18/06/2018, 15:30

Napoléon Bonaparte

Phạm Văn Tuấn HOÀNG ĐẾ NAPOLÉON BONAPARTE (1769 – 1821 ) Đối với các binh lính mà ông chỉ huy ngoài mặt trận, Napoléon được gọi bằng một tên thân mến là “Viên Hạ Sĩ nhỏ bé” (the Little Corporal). Napoléon là một vị tướng chỉ cao 1 thước 57 (5 ft 2 in.), chiều ...

Phạm Văn Tuấn

Napoleon Crossing the Alps

HOÀNG ĐẾ NAPOLÉON BONAPARTE (1769 – 1821 )

Đối với các binh lính mà ông chỉ huy ngoài mặt trận, Napoléon được gọi bằng một tên thân mến là “Viên Hạ Sĩ nhỏ bé” (the Little Corporal). Napoléon là một vị tướng chỉ cao 1 thước 57 (5 ft 2 in.), chiều cao trung bình của một người dân Pháp vào thời đại đó, ông thấp hơn các tướng lãnh dưới quyền và các chính khách đương thời của châu Âu, nhưng Napoléon là một con người đầy nghị lực và rất tham vọng: ông là một nhà cai trị xuất chúng, đã đồng thời kiểm soát hệ thống chính trị, chính sách đối ngoại, các công việc đối nội, ngành báo chí của toàn thể nước Pháp. Napoléon đã nghĩ ra rất nhiều cải cách hữu ích kể cả việc thiết lập nên một chính quyền trung ương vững mạnh, hữu hiệu, đã duyệt xét lại và tổ chức lại hệ thống luật pháp của nước Pháp thành bộ luật hữu lý. Nhiều công trình cải tiến hành chính của Napoléon vẫn còn tồn tại cho tới ngày nay trong các cơ chế chính quyền của nước Pháp và tại các quốc gia theo ảnh hưởng và văn minh Pháp.

Napoléon đã tự phong làm Hoàng Đế của nước Pháp và đã tạo ra một đế quốc trải rộng khắp miền tây và miền trung của châu Âu. Hoàng Đế Napoléon đã là chủ nhân của toàn thể châu Âu trong 16 năm: ông đã khéo léo sử dụng các người dưới quyền có khả năng và đã tưởng thưởng họ bằng các huy chương, cấp bậc, tài sản và các danh hiệu quý tộc. Napoléon đã trực tiếp điều khiển các trận chiến vĩ đại và rất phức tạp, điều này chứng tỏ ông là một thiên tài quân sự, có lẽ vĩ đại bậc nhất trong Lịch Sử của Nhân Loại.

1- Thuở thiếu thời của Napoléon Bonaparte.

Napoléon sinh ngày 15-8-1769 tại Ajaccio, trên hòn đảo Corsica không bao lâu sau khi hòn đảo này được chính quyền Genoa bán cho nước Pháp. Napoléon là người con thứ tư trong gia đình 8 người con và là con trai thứ hai của ông Carlo Buonaparte và bà Letizia Ramolino. Ông Carlo là một luật sư, có dòng dõi quý tộc của xứ Tuscan và dòng họ này đã di cư và sống trên đảo Corsica vào thế kỷ 16. Ông Carlo đã cưới bà Letizia, một thiếu nữ 14 tuổi trẻ đẹp và là người có ý chí mạnh. Họ đã phải nuôi dưỡng 8 người con trong một hoàn cảnh eo hẹp về tài chính. Khi người Pháp chiếm đóng đảo Corsica thì một số người dân địa phương đã nổi lên chống lại chính quyền Pháp, thủ lãnh là ông Paoquale Paoli. Ông Carlo Buonaparte đã tham gia vào đảng phái của ông Paoli nhưng khi ông thủ lãnh này bỏ trốn, ông Carlo đã hợp tác với người Pháp. Nhờ sự bảo trợ của vị thống đốc đảo Corsica, ông Carlo được bổ nhiệm năm 1771 làm phụ thẩm (assessor) của khu vực tư pháp Ajaccio. Năm 1778, ông Carlo đã xin được phép cho 2 con trai lớn là Joseph và Napoléon theo học trường trung học d’Autun (College d’Autun).

Với nguồn gốc đảo Corsica và tên theo tiếng Ý là Napoleone Buonaparte, Napoléon là một đứa trẻ ngoại quốc có tình tình địa phương, rất ghét người Pháp là lớp người bị dân chúng coi là kẻ áp chế. Khi lên 9 tuổi, Napoléon được cha gửi theo học trường quân sự tại Brienne-le-Chateau, một tỉnh nhỏ gần Troyes.

Napoléon là một thiếu niên nhạy cảm, cô đơn, thường bị các bạn cùng lớp bắt nạt. Sự tàn nhẫn của các bạn học đã khiến cho Napoléon thu mình vào các mơ mộng về vinh quanh cá nhân và chiến thắng quân sự. Napoléon là một học sinh trung bình về phần lớn các môn học nhưng lại xuất sắc về Toán Học. Năm 1784, Napoléon được chọn lựa vào Học Viện Quân Sự Paris, theo binh chủng Pháo Binh. Trong thời gian Napoléon theo học tại thành phố Paris thì người cha qua đời vì bị ung thư bao tử vào tháng 2 năm 1785, để lại một gia đình sống trong hoàn cảnh eo hẹp. Tháng 9 năm đó, Napoléon tốt nghiệp Học Viện Quân Sự với cấp bậc Thiếu Úy, xếp hạng 42 trong số 58 tân sĩ quan. Sau đó, Napoléon phục vụ tại Trung Đoàn Pháo Binh Le Fère, trú đóng tại Valence. Đây là trường huấn luyện các sĩ quan Pháo Binh trẻ. Napoléon tiếp tục học hỏi bằng cách tìm đọc rất nhiều sách vở về chiến thuật và chiến lược, đọc các tác phẩm của Voltaire và Rousseau, và cũng đã tập viết văn, đúc kết lại thành “Các bức thư về Đảo Corsica” (Lettres sur la Corse) trong đó mô tả các cảm tình của mình đối với nơi sinh trưởng. Tháng 9-1786, Napoléon trở lại đảo Corsica và đã không tham gian vào Trung Đoàn Pháo Binh cho tới tháng 6-1788. Vào giai đoạn này, toàn thể nước Pháp đang sôi động vì các biến cố chính trị và cuộc Cách Mạng Pháp sắp sửa bùng nổ. Napoléon tin tưởng rằng chắc chắn sẽ có cuộc thay đổi chính trị tại nước Pháp.

2- Thời kỳ Cách Mạng Pháp.

Vào năm 1789, các nhà cách mạng Pháp đã hội họp tại Paris để thành lập nên Quốc Hội và chế độ quân chủ lập hiến, họ đã cho phép ông Pasquale Paoli trở về đảo Corsica và vào tháng 9 năm đó, Napoléon cũng quay về nghỉ tại đảo này. Tại quê hương, Napoléon muốn tham gia vào phong trào của ông Paoli nhưng vị lãnh tụ của phong trào chính trị địa phương này đã không tin tưởng chàng thanh niên Napoléon vì người cha, ông Carlo, đã không trung thành với lý tưởng tranh đấu cho địa phương. Do bị gạt ra khỏi nhóm đấu tranh và bị thất vọng, Napoléon trở lại nước Pháp và vào tháng 4-1791, được bổ nhiệm làm Trung Úy tại Trung Đoàn Pháo Binh thứ 4, đóng tại Valence. Chính tại nơi này, Napoléon đã tham gia vào Câu Lạc Bộ Jacobin, một hội chính trị cấp tiến, lúc đầu chủ trương một nước cộng hòa dân chủ. Napoléon đã trở nên chủ tịch của câu lạc bộ và trong các lần phát biểu, thường công kích các nhà quý tộc, các giám mục và các thầy tu.

Tháng 9 năm 1791, Napoléon xin nghỉ phép và trở về sống tại đảo Corsica trong 3 tháng, và trong thời gian này, ông đã phục vụ trong quân đội địa phương của đảo (the Corsican National Guard). Sự tham gia vào câu lạc bộ Jacobin và khuynh hướng chính trị cấp tiến của Napoléon đã gây nên sự bất hòa giữa Napoléon và ông Paoli, một người bảo hoàng. Sau khi cuộc Cách Mạng Pháp xẩy ra và Vua Louis 16 bị hành quyết vào tháng 1-1793, thì ông Paoli với chủ trương tách đảo Corsica ra khỏi nước Pháp, đã tuyên bố Napoléon là kẻ bị đặt ra ngoài vòng pháp luật. Các người trong gia đình Buonaparte đành phải rời khỏi hòn đảo, chạy qua đất Pháp. Napoléon trở về phục vụ trong Quân Đội Pháp và đóng tại thành phố Paris.

Dưới chế độ quân chủ Bourbon, Napoléon có rất ít hy vọng được thăng cấp nhưng khi cuộc Cách Mạng Pháp lên cao độ vào ngày 10-8-1792 với chế độ quân chủ đã bị lật đổ và một nước Cộng Hòa được thành lập, thì đây là cơ hội rất tốt, có tính quyết định đối với cuộc đời của Napoléon và đã mở ra để Napoléon tiến lên đài vinh quang. Vào thời gian này, phần lớn các sĩ quan cao cấp của quân đội Pháp vẫn còn trung thành với nhà Vua nhưng Napoléon lại xét đoán thời cuộc theo một đường hướng khác. Nước Cộng Hòa Pháp hiện đang phải đối đầu với cuộc nội chiến và các cuộc chiến tranh với các nước lân bang. Nền Cộng Hòa đang rất cần các sĩ quan có khả năng và trung thành với chế độ mới.

Năm 1792, Napoléon mang cấp bậc Đại UÔy rồi phục vụ tại Nice vào tháng 6-1793. Vào thời gian này, Napoléon đã viết một bài báo, có tên là “Souper de Beaucaire” qua đó ông kêu gọi các người cộng hòa phải đoàn kết chung quanh nhóm Jacobin, là những người càng ngày càng trở nên cấp tiến hơn. Tới cuối tháng 8-1793, đạo quân của Hội Nghị Quốc Ước đã chiếm được thành phố Marseille nhưng đã bị chặn lại tại thành phố Toulon là căn cứ của các kẻ bảo hoàng, những người này đang kêu gọi sự trợ giúp của quân đội Anh. Trong một trận đánh tại Toulon, do vị chỉ huy Pháo Binh của đạo quân cách mạng bị thương và cũng do lời đề nghị của ủy viên chính trị Antoine Saliceti là một người đảo Corsica và là bạn với gia đình, Napoléon được đề nghị giữ chức chỉ huy trưởng Trung Đoàn Pháo Binh, được thăng cấp bậc Thiếu Tá vào tháng 9 và tham dự vào công cuộc vây hãm thành phố Toulon. Chính tại nơi này, Napoléon đã bộc lộ khả năng của một vị tướng tài và một nhà lãnh đạo uy dũng.

Vào tháng 12-1793, Napoléon ra lệnh đặt các khẩu đại bác ở trên cao, hướng về hải cảng Toulon và bắn vào các tầu chiến Anh, vì vậy hạm đội Anh phải rút lui và quân Cách Mạng Pháp đã chiến thắng tại Toulon. Do chiếm được thành phố này, Napoléon được phong chức Thiếu Tướng (Brigadier General) lúc mới 24 tuổi. Augustin de Robespierre, ủy viên chính trị của Quân Đội Cách Mạng Pháp, đã phải gửi cho người anh là Maximilien Robespierre khi đó là người đứng đầu chính quyền Pháp và là một trong các nhà lãnh đạo của thời kỳ khủng bố, một bức thư ca tụng “công lao ưu việt” của viên sĩ quan trẻ Napoléon Bonaparte, thuộc đảng Cộng Hòa. Napoléon đã thành công vì biết áp dụng khéo léo một kỹ thuật quân sự mới là Pháo Binh vào chiến tranh.

Tháng 2-1974, Napoléon được bổ nhiệm làm chỉ huy trưởng lực lượng Pháo Binh của đội quân Pháp trú đóng tại nước Ý, nhưng khi Maximilien Robespierre bị truất quyền vào ngày 9 tháng Thermidor (27-7-1794) thì Napoléon liền bị bắt về tội âm mưu và phản bội, vì đã là người được Robespierre che chở. Napoléon được trả lại tự do vào tháng 9 nhưng không được phục hồi quyền chỉ huy. Vào tháng 3 năm sau, Napoléon được đề nghị chức vụ chỉ huy lực lượng Pháo Binh miền Tây để chống lại lực lượng phản cách mạng tại miền Vendée nhưng ông đã từ chối vì cho là không có tương lai. Napoléon trở về Paris.

Cuộc sống tại thành phố Paris đối với Napoléon đã không dễ chịu, nhất là khi ông lại liên quan tình cảm với nàng Desirée Clary, con gái của một thương gia giàu có thuộc miền Marseille và là em của chị dâu Julie, người đã lấy anh Joseph. Napoléon đã không thể xin được một chức vụ nào vì nhiều nhà chính trị thời đó e ngại sự liên kết của Napoléon với nhóm “Montagnard” là những nhân vật cấp tiến của Hội Nghị Quốc Ước, họ cũng e ngại các tham vọng của Napoléon. Vì tài năng không được sử dụng, Napoléon dự định đi xa phục vụ cho việc canh tân quân đội của quốc vương Thổ Nhĩ Kỳ.

3- Thời kỳ Hội Đồng Chấp Chính.

Vào tháng 5 năm 1795, khi Napoléon đang sống tại thành phố Paris thì Hội Nghị Quốc Ước đưa ra trưng cầu dân ý bản hiến pháp mới của năm thứ ba thuộc Nền Cộng Hòa Thứ Nhất, cùng với các đạo luật theo đó hai phần ba nhân viên của Hội Nghị Quốc Ước sẽ được bầu lại vào các hội nghị lập pháp mới. Cũng vào giai đoạn này, các người bảo hoàng muốn tái lập chế độ quân chủ, nên đã xúi giục dân chúng Paris nổi loạn, khiến cho cuộc trưng cầu dân ý không thể thực hiện được. Lúc bấy giờ, Tử Tước Paul de Barras là người được Hội Nghị Quốc Ước giao cho các quyền lực, đã không tin cậy vào vị chỉ huy quân đội của Bộ Nội Vụ và do được biết tới chiến thắng của Napoléon tại Toulon, nên đã chỉ định Napoléon làm chỉ huy phó. Ngày 13 tháng Vendemaire năm thứ 4, tức là ngày 5-10-1795, khi đám đông biểu tình rầm rộ trước Điện Tulleries, Napoléon đã hạ lệnh đặt các khẩu đại bác và bắn thẳng vào đám người biểu tình. Hàng trăm người chết và bị thương. Đường phố Paris nhờ vậy sớm trở lại yên tĩnh. Napoléon đã cứu được Hội Nghị Quốc Ước và chế độ Cộng Hòa, và rồi trở thành chỉ huy trưởng của quân đội thuộc Bộ Nội Vụ, nhờ đó biết được tất cả các tiến triển chính trị tại thành phố Paris. Napoléon được phong Trung Tướng và cũng là vị cố vấn quân sự cho chính phủ mới, là Hội Đồng Chấp Chính (The Directory) với Paul de Barras là một trong năm nhân vật điều khiển Hội Đồng này. Chính vào thời gian này, Napoléon đã làm quen với góa phụ của Tướng Alexandre de Beauharnais, một người đã chết trên đoạn đầu đài trong thời kỳ khủng bố. Bà góa phụ này hơn Napoléon 6 tuổi, tên là Josephine Tascher de la Pagerie, là một người gốc gác thuộc hòn đảo Martinique miền Tây Ấn, có hai con và nhiều mối tình với vài nhân vật danh giá.

Cũng vào thời gian này, Napoléon đã tỏ ra trung thành với Hội Đồng Chấp Chính nhờ công lao giải tán một nhóm người Cộng Sản chủ trương do Francois Babeuf và Filippo Buonarroti, một người Ý mà Napoléon đã quen biết từ đảo Corsica.

Vào tháng 3 năm 1796, Napoléon được cử làm Tư Lệnh đạo quân Pháp tại Ý Đại Lợi, chỉ huy một chiến dịch mà Hội Đồng Chấp Chính trù liệu rằng Napoléon sẽ ngăn chặn đạo quân Áo đóng tại nước Ý trong khi các đạo quân Pháp lớn hơn sẽ băng qua nước Đức để đánh vào thành phố Vienna là thủ đô của nước Áo. Napoléon đã cưới Josephine de Beauharnais rồi 2 ngày sau, lên đường qua nước Ý, nhận chức vụ. Khi tới Bộ Chỉ Huy quân đội Pháp đóng tại Nice, ông thấy rằng đội quân này, với quân số 43,000 người nhưng thực ra chỉ có 30,000 binh lính vừa thiếu ăn, vừa thiếu mặc, thiếu trang bị và không được trả lương đầy đủ. Ngày 28 tháng 3 năm 1796, Napoléon đã nói trước quân đội: “Hỡi các binh sĩ, các người trơ trụi, thiếu ăn. Các tỉnh giàu có và các đô thị to lớn sẽ ở trong quyền lực của các người và tại các nơi đó, các người sẽ tìm thấy danh dự, vinh quang và tài sản. Hỡi các binh sĩ của miền Ý Đại Lợi, các người cần phải có can đảm và cương quyết”.

Ngày 12 tháng 4 năm đó, Napoléon đã đánh bại đạo quân Áo, chia cắt lực lượng này với đạo quân Sardina rồi tiến vào thành phố Turin. Vua của xứ Sardina là Victor Amadeus III phải xin đình chiến rồi sau Hiệp Ước Hòa Bình tại Paris vào ngày 15-5, hai xứ Nice và Savoy do người Pháp chiếm từ năm 1762, được sát nhập vào nước Pháp. Vào thời gian này, có một kế hoạch cải biến nước Ý theo chế độ cộng hòa do một số nhà ái quốc người Ý, lãnh đạo do Buonarroti, nhưng ông này đã bị bắt cùng với Babeuf vì chống lại Hội Đồng Chấp Chính. Trước hoàn cảnh chính trị của nước Ý, Napoléon đã cho lập nên một chế độ cộng hòa tại Lombardi nhưng vẫn cho theo dõi các nhà lãnh tụ Ý, và vào tháng 10 năm 1796, Napoléon đã dựng nên nước Cộng Hòa Cisalpine bằng cách phối hợp xứ Modena và Reggio nell’ Emilia với các miền đất thuộc Giáo Hoàng là Bologna và Ferrara đang do quân đội Pháp chiếm đóng.

Khi lực lượng Pháp do Napoléon chỉ huy bao vây Mantua, các đoàn quân của nước Áo đã bốn lần vượt qua rặng núi Alps để tiếp cứu Mantua nhưng quân Áo đã bị Napoléon đánh bại. Tháng 1 năm 1797, đoàn quân Áo phải đầu hàng tại Rivoli và thành trì Mantua thất thủ. Sau đó, Napoléon đưa quân tiến tới Vienna. Khi còn cách thủ đô nước Áo 100 cây số, người Áo đã xin đình chiến. Nước Áo bằng lòng nhường miền nam của xứ Hòa Lan cho nước Pháp và công nhận Cộng Hòa Lombardy thuộc về nước Pháp. Napoléon lo việc củng cố các chế độ cộng hòa tại miền bắc nước Ý là Cộng Hòa Ligurian (Genoa) và Cộng Hòa Cisalpine. Một số nhà ái quốc người Ý vào lúc này đã hy vọng rằng những phát triển chính trị này sẽ dẫn tới việc thành lập một quốc gia cộng hòa Ý theo kiểu mẫu của nước Pháp.

Các chiến dịch tại nước Ý do Napoléon điều khiển đã chứng tỏ thiên tài quân sự của ông, và cũng tại nước Ý, Napoléon đã làm phát triển một chiến thuật quân sự rất thành công, dùng làm căn bản cho các trận đánh lớn về sau. Napoléon đã dùng bộ óc bén nhậy của mình để quan sát các địa thế, hiểu rõ các chi tiết địa hình nào sẽ làm cản trở việc tiến quân. Ông sớm đoán trước được các kế hoạch của kẻ địch. Khi bắt đầu vào trận chiến, Napoléon đã để dự trữ một lực lượng lớn, quan sát rõ ràng mặt trận và tìm ra điểm yếu nhất của lực lượng địch, dồn sức mạnh quân sự vào điểm đó, chia hai lực lượng địch rồi vào thời điểm quyết định, dùng lực lượng dự trữ hùng hậu, thanh toán ngay một nửa địch quân và kẻ địch đã phải kinh hoàng trước sức tấn công bất ngờ như vũ bão. Napoléon Bonaparte là vị danh tướng có một khả năng đặc biệt, đó là nhận ra được thời điểm tốt nhất để tấn công. Bằng chiến thuật này, trong 11 ngày của năm 1796, Napoléon đã đánh bại đội quân Sardina đông gấp 5 lần. Napoléon đã theo đúng “nguyên tắc chia và chinh phục” (the principle of divide and conquer).

Napoléon còn tỏ ra có thiên tài về tâm lý và tuyên truyền. Ông đã nói trước hàng quân : “Trong hai tuần lễ, các người đã đạt được 6 chiến thắng. Các người đã bắt 15,000 tù binh. Các người đã giết chết hay làm bị thương 10,000 địch quân. Thiếu thốn đủ thứ, các người đã hoàn thành mọi nhiệm vụ. Các người đã chiến thắng mà không có đại bác, vượt qua sông mà không có cầu, tiến bước mà không có giầy, đóng quân mà không có rượu mạnh, và thường không có cả bánh mì. Chỉ có các đoàn quân của nước Cộng Hòa, chỉ có các người lính của Tự Do mới có khả năng chịu đựng những thiếu thốn mà các người đang phải chịu đựng. . . Tất cả các người đang náo nức mang vinh quang về cho dân tộc Pháp, làm khiêm nhường các vị vua kiêu căng dám xiềng xích chúng ta. Các người hãy trở về làng mạc của các người và nói một cách hãnh diện rằng “ta đã ở trong đoàn quân chinh phục Ý Đại Lợi” “

Vào mùa xuân năm 1797, các người bảo hoàng đã thành công trong cuộc bầu cử tại nước Pháp khiến cho Napoléon khuyên Hội Đồng Chấp Chính hãy cản trở họ và nếu cần thì dùng sức mạnh. Tới tháng 7 năm đó xẩy ra một cuộc đảo chính chống lại phe bảo hoàng, nhưng thất bại. Vì vậy Napoléon đã phái tướng Pierre Augereau về Paris. Cùng với một số sĩ quan và binh lính, cuộc đảo chính của tướng Augereau vào ngày 18 tháng Fructidor (4 tháng 9-1797) thành công, đã loại bỏ các người bảo hoàng khỏi chính phủ và khỏi các hội đồng lập pháp và đồng thời, cũng làm tăng uy tín của Napoléon.

Trong chưa đầy một năm, Napoléon đã chiến thắng 14 trận lớn và hơn 70 trận nhỏ. Đội quân của ông đã chinh phục các miền giàu có và những nơi này đã phải nuôi ăn và đóng góp cho quân đội Pháp. Hàng triệu quan tiền được gửi về nước Pháp để làm giảm nhẹ các gánh nặng tài chính của chính phủ trung ương. Vào tháng 10 năm 1797, nước Pháp và nước Áo đã ký kết Hòa Ước Campo Formio nhờ đó lãnh thổ Pháp được mở rộng. Napoléon trở về Paris và được đón mừng như một vị anh hùng. Napoléon Bonaparte đã mang lại vinh quang cho nước Pháp sau 5 năm chiến tranh trên lục địa của châu Âu.

4- Xâm lăng Ai Cập.

Sau khi đã chiến thắng được nước Áo và trở về Paris, Napoléon mang nhiều tham vọng lớn nhưng ông thấy chưa có đủ ảnh hưởng tác động tới chính quyền trung ương. Vào thời bấy giờ, tất cả các nước trên lục địa châu Âu đều phải quy phục nước Pháp, ngoại trừ nước Anh.

Vào cuối năm 1797, Hội Đồng Chấp Chính muốn thực hiện một cuộc đổ bộ qua nước Anh nên đã chỉ định Napoléon chỉ huy công cuộc viễn chinh qua eo biển Manche. Sau một cuộc thanh tra ngắn hạn vào tháng 2 năm 1798, Napoléon tuyên bố rằng cuộc xâm chiếm nước Anh chỉ thực hiện được sau khi nước Pháp làm chủ được mặt biển và ông đã đề nghị nên đánh phá các nguồn tài nguyên của nước Anh bằng cách chiếm đóng xứ Ai Cập và như vậy, đe dọa con đường dẫn tới Ấn Độ. Napoléon muốn bắt chước lối chinh phục của Đại Đế Alexander bằng cách chiếm đoạt đế quốc phía đông gồm Ai Cập, Ấn Độ, các miền đất Trung Đông và Viễn Đông. Đề nghị của Napoléon được vị Bộ Trưởng Ngoại Giao là ông Talleyrand ủng hộ và được các nhân vật lãnh đạo Hội Đồng Chấp Chính chấp thuận ngay, vì chính các vị này cũng đang muốn đẩy đi xa vị tướng trẻ nhiều tham vọng là Napoléon Bonaparte.

Vào tháng 5 năm 1798, Napoléon bắt đầu cuộc viễn chinh tại Ai Cập với 38,000 quân. Các chiến thắng bắt đầu: pháo đài Malta của các hiệp sĩ Hospitallers (the Knights Hospitallers of St. John of Jerusalem) bị thất thủ vào ngày 10-6-1798, rồi thành phố Alexandria của Ai Cập đầu hàng vào ngày 1 tháng 7. Napoléon đã đánh bại các kẻ cai trị xứ Ai Cập có tên là nhóm Mamelukes, trong trận đánh tại các Kim Tự Tháp gần thành phố Cairo. Rồi đồng bằng sông Nile bị chinh phục rất nhanh chóng. Nhưng, vào ngày 1-8-1798, hạm đội Pháp bỏ neo tại Vịnh Abu Qir đã bị hoàn toàn phá hủy bởi hạm đội Anh của Đô Đốc Horatio Nelson trong trận thủy chiến “Dòng Sông Nile” (the Battle of the Nile) khiến cho đoàn quân Pháp bị mắc kẹt trong miền đất mà họ đã chinh phục được và bị cắt đứt các nguồn tăng cường và tiếp tế. Cũng vào thời gian này, Napoléon đã cố gắng đưa vào xứ Ai Cập các định chế chính trị, cách quản trị và tài năng kỹ thuật của tây phương. Quốc gia bảo hộ Ai Cập là Thổ Nhĩ Kỳ bèn liên minh với các nước Anh, nước Nga và tuyên chiến với nước Pháp vào tháng 9 năm đó. Để ngăn chặn cuộc tấn công của Thổ Nhĩ Kỳ vào xứ Ai Cập và có lẽ cũng vì muốn trở về đất Pháp bằng con đường Anatolia, Napoléon đã đưa quân qua Syria vào tháng 2 năm 1799, tiến tới pháo đài Acre (ngày nay là Akko, thuộc nước Do Thái) và đoàn quân Pháp đã bị chặn đánh thảm bại tại nơi này. Napoléon đành phải rút về Ai Cập và khi tới Abu Qir, gần Vịnh Abu Qir, ông đã đánh thắng 10,000 quân Thổ Nhĩ Kỳ vào tháng 7 năm 1799.

Trận đánh “Dòng Sông Nile” đã cho người châu Âu thấy rằng Napoléon Bonaparte không phải là vô địch và các nước Anh, Áo, Nga, Thổ đã họp thành một liên minh quân sự mới, chống lại nước Pháp. Từ mùa xuân năm 1799, quân đội Pháp bị thua nhiều trận tại nước Ý và đã phải rút lui khỏi phần lớn bán đảo Ý Đại Lợi. Những thất bại quân sự này đã gây nên các xáo trộn trong nước Pháp. Ngày 30 tháng Prairial (18-6-1799), một cuộc đảo chính đã loại ra ngoài Hội Đồng Chấp Chính các nhân vật ôn hòa và đưa vô Hội Đồng này các đảng viên Jacobin, là các người cực đoan. Nhưng hoàn cảnh chính trị vẫn không ổn định. Một trong các nhân vật lãnh đạo Hội Đồng Chấp Chính là ông Emmanuel Sieyès đã tin chắc rằng chỉ có chế độ độc tài quân sự mới ngăn ngừa được việc phục hưng chế độ quân chủ. Ông Sieyès tuyên bố: “Tôi đang tìm kiếm một cây gươm”. Hội Đồng Chấp Chính đã ra lệnh cho Napoléon trở về đất Pháp.

Tình hình chính trị tại nước Pháp vào lúc này rất thuận tiện cho Napoléon. Việc phục hồi nhóm đảng viên Jacobin khiến cho các kẻ ôn hòa lo ngại sẽ xẩy ra một thời kỳ khủng bố mới, họ trông đợi một chính quyền mạnh, ngăn chặn được khuynh hướng cấp tiến này. Cũng vào thời gian này, Hội Đồng Chấp Chính đã thiết lập nên 4 nước cộng hòa vệ tinh là các xứ Batavian (Hòa Lan), Helvetian (Thụy Sĩ), Roman (La Mã) và Parthenopean (Naples). Các nhà lãnh đạo nước Áo, hay dòng họ Hapsburg, vì thế rất lo ngại ảnh hưởng của nước Pháp tại các miền đất Ý thuộc nước Áo trước kia, và Sa Hoàng Paul I (trị vì 1796-1801) lo sợ Napoléon sẽ làm hư hại các quyền lợi của nước Nga tại vùng Địa Trung Hải. Đế Quốc Pháp mới mẻ đã làm lệch đi sự thăng bằng chính trị của châu Âu nên các nước Anh, Áo và Nga đã lập nên liên minh quân sự thứ hai và trong năm 1799, quân đội Nga dưới quyền của Tướng Alexander Suvorov (1729-1800) đã nhiều lần đánh bại quân đội Pháp và Tướng Suvorov trở nên vị anh hùng của châu Âu. Vào tháng 8 năm 1799, quân Pháp bị đẩy ra khỏi lãnh thổ Ý và phần lớn các nước cộng hòa Pháp bị sụp đổ. Chính vào lúc này, lãnh thổ Pháp đang đứng trước nguy cơ bị xâm lăng. Có nhiều âm mưu phản cách mạng. Chế độ Cộng Hòa đang cần cấp cứu. Tháng 8 năm 1799, Napoléon Bonaparte lên tầu, lẻn về Pháp, giao quyền chỉ huy đoàn quân Ai Cập cho Tướng Jean Kleber.

5- Tổng Tài Thứ Nhất của nước Pháp.

Cùng với một số người thân tín, Napoléon rời Ai Cập vào ngày 22-8-1799 bằng hai con tầu nhỏ và rất may, họ về tới đất Pháp an toàn, tránh được vòng phong tỏa của Hải Quân Anh. Napoléon tới Paris vào ngày 14 tháng 10 năm đó. Tin tức về chiến thắng tại Abu Qir đã khiến cho nhân dân Pháp hân hoan đón mừng sự trở về của người anh hùng trẻ tuổi Napoléon. Cũng vào lúc này, quân đội Pháp đã thắng lớn tại Hòa Lan và Thụy Sĩ, tránh được cảnh nước Pháp bị xâm lăng đồng thời các lực lượng phản cách mạng trong nước cũng bị thất bại. Nước Cộng Hòa Pháp đã được cứu vãn nhưng ông Sieyès vẫn muốn tiếp tục kế hoạch cũ: lưỡi gươm Napoléon đã tới với ông.

Vào cuối tháng 10 năm 1799, Sieyès và Napoléon đã thực hiện một cuộc đảo chính vào hai ngày 18 và 19 tháng Brumaire, năm thứ 8 của Lịch Cách Mạng, tức là ngày 9-10 tháng 11 năm 1799. Kết quả của cuộc đảo chính này là các hội đồng lập pháp bị giải tán, các đại biểu đối lập bị loại bỏ, một chính quyền mới được thành lập với ba tổng tài (consul) là Napoléon, Sieyès và Pierre Robert Ducos. Một hiến pháp mới đã được nhân dân Pháp chấp thuận, theo đó Napoléon được bầu làm “Tổng Tài Thứ Nhất” (first consul) còn hai vị tổng tài kia chỉ làm cố vấn cho Napoléon. Sau 10 năm cách mạng với các xáo trộn phức tạp, nhân dân Pháp mong muốn có một vị lãnh đạo mạnh, nhờ vậy vào lúc này, Napoléon có thể cai trị nước Pháp như một nhà độc tài. Napoléon Bonaparte đã là chủ nhân của cả nước Pháp.

Khi lên cầm quyền “Tổng Tài Thứ Nhất”, Napoléon mới 30 tuổi, là một con người lùn và gầy, với mái tóc cắt sát nên được gọi là “le petit tondu” (chàng thanh niên nhỏ người có mái tóc cắt sát). Người dân Pháp vào thời gian này không biết rõ về cá nhân của Napoléon, họ đặt tin tưởng vào một nhân vật luôn luôn chiến thắng vì Napoléon là một chính trị gia khôn khéo, đã che dấu hai lần thất bại tại Dòng Sông Nile và tại pháo đài Acre. Người dân Pháp vẫn còn ghi nhớ Hòa Ước Campo Formio, mang lại danh dự về cho nước Pháp. Người dân Pháp trông đợi Napoléon sẽ chấm dứt hệ thống chính quyền tham nhũng và không ổn định của Hội Đồng Chấp Chính, củng cố các thành quả chính trị và xã hội của Cách Mạng, cứu nguy và mang lại Hòa Bình cho xứ sở.

Napoléon Bonaparte quả thực là một nhân vật thông minh xuất chúng. Ông hiểu biết rất rõ về lịch sử và luật pháp cũng như khoa học quân sự. Ông làm việc không biết mệt, quyết định rất nhanh chóng và có nhiều tham vọng không giới hạn. Napoléon chính là con người của Cách Mạng Pháp bởi vì chính nhờ cuộc Cách Mạng này mà ông sớm bước chân lên địa vị cao sang và quyền lực bậc nhất của quốc gia. Napoléon Bonaparte lại là con người của thế kỷ 19, người con đích thực của Voltaire, là nhà chuyên chế được khai sáng nhất (the most enlightened despot) của các nhà độc tài chuyên chế: ông không tin tưởng vào chủ quyền của nhân dân, vào các tranh đấu đại nghị, vào các ý muốn của toàn dân. Napoléon đặt tin tưởng vào lý luận (reasoning) hơn là lý trí (reason), cho rằng các ý muốn dù được khai sáng (enlightened) hay cương quyết tới đâu cũng cần đến sự yểm trợ của lưỡi lê (the support of bayonets). Napoléon đã coi thường dư luận và tin rằng ông có thể hướng dẫn hay bóp méo dư luận theo ý mình. Napoléon Bonaparte được người dân Pháp gọi là vị tướng có tính “dân sự” nhất (the most “civilian” of generals) nhưng mãi mãi ông vẫn là một quân nhân.

Từ khi lên làm Tổng Tài Thứ Nhất, Napoléon đã áp đặt chế độ độc tài quân sự lên toàn thể nước Pháp và thực chất của đặc tính này nằm trong Hiến Pháp của năm thứ 8 (4 Nivose, 25-12-1799) do Sieyès thảo ra. Hiến Pháp này không đề cập gì tới các nguyên tắc “tự do, bình đẳng và huynh đệ” của cuộc Cách Mạng Pháp, không bảo đảm “dân quyền” (the rights of man) mà lại ban cho vị Tổng Tài Thứ Nhất các quyền lực vô hạn. Napoléon Bonaparte với danh nghĩa Tổng Tài này, có thể chỉ định các bộ trưởng, quan tòa, tướng tá, nhân viên Hội Đồng Quốc Gia, công chức, và cả các nhân viên của hội đồng lập pháp mà theo lý thuyết, những vị này phải được bầu lên do phổ thông đầu phiếu. Sau một cuộc trưng cầu dân ý vào tháng 2 năm 1800, Hiến Pháp năm thứ 8 đã được chấp thuận.

Các chương trình cải tổ của Napoléon bắt đầu. Đứng đầu chính quyền là Hội Đồng Quốc Gia (the Council of State), gồm các chuyên viên tạo nên một Nội Các trung ương, chủ tọa do Napoléon và chỉ chịu trách nhiệm trước Napoléon. Các xáo trộn về quản trị hành chánh trong thời kỳ Cách Mạng đã được sửa đổi. Một nhóm các bộ sở được thành lập để thi hành việc kiểm soát từ trung ương, chẳng hạn như Bộ Tài Chính lo về thuế vụ, Bộ Nội Vụ lo an ninh trong xứ. Lãnh thổ được chia thành nhiều tỉnh (departements), tổng (cantons), làng (communes), nhưng các nhân viên hành chánh đều do trung ương bổ nhiệm và chịu trách nhiệm trước chính quyền Paris. Việc tập trung về trung ương của nền tài chính cũng được thực hiện do việc thiết lập ra Ngân Hàng Pháp Quốc (the Bank of France) trong đó 200 cổ đông chính, tạo nên Hội Đồng Quản Trị, là các nhà trí thức tư sản của thành phố Paris. Hệ thống huân chương được quy định với Bắc Đẩu Bội Tinh (the Legion of Honor) là bậc cao cấp nhất. Ngành Tư Pháp cũng bị thay đổi đáng kể do việc phổ biến Đạo Luật Napoléon (the Code Napoléon), làm tiêu hủy các luật lệ khác nhau thuộc các tỉnh khác nhau của nước Pháp, tạo nên một hệ thống luật pháp thống nhất, không đặt căn cứ trên các điều lệ đã có từ trước mà trên lý trí (reason). Đạo luật này công nhận mọi người bình đẳng trước Pháp Luật bất kể cấp bậc hay tài sản, nhưng đã đặt quyền lợi của Quốc Gia lên trên quyền lợi của Cá Nhân. Bộ Luật Napoléon đã là một kiểu mẫu cho các nhà cải tổ Luật Pháp trên toàn thế giới. Các quan tòa từ nay không còn được bầu lên từ các địa phương như trong thời kỳ Cách Mạng, mà được bổ nhiệm từ trung ương. Tổ chức cảnh sát cũng được tăng cường. Nền Giáo Dục được cải tiến thành một dịch vụ công cộng chính yếu, giáo dục trung học mang tính cách bán quân sự, các Đại Học có ban giảng huấn được tổ chức lại. Napoléon cũng lập ra Đại Học Pháp Quốc (the University of France) nhưng ngành giáo dục tiểu học còn bị thiếu sót.

Napoléon cũng đồng ý với quan điểm của Voltaire theo đó người dân cần tới một tôn giáo, dù cho cá nhân của ông không quan tâm đến niềm tin tôn giáo. Giáo Hoàng Pius VII vào tháng 3 năm 1800, đã ký kết với Napoléon một bản điều ước (concordat) công nhận Nền Cộng Hòa Pháp, chấp nhận quốc gia có quyền bổ nhiệm giới tu sĩ (the clergy). Tổ chức quân đội được Tổng Tài Napoléon chú ý tới nhiều nhất: chế độ quân dịch cưỡng bách được thi hành nhưng trong đó cũng chấp nhận sự thay thế trong việc tòng quân, các lính quân dịch mới được pha trộn với các binh lính thiện chiến cũ và mọi người lính đều có cơ hội được thăng chức lên các cấp bậc cao nhất. Hàn Lâm Viện Quân Sự Saint Cyr được thành lập, mở cửa đón nhận các thanh niên thuộc các gia đình tư sản theo đuổi binh nghiệp. Ngoài ra, Trường Đại Học Bách Khoa lập nên do Hội Nghị Quốc Ước trước kia, nay được quân sự hóa để đào tạo ra các sĩ quan Pháo Binh và Công Binh.

Như vậy, Napoléon Bonaparte đã kết hợp toàn thể nước Pháp vào cách kiểm soát của chính quyền trung ương và đây là một di sản lâu dài nhất. Napoléon đã tự cho mình là người thừa kế và bảo vệ công cuộc Cách Mạng Pháp. Đối với giai cấp trung lưu, ông đã làm ổn định nền tài chính, tổ chức lại nền hành chính và xã hội cho có trật tự, lập ra các chương trình xây dựng đường lộ và sông đào. Lợi tức quốc gia được phục hồi bằng các thứ thuế trực thu và gián thu và nhờ vậy, đồng “franc” có giá trị ổn định. Đối với nông dân, đất đai của họ được bảo đảm, các loại thuế phong kiến mà người dân phải đóng nạp đã bị Luật Pháp mới chấm dứt. Giới lao động cũng có công việc làm ăn do các nhu cầu của quân đội và của một xã hội đang cải tiến. Napoléon cũng bảo đảm cho mọi người dân quyền bình đẳng trước Pháp Luật, bình đẳng về các cơ hội thăng tiến, các hình phạt tàn ác bị tiêu hủy và nền giáo dục được mở ra cho những người thông minh, hiếu học. Và trước mọi người dân trong nước, Napoléon Bonaparte đã hứa hẹn không chỉ nền an ninh quốc gia mà còn có phương cách bành trướng lãnh thổ và sự vinh quang quân sự.

Tổng Tài Thứ Nhất Napoléon Bonaparte đã không vừa lòng với việc cai trị lãnh thổ nước Pháp mà còn muốn bành trướng ảnh hưởng Pháp ra khắp các xứ Tây Phương khác. Mùa đông năm 1799 và mùa xuân năm 1800, Napoléon lo luyện tập quân đội để chuẩn bị tấn công nước Áo vì vào thời gian này, nước Nga đã rút lui khỏi liên minh chống Pháp. Napoléon nhận thấy ngay địa điểm chiến lược là liên bang Thụy Sĩ vì từ nơi này, ông có thể đánh vào sườn các đoàn quân Áo đóng tại nước Đức hay nước Ý. Kinh nghiệm trước kia đã khiến ông chọn nước Ý. Napoléon đưa quân qua đường đèo St. Bernard trước khi tuyết tan, bao vây quân đội Áo tại Genoa. Trận đánh Marengo của Napoléon đã khiến quân Pháp kiểm soát được thung lũng sông Po, tới tận Adige rồi vào tháng 12-1800, một đoàn quân Pháp khác cũng đã đánh bại quân đội Áo tại nước Đức. Nước Áo bị bắt buộc phải ký Hòa Ước Luneville vào tháng 2 năm 1801, công nhận nước Pháp có quyền chiếm đóng các miền sông Rhine, dãy núi Alps và dãy núi Pyrenées.

Tới lúc này, chỉ còn nước Anh là quốc gia duy nhất chống lại Napoléon. Các thương thảo hòa bình giữa Anh và Pháp được bắt đầu tại London vào tháng 10-1801 rồi Hiệp Ước Hòa Bình được ký kết tại Amiens vào ngày 27-3-1802. Châu Âu từ nay có hòa bình được vãn hồi. Uy tín của Tổng Tài Thứ Nhất Napoléon Bonaparte tăng lên rất cao.

Vào năm 1802, Napoléon khuyên các nhà lập pháp rằng để có đủ yếu tố ổn định, giới hạn 10 năm của Tổng Tài Thứ Nhất nên được loại bỏ, và vào tháng 5-1802, đã có quyết định để dân chúng Pháp tham dự một cuộc trưng cầu dân ý theo đó “Napoléon Bonaparte có nên làm Tổng Tài suốt đời hay không?”. Vào tháng 8 năm đó, nhân dân Pháp đã chấp thuận Napoléon làm Tổng Tài “suốt đời”, với quyền chỉ định người kế nghiệp và tùy ý tu chính Hiến Pháp.

Vào đầu thế kỷ 19, nước Anh muốn lật đổ Napoléon nên đã trợ giúp cho các người Pháp bảo hoàng để họ tiếp tục thực hiện các rối loạn và âm mưu. Khi một cuộc âm mưu do người Anh trợ giúp bị khám phá vào năm 1804, Napoléon cho rằng cần phải phản ứng thật mạnh để làm cho các kẻ chống đối phải khiếp sợ. Trong cuộc âm mưu kể trên, cảnh sát Pháp đã tin rằng người đứng đầu là hầu tước trẻ tuổi d’ Enghien, một biểu tượng của dòng họ Bourbon và ông này đang sinh sống cách biên giới Đức vài dậm đường. Rồi do sự chấp thuận của Talleyrand và của Cảnh Sát Trưởng Joseph Fouché, vị hầu tước trẻ bị bắt cóc trên miền đất trung lập, bị đưa về Vincennes , bị xét xử và bị bắn chết. Hành động này đã làm tăng uy tín của ông Fouché nhưng cũng khiến cho giới quý tộc cũ thêm bất mãn và chống đối.

Cũng vì muốn củng cố địa vị, Cảnh Sát Trưởng Fouché đã khuyên Napoléon rằng để tránh các âm mưu lật đổ, nên đổi chế độ “Tổng Tài suốt đời” thành thể chế “đế quốc” (empire) có thừa kế và như thế, các kẻ chống đối không còn hy vọng thay đổi chế độ bằng phương cách ám sát. Vào ngày 28 tháng 5 năm 1804, Đế Chế được công bố thành hình mặc dù không có thay đổi nhiều trong cách tổ chức chính quyền của nước Pháp, ngoài một số cơ chế tương tự như đế chế cũ. Đầu tiên, Napoléon muốn được phong chức bởi Giáo Hoàng nhờ đó, việc đăng quang sẽ gây ra nhiều ấn tượng tốt đẹp đối với dân chúng Pháp và các quốc gia khác, và đặc biệt mang tính cách chính thức hơn cả các nhà vua Pháp. Giáo Hoàng Pius VII cũng đồng ý tới Paris và trong buổi lễ đăng quang rực rỡ tổ chức vào ngày 2 tháng 12 năm 1804 tại Giáo Đường Notre Dame, Paris, Hoàng Đế Napoléon Bonaparte đã nhận vương niệm từ tay Giáo Hoàng và theo gương của Charlemagne, Napoléon đã tự đặt vương niệm đó lên đầu mình. Từ nay, là “Hoàng Đế của nước Pháp”, Napoléon Bonaparte có quyền truyền lại ngai vàng cho các con cháu. Các người trong gia đình Bonaparte đã mang các danh xưng quý tộc. Việc phục hồi chế độ quân chủ chuyên chế là một điều lăng nhục đối với các người bảo hoàng và đối với các cựu chiến sĩ của Cuộc Cách Mạng Pháp. Để dẹp tan các phản kháng, Napoléon đã tăng cường công việc tuyên truyền, báo chí bị kiểm duyệt gắt gao. Chế độ độc tài quân chủ này đã cho phép Napoléon thực hiện các cuộc chiến tranh trong nhiều năm mà không cần quan tâm tới dư luận quần chúng Pháp. Tại phần đất Ý Đại Lợi, Napoléon Bonaparte đã lãnh đạo nước Cộng Hòa Cisalpine từ khi nước này được thành lập, vì thế vào tháng 3 năm 1805, Napoléon Bonaparte được công bố trở thành Vua của nước Ý và đã lên ngai vàng vào tháng 5 năm đó tại Milan.

Napoléon Bonaparte là một nhà chính trị khôn khéo. Mỗi lần muốn thay đổi Hiến Pháp theo chiều hướng thiếu dân chủ, ông đều dùng tới phương pháp trưng cầu dân ý và kết quả thu được rất có lợi cho Napoléon: cuộc bỏ phiếu năm 1799-1800 chấp thuận Napoléon và Hiến Pháp của Năm Thứ 8 có 3,011,107 phiếu thuận đối với 1,562 phiếu chống; rồi vào năm 1803, 3,568,885 phiếu thuận, đồng ý để Napoléon làm Tổng Tài suốt đời so với 8,357 phiếu chống; còn cuộc bỏ phiếu đồng ý Đế Chế đã mang lại kết quả là 3,572,329 phiếu thuận, trong khi phiếu chống là 2,579. Chắc chắn là các cử tri Pháp vào thời kỳ đó đã bị các áp lực chính trị và các kết quả công bố có phần bị sửa đổi, nhưng không còn nghi ngờ gì khi đại đa số dân chúng Pháp đã ủng hộ Napoléon. Các vinh quang quân sự do Napoléon mang lại đã hấp dẫn những người có tinh thần quốc gia đang lên, và các chính sách ổn định kinh tế quốc nội đã khiến cho mọi người dân không còn muốn các biến động cách mạng hay các thay đổi chính quyền, bởi vì Napoléon đã làm thay đổi một số chính sách cách mạng cũ và thêm vào các cải tổ theo những nhận xét của các nhà tư tưởng mới. Nhờ các cải tiến chính sách, niềm tin của dân chúng Pháp đã tăng lên từ dưới, và quyền lực đã phát triển từ trên.

Từ nay tại nước Pháp, mọi người với quá trình chính trị khác nhau đều được đặt vào nền hành chính đế chế có tính trung ương tập quyền, giống như dưới triều đại của Vua Louis 14. Napoléon là một nhà chuyên chế khai sáng (enlightened despot). Napoléon chỉ quan tâm đến khả năng của những kẻ dưới quyền, dù cho trước kia họ là cựu đảng viên Jacobin hay là các người di cư. Đế chế này đã đặt căn bản trên một nền móng chính trị rộng rãi. Napoléon đã tưởng thưởng trọng hậu các kẻ có công, kể cả bằng các tước hiệu cao cấp. Do việc tái lập đế chế, đã có hàng chục hầu tước, hàng trăm bá tước và công tước. Napoléon đã phong cho các tướng lãnh và sĩ quan xuất sắc cấp bậc “Thống Chế” (marshal) và tưởng thưởng Bắc Đẩu Bội Tinh (Legion of Honor) và với huy chương này, họ được tiền trợ cấp hàng năm. Napoléon đã nhận xét rằng “chế độ quý tộc luôn luôn tồn tại” (aristocracy always exists), và khi bị phá bỏ thì chế độ đó đã chuyển về các gia đình trung lưu giàu sang và có thế lực. Như vậy, những người đứng đầu giai cấp trung lưu Pháp của thời đại đó đã dần dần trở nên các nhà quý tộc hoàng gia.

6- Napoléon và các trận chiến 1800-1807.

Đối với nhiều người Pháp, Napoléon Bonaparte là con người của Định Mệnh (the Man of Destiny), là nhà cai trị xuất sắc nhất trong lịch sử của nước Pháp. Nhưng đối với các người khác của châu Âu, Napoléon lại là kẻ thù của các nền độc lập quốc gia. Các chinh phục quân sự của Napoléon đã khiến cho nhiều miền đất tự do khác phải quy phục nước Pháp, vì thế Napoléon bị gọi là “con người ảm đạm trên lưng ngựa” (the Sinister Man on Horseback), một kẻ độc tài đế quốc với tham vọng không bao giờ thỏa mãn. Các oán hận của các quốc gia và của người dân châu Âu khác đã dần dần làm lung lay đế quốc của Napoléon Bonaparte.

Vào năm 1800, Sa Hoàng Paul của nước Nga đã thiết lập nên Liên Minh Baltic của các quốc gia trung lập (the Baltic League of Armed Neutrality) kết hợp các nước Phổ, Đan Mạch, Thụy Điển và Nga, để chống lại nước Anh. Sa Hoàng Paul còn muốn hợp tác với nước Pháp để đẩy người Anh ra khỏi vùng đất Ấn Độ. Nhưng kế hoạch kể trên đã bị sụp đổ khi Sa Hoàng Paul bị ám sát, kế nghiệp là Sa Hoàng Alexander I. Cũng vào mùa xuân năm 1800 này, Napoléon Bonaparte đã đưa quân vượt qua dãy núi Alps, đánh bại quân đội Áo trên miền đất Ý và qua Hiệp Ước Luneville (1801), nước Áo phải công nhận nước Ý thuộc quyền của người Pháp và để Napoléon vẽ lại bản đồ của nước Đức.

Sau Hiệp Ước Luneville, chỉ còn nước Anh đối đầu với nước Pháp. Nước Anh đã chiếm được các thuộc địa của Hòa Lan và Tây Ban Nha và hạm đội Anh của Đô Đốc Nelson đã đẩy được người Pháp ra khỏi xứ Ai Cập. Năm 1802, Hòa Ước Hòa Bình Amiens được ký kết, đã chỉ mang lại sự tạm thời đình chiến trong một năm vì sau đó, Napoléon đang mưu toan thành lập một đế quốc thuộc địa tại hòn đảo Haiti và vùng đất Louisiana thuộc Bắc Mỹ mà nước Tây Ban Nha đã nhường lại cho nước Pháp vào năm 1800.

Tại xứ Haiti, đa số người da đen địa phương đã vui mừng khi Hội Nghị Quốc Ước hủy bỏ chế độ nô lệ, nhưng khi các Tổng Tài đặt lại chế độ bất công kể trên tại xứ Haiti thì Francois Toussaint L’ Ouverture (c. 1744-1803) và Jean Jacques Dessalines (c. 1758-1806) đã cầm đầu các cuộc nổi dậy chống lại người Pháp. Thêm vào đó, bệnh sốt vàng da đã gây tổn thất lớn lao cho quân đội viễn chinh Pháp, khiến cho Napoléon phải bỏ dở kế hoạch chinh phục Mỹ Châu. Năm 1803, Napoléon đã bán miền đất Louisiana cho Hoa Kỳ với giá 80 triệu quan tiền.

Từ năm 1803 tới năm 1805, chỉ còn nước Anh là miền đất Napoléon Bonaparte phải chinh phục và muốn vậy, người Pháp phải đổ bộ lên đất Anh và ngược lại, người Anh muốn đánh bại Napoléon thì phải lập nên một liên minh trên lục địa châu Âu. Vào thời gian này, Napoléon bắt đầu chuẩn bị công cuộc xâm lăng nước Anh trên một quy mô rộng lớn. Gần 2,000 con tầu chiến Pháp được thu về các hải cảng nằm giữa quân cảng Brest và thành phố Antwerp trong khi đó, Đại Quân Pháp tập trung tại Boulogne. Nhưng khó khăn vẫn là làm sao vượt qua được eo biển Channel và muốn vậy, người Pháp phải làm chủ được mặt biển.

Do Hải Quân Pháp còn thua kém Hải Quân Anh, hạm đội Pháp cần tới sự giúp đỡ của Hải Quân Tây Ban Nha nhưng dù vậy, hai hạm đội này cũng chỉ có thể đánh bại một hạm đội Anh. Vào tháng 12 năm 1804, đã có quyết định theo đó các hạm đội Pháp và Tây Ban Nha sẽ tập trung tại quần đảo Antilles để nhử cho hạm đội Anh tới đó mà tiêu diệt rồi về sau, trận đánh trên biển Channel mới có hy vọng chiến thắng. Theo kế hoạch, hạm đội Pháp do Đô Đốc Pierre de Villeneuve từ Địa Trung Hải đã tới quần đảo Antilles nhưng không thấy hạm đội Tây Ban Nha, rồi hạm đội Pháp bị hạm đội của Đô Đốc Nelson săn đuổi. Đô Đốc De Villeneuve phải cho đoàn tầu chạy về châu Âu, trú ẩn tại hải cảng Cadiz thuộc nước Tây Ban Nha vào tháng 7-1805 rồi tại đó, bị hạm đội Anh bao vây. Bị Napoléon cho là hèn nhát, De Villeneuve đành phải phá vòng vây và dù với sự trợ giúp của một hạm đội Tây Ban Nha, hạm đội Pháp đã bị Hải Quân Anh tấn công bên ngoài hải cảng Trafalgar vào ngày 21-10-1805. Mặc dù Đô Đốc Nelson bị tử thương trong trận hải chiến này nhưng hai hạm đội Pháp và Tây Ban Nha đã bị hoàn toàn phá hủy. Chiến thắng của Hải Quân Anh có tính quyết định, đã chấm dứt mọi hy vọng xâm lăng các hải đảo Anh Cát Lợi của Napoléon và cho phép người Anh làm chủ được mặt biển.

Trước khi trận Trafalgar xẩy ra, ba nước Anh, Áo và Nga đã lập nên Liên Minh thứ ba chống lại nước Pháp, do sự vận động của Thủ Tướng William Pitt trong khi đó, Napoléon muốn vẽ lại bản đồ của nước Đức bằng cách dẹp bỏ hàng trăm thành phố và các vương quốc nhỏ để tạo ra các xứ miền nam, đặt dưới quyền cai trị của nước Pháp.

Ngày 24-7-1805, Napoléon Bonaparte đã ra lệnh chuyển Đại Quân từ Boulogne qua miền sông Danube và trong trận đánh tại Ulm vào tháng 10 năm đó, Napoléon đã bắt được 30,000 tù binh người Áo. Hầu Tước người Áo Ferdinand chạy thoát với một toán kỵ binh nhỏ. Ngày 13-11, Napoléon tiến vào Vienna. Ngày 02 tháng 12 năm 1805, Napoléon Bonaparte đã kín đáo và với tốc độ chuyển quân thần tốc, đem lực lượng tăng cường đánh bất ngờ vào đạo quân liên hợp Áo-Nga tại làng Austerlitz, gây nên thiệt hại cho địch quân là 27,000 người, so với 9,000 người tổn thất của Pháp. Sau trận đánh lừng danh này, trên lục địa châu Âu đã lan truyền lời nói của Napoléon : “Ta đã đánh bại đạo quân Nga và Áo do hai Hoàng Đế chỉ huy”.

Trong vòng một tháng, Napoléon Bonaparte đã ép buộc Hoàng Đế Hapsburg là Francis I phải ký Hòa Ước Pressburg theo đó nước Áo chấp nhận mất hết ảnh hưởng tại nước Ý và nhường 2 miền Venetia và Dalmatia cho Napoléon, cũng như bằng lòng để người Pháp cai quản các xứ Bavaria, Wurttemberg và Baden. Sau đó, ngai vàng của dòng họ Bourbons tại vương quốc Naples đã được dành cho người anh của Napoléon là Joseph. Vào tháng 7 năm 1806, Liên Bang Sông Rhine được thành lập, bao gồm tất cả miền tây nước Đức và được đặt dưới quyền bảo hộ của người Pháp.

Tháng 9 năm 1806, nước Phổ gây chiến với nước Pháp và vào ngày 14 tháng 10 năm đó, các đạo quân Phổ đã bị Napoléon đánh bại tại Jena và Auerstadt. Năm 1807, khi tiến quân vào thành phố Warsaw, Napoléon đã gặp bà Bá Tước Marie Walewska, một người Ba Lan yêu nước, muốn kết hôn với Napoléon để nhờ đó quốc gia Ba Lan được tái lập. Napoléon đã có với bà Walewska một đứa con.

Như vậy trên lục địa châu Âu chỉ còn một quốc gia chống đối Napoléon là nước Nga. Tại Eylau, quân đội Nga đã cầm cự được với đạo quân của Napoléon vào tháng 2-1807 nhưng rồi vào tháng 6 năm đó, đã phải bỏ chạy trước quân đội Pháp sau trận đánh Friedland.

Sau các lần liên minh quân sự với nước Anh, Sa Hoàng Alexander I của nước Nga đã cảm thấy mệt mỏi và chán nản, nên đã hẹn gặp Napoléon trên một cái bè thả nổi trên dòng sông Niemen tại Tilsit, một nơi biên giới giữa hai xứ Nga và Đông Phổ. Hai hoàng đế Pháp và Nga đã ký một thỏa ước chia đôi châu Âu và tạo nên lãnh địa hầu tước Warsaw (Grand Duchy of Warsaw) từ các tỉnh Ba Lan được tách ra khỏi nước Phổ và lãnh địa này được Napoléon giao cho một nước đồng minh của Pháp cai quản, đó là Vua xứ Saxony. Lãnh thổ của nước Phổ nằm ở phía tây dòng sông Elbe thuộc quyền Napoléon và Napoléon có quyền đóng quân trên đất Phổ cũng như giới hạn quân số của nước này là 42,000 người.

Napoléon Bonaparte đã đoạt được hàng loạt chiến thắng quân sự nhờ thiên tài cầm quân của ông, nhờ các tướng lãnh tài giỏi và tinh thần chiến đấu anh dũng của quân sĩ dưới quyền, và cũng nhờ các lỗi lầm, sơ sót của địch quân. Từ nay, quân đội Pháp là lực lượng đáng sợ nhất và tiến bộ nhất của châu Âu. Đạo quân này có những lính mới do chế độ quân dịch, với quân số mới vào khoảng 85,000 người mỗi năm và các tân binh được bổ sung vào các đoàn quân tinh nhuệ cũ để đáp ứng nhu cầu chiến trường. Các sĩ quan Pháp dưới thời Napoléon được thăng cấp trên căn bản khả năng hơn là thâm niên hay thế lực, và các cấp chỉ huy này quan tâm tới tinh thần chiến đấu của binh sĩ hơn là lo áp dụng kỷ luật nghiêm ngặt. Về phần quyết định trận đánh, Napoléon Bonaparte chỉ ra lệnh tấn công khi lực lượng Pháp mạnh hơn hoặc bằng với lực lượng địch, và vào thời điểm tấn công thì dùng yếu tố bất ngờ như vũ bão, như trong trận Austerlitz.

Vào đầu thế kỷ 19, quân đội Pháp có vẻ như vô địch nhưng thật ra, vẫn có các khuyết điểm. Dịch vụ y tế tại mặt trận rất yếu kém khiến cho nhiều người lính bị chết vì bệnh dịch, vì các vết thương không được chăm sóc cẩn thận. Lương bổng trả cho người lính còn thấp và không đều đặn, việc tiếp liệu thất thường, người và ngựa phải sống nhờ trên các miền đất bị chiếm đóng để tiết kiệm các chi phí và không lệ thuộc nhiều vào các đoàn xe tiếp tế.

Từ nay, toàn thể châu Âu được coi như chia ra làm ba phần: thứ nhất là Đế Quốc Pháp, bao gồm nước Pháp và các miền đất sát nhập kể từ năm 1789, thứ hai là các xứ vệ tinh của Pháp, cai trị bởi những người họ hàng của Napoléon, và các quốc gia bị bắt buộc theo Pháp do thua trận, gồm các nước Áo, Phổ và Nga, và thứ ba là ba nước Anh, Thụy Điển và Thổ Nhĩ Kỳ, nằm bên ngoài hệ thống cai trị của Napoléon. Vào năm 1810, Bá Tước Bernadotte là một thống chế của Napoléon, đã được người dân Thụy Điển mời làm vua của xứ họ, thay thế cho vị vua không có con nối dõi ngai vàng. Và về sau, chính Tướng Bernadotte đã chủ trương các chính sách của Thụy Điển chống lại Napoléon.

Tại miền trung của châu Âu, Napoléon đã ban ra các đạo luật giải tán một số xứ chư hầu Đức, rồi tới năm 1806, Đế Quốc Thần Thánh La Mã (the Holy Roman Empire) bị giải thể. Vị hoàng đế cuối cùng của Đế Quốc Thần Thánh La Mã là Francis I, thuộc dòng họ Hapsburg, nay trở thành hoàng đế của nước Áo. Napoléon đã tạo ra Liên Bang Sông Rhine (the Confederation of the Rhine) bao gồm các miền đất bên ngoài nước Phổ và nước Áo.

Đế quốc Pháp của Napoléon Bonaparte đã mỗi năm một mở rộng và Napoléon đã không do dự khi chỉ định các người trong dòng họ lên ngai vàng tại các xứ sở rải rác của châu Âu. Năm 1806, người em trai Louis Napoléon lên làm Vua xứ Hòa Lan. Anh Joseph Napoléon, sau hai năm làm Vua vương quốc Naples, nay được chỉ định làm Vua xứ Tây Ban Nha từ năm 1808. Người em

0