong cuộc sống mà ra. Trước cái xấu được nghệ thuật trình diễn, quần chúng sẽ có được những gam cảm xúc tương ứng, hoặc căm giận, hoặc "vui vẻ tiễn biệt quá khứ" (Mác) hoặc “buồn bực đức hạnh" (Hêgen). Cuối cùng là, khi cảm nhận cái xấu, nhân dân ta nên cao hơn cái xấu và hướng tới cái tốt, cái đẹp. Nghệ thuật phán xét cái xấu một cánh đúng đắn chính là "bông hoa của văn minh, rau quả của tinh thần xã hội phát triển" (Biêlinxki).

Con đường nghệ sĩ tiếp cận cái đẹp trong đời thực và đưa nó vào nghệ thuật là không đơn giản. Điều đó đòi hỏi năng lực toàn diện của nghệ sĩ. Vấn đề là ở chỗ: Công chúng khi tiếp nhận tác phẩm nghệ thuật không thề "chỉ thấy tối sầm” mà phải có được ánh sáng để "nhảy qua bóng tối" đi tới cuộc sống cần có. Thật là buồn phiền, mấy năm trở lại đầy, nền nghệ thuật của chúng ta lặn ngập quá sâu vào đời thường mà hiệu quả xã hội của nó thật ít ỏi. Những bông hoa nghệ thuật chưa mọc lên rực rỡ, tác giả có tầm cỡ chưa xuất hiện. Công chúng nghệ thuật vẫn chờ đợi và vẫn tin rằng xã hội của chúng ta, với những xúc cảm lớn nhất định sẽ kết tinh được các giá trị nghệ thuật xứng đáng với cuộc đời.

Nghị luận xã hội về cái đẹp trong thiên nhiên và trong xã hội – Bài số 3

Hoa không nên thấy rụng, trăng không nên thấy chìm, mĩ nhân không nên thấy chết yểu.

Trông hoa nên thấy hoa nở, đón trăng nên thấy trăng tròn, viết sách nên viết cho xong, mĩ nhân nên thấy vui vẻ, sung sướng, nếu không thì uổng công.

Ngắm đàn bà buổi sáng, nên đợi lúc phấn son xong.

Có những bộ mặt xấu mà dễ coi, có những bộ mặt không xấu mà khó coi; những áng văn viết không thông (mẹo) mà khả ái, có những áng văn viết thông đọc rất chán. Điều đó, không dễ gì giảng cho hạng nông cạn hiểu được.

Lấy lòng yêu hoa mà yêu mĩ nhân thì tất cả có cái thú riêng; lấy lòng yêu nhân mà yêu hoa thì thêm cái thâm tình và thêm lòng nâng niu thương tiếc.

Mĩ nhân hơn hoa ở chỗ biết nói; hoa hơn mĩ nhân ở chỗ tỏa hương. Nếu không được cả hai thì bỏ hương mà lựa biết nói. Thường hoa đẹp thì không thơm, cánh nhiều tầng thì không trái.

Gọi mĩ nhân thì mặt đẹp như hoa, tiếng nói như chim, tinh thần như trăng, vẻ như liễu, xương như ngọc, da như băng tuyết, dáng như nước thu, lòng như thơ, không còn chỗ nào chê cả.

Trong thiên hạ không có sách thì thôi, có thì phải đọc; không có rượu thôi có thì phải uống; không có núi đẹp thì thôi, có thì phải tới chơi; không có hoa có trăng thì thôi, có thì phải mến yêu, thương tiếc.

Người đàn bà xấu không cho gương là thù địch vì nó là vật vô tri, nếu gương mà hữu tri thì tất đã tan tành rồi.

Mua được một chậu hoa đẹp còn nâng niu thương tiếc, huống là đối với với “một hoa biết nói".

Không có thơ thì rượu sơn thủy cũng vô nghĩa; nếu không có đàn bà đẹp thì trăng hoa cũng vô ích. Tài tử mà lại đẹp, giai nhân mà lại biêt làm văn đều là không thọ được. Không phải chỉ vì tạo vật đố kị, mà còn vì hạng người đó không phải bảo vật của một thời, mà là bảo vật cổ kim vạn đại, cho nên tạo hoá không muốn cho lưu lại lâu trên đời mà hoá nhàm.

Nghị luận xã hội về cái đẹp trong thiên nhiên và trong xã hội – Bài số 4

Ngày nay khi xã hội càng phát triển thì nhu cầu về thẩm mỹ của con người càng được nâng cao và hoàn thiện hơn. Mỹ học ra đời là để đáp ứng nhu cầu về thẩm mỹ của loài người. Điều này khẳng định rằng vai trò của Mỹ học trong đời sống là hết sức quan trọng. Khi nói về vấn đề này (vai trò của Mỹ học trong đời sống) Tiến sĩ Mỹ học Thế Hùng đã nói: “Nghiên cứu Mỹ học là một nhân văn cho con người và vì con người, góp phần làm cho con người trở nên người hơn”. Và khi nhắc đến Thế Hùng, công chúng nghe nhạc hẳn sẽ không quên nhắc đến tác phẩm “Mùa xuân Quan họ”. Ông là Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, một thi sĩ, họa sĩ tài hoa. Vì vậy khi giảng dạy môn Mỹ học trong các trường Đại học và đặc biệt là khi nói về phạm trù cái đẹp là trung tâm nhất đại diện cho thẩm mỹ, ông như chìm đắm vào trong đó để rồi chỉ bằng những lời nói, những cử chỉ nhẹ nhàng tinh tế ông đã gieo vào lòng thế hệ trẻ những gì tốt đẹp nhất, nhân văn nhất của đời sống và giúp cho thế hệ trở nhìn nhận đúng nhất về Mỹ học, về cái đẹp trong xã hội. Một lần nữa khẳng định rằng trong đời sống Mỹ học rất quan trọng bởi con người rất cần đến nó, ngay từ khi còn nằm trong bụng mẹ đứa trẻ đã cần đẹp, rồi khi lớn lên điều đó lại càng quan trọng. Không chỉ về hình thức mà còn cần phải đẹp về tâm hồn. Mà ngay từ khi sinh ra đứa trẻđã được sống trong sự đùm bọc yêu thương chăm sóc của gia đình. Đó là cái nôi để hình thành nhân cách ở trẻ và được mười hai bà mụ “dạy ăn, dạy nói, dạy khóc, dạy cười” sao cho “ba tháng biết lẫy, bảy tháng biết bò, chín tháng lò dò biết đi” rồi lại được nhân gian “dạy ăn, dạy nói, dạy gói, dạy mở” và lẽ đương nhiên muốn trở thành người tử tế có vẻ đẹp tâm hồn, vẻ đẹp về nhân cách thì phải “học ăn, học nói, học gói, học mở”. Có thể nói cái đẹp theo con người đến tận cùng của cuộc sống – còn nhân loại là còn cái đẹp. Vì thế cái đẹp là một giá trị mà con người cần đạt đến. Cái đẹp là phạm trù cơ bản trung tâm của Mỹ học, là nền tảng cốt lõi của ba phạm trù: cái bi, cái hài, cái trác tuyệt Cái đẹp vừa mang tính thời sự, muôn thuở, mãi mãi. Cũng có những cái đẹp chỉ tồn tại ở một thời điểm nhất định: mốt, xe – cộ, đầu tóc Nhưng ngược lại những tác phẩm tuyệt vời đạt đến Chân – Thiện _ Mỹ, mang tính nhân dân, nhân loại, dân tộc thì không bao giờ cũ đó là những công trình, những tác phẩm nghệ thuật và nó trường tồn mãi mãi với thời gian. Cái đẹp được tồn tại ở ba hình thức đó là: Cái đẹp tự nhiên, cái đẹp trong xã hội, cái đẹp trong nghệ thuật. Khi xét về những cái đẹp trong tự nhiên là người ta nói đến những cái đẹp mà tạo hoá đã ban tặng cho con người: trời, mây, sông núi đó là những phong cảnh sơn thuỷ hữu tình. Chính từ đây mà những nghệ sĩ đã sáng tạo ra những kiệt tác: thi, ca, nhạc hoạ. Trong số đó có nhạc sĩ Thế Hùng, ông lấy cảm xúc dạt dào từ Hội Lim mà cho ra đời tác phẩm đầu tay mang âm hưởng trữ tình, nhẹ nhàng, sâu lắng về những liền anh, liền chị xứ Kinh Bắc quyến luyến chia tay khi tan hội ra về để chờ hội sau: Đó là nhạc phẩm: “Mùa xuân quan họ”. Giai điệu của bài hát đã được công chúng ghi nhận một cách nồng nhiệt và vẫn như còn nguyên nét tươi mới và in đậm trong lòng những ai yêu mến ông và đã một lần thưởng thức bài hát này. Không những thế, ông còn là một thi sĩ tài ba. Cũng lấy cảm xúc từ nét đẹp trong tự nhiên mà ông đã sáng tác nhiều bài thơ rất hay góp phần phong phú cho làng thơ mới Việt Nam.

Trong cuộc sống con người cũng cần sáng tạo ra nhiều thứ để làm đẹp cho xã hội, cho chính bản thân họ và phục vụ nhu cầu của họ. Một trong số đó chính là vẻ đẹp tâm hồn – nét đẹp trong xã hội – đó là cách ứng xử giữa con người với con người, con người với tự nhiên, con người với xã hội. Cái đẹp trong xã hội ở đây chính là văn hoá ứng xử, vậy ta cần hiểu “Văn hoá ứng xử” như thế nào? Văn hoá là đem những cái đẹp đẽ để giáo hoá con người trở nên tốt đẹp hơn, thánh thiện hơn. Người xưa có câu: “Lời nói chẳng mất tiền mua Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau” (1). Văn hoá ứng xử chính là lối sống, lối suy nghĩ, những hành động mang tính nhân văn của con người ứng xử với tự nhiên, đó là một triết lý sống của xã hội, của cộng đồng người với tự nhiên. Chủ tịch Hồ Chí Minh có câu: Mùa xuân là tết trồng cây Làm cho đất nước càng ngày càng xuân”. Hay như một lời ca dân gian: “Cái hoa xuân nở Cái lá xuân xanh Ai muốn chiết cành Hãy đợi mùa Xuân”. Ứng xử với thiên nhiên đã vậy thì đối với con người với xã hội thì lại càng phải nhân văn hơn, khéo léo hơn, như người xưa đã dạy tuỳ cơ mà ứng biến. Ngay từ khi sinh ra chúng ta đã được sống trong mái ấm gia đình, đây là cơ sở, là nền tảng của văn hoá ứng xử rồi đến trong xóm ngoài làng, đất nước, quốc tế. Trong gia đình luôn phải giữ cho Trên thuận, dưới hoà. Công cha như núi Thái Sơn Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra (2). Ứng xử với xóm làng: “Ở sao cho vừa lòng người Ở rộng người cười, ở hẹp người chê” (3). Văn hoá ứng xử là cái đẹp trong xã hội loài người nó biểu hiện rất rõ ở phong tục tập quán, lễ nghi, nếp sống, lối suy nghĩ, Bản chất của văn hoá ứng xử là chữ Tâm và chữ Nhẫn. Chữ Tâm ở đây là tim – là đạo đức. Truyện Kiều của Nguyễn Du có câu: “Thiện căn ở tại lòng ta Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài” (4) Trong luân thường đạo lý có 5 bậc trong ứng xử. Quan hệ vua tôi, quan hệ thầy – trò, quan hệ cha mẹ – con cái, Quan hệ vợ chồng, anh em, bạn bè. Mà nguyên tắc ứng xử là phải trung dung, trung đạo. Con người ta sống phải biết ứng xử sao cho đẹp, làm sao để trung hoà được cả bảy đức tính vừa tốt, vừa xấu trong bản thân mình: Ái – Ố – Hỉ – Nộ – Ai – Lạc – Dục thì người đó mới trở thành con người tốt đẹp. Trong quan hệ thầy trò : Thầy phải hết lòng vì trò, ngược lại trò phải hết mực kính trọng thầy. Cổ nhân đã có câu: “Không thầy đố mày làm nên” (5). hay: “Muốn sáng thì bắc cầu kiều Muốn con hay chữ thì yêu lấy thầy”.

Vũ Hường tổng hợp

Từ khóa tìm kiếm

  • cái đẹp trong tự nhiên
  • nghị luận về cái đẹp
  • nghị luận về cái đẹp trong xa hoi hien dai
  • Nghị luan cai đep thiên nhien
  • Vẻ đẹp của thiên nhiên nghị luận xã hội

huynh hao

0 chủ đề

23969 bài viết

0