Một năm có bao nhiêu ngày can Chi thuộc hành Kim và hành Thủy tiếp nhau?
Hiện nay ở Việt Nam rất nhiều cuốn sách đã được in có đề cập đến năm Can Chi, đặc biệt là các sách nghiên cứu về lịch sử, nhưng lại rất hay bị nhầm lẫn vì người viết có thể không biết cách tính Can Chi. Phương pháp tính can chi Mở đầu: 1. Lí do chọn đề tài: Việc tìm hiểu Can Chi là một ...
Hiện nay ở Việt Nam rất nhiều cuốn sách đã được in có đề cập đến năm Can Chi, đặc biệt là các sách nghiên cứu về lịch sử, nhưng lại rất hay bị nhầm lẫn vì người viết có thể không biết cách tính Can Chi.

Phương pháp tính can chi
Mở đầu:
Việc tìm hiểu Can Chi là một vấn đề rất phong phú và hấp dẫn. Tôi quyết định đi sâu vào một khía cạnh mà ít người đề cập đến.
2. Lịch sử nghiên cứu.Can Chi đã có rất nhiều học giả đã từng nghiên cứu, có nhiều phương pháp khác nhau nhưng cách tiếp cận mỗi người một cách khác nhau. Nhìn chung những cách tính đã có đều được nhiều người biết đến, bài nghiên cứu này đi sâu theo một phương pháp mới.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu.Có ý nghĩa quyết định cho nghiên cứu.• Can Chi sẽ được nghiên cứu như thế nào? những hiện tượng, những mối quan hệ nào của Can Chi là đối tượng nghiên cứu.• Tìm ra cái mới, luôn được kế thừa cái hợp lý, có cơ sở từ trước, phải nghiên cứu sâu hơn, toàn diện hơn, kết quả nghiên cứu phải được kiểm chứng trong thực tiễn.:Phạm vi nghiên cứu:- Xác định một cách rõ ràng hơn về Can Chi, thời gian nghiên cứu.
- Cần đảm bảo tính đại diện đủ để xem xét vấn đề nghiên cứu.
4. Phương pháp nghiên cứu.
Phương pháp nghiên cứu theo vòng chuyển dịch chu kỳ Can Chi và theo Tam Hợp.Cấu trúc bài nghiên cứu:
Chương 1: Can Chi.
1.Hệ can.
2.Hệ chi.
Chương 2: Phương pháp tính Can Chi.
2.1 Phương pháp xác định ngày đầu năm dương lịch.
2.2 Phương pháp tính Can Chi.
2.3 Tính năm Can Chi theo chu kì tam hợp.
2.4 Dựa vào tam hợp xem tình duyên trong hôn nhân.
Chương 3: Ý nghĩa.Về ý nghĩa khoa học.Về ý nghĩa thực tiễn.
Chương 1: Can Chi. Việc xác định đúng can chi và ngày đầu năm dương lịch sẽ giúp ích cho các nhà nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn, đặc biệt là giúp ích cho các nhà nghiên cứu lịch sử, sinh viên chuyên ngành sử học 1. Hệ can: Gồm 10 yếu tố: Giáp - Ất - Bính- Đinh - Mậu - Kỷ- Canh - Tân- Nhâm - Quý. Được hình thành trên cơ sở năm hành phối hợp với âm dương mà ra. Vì vậy hệ này còn được gọi là thập can hay thiên can.
2. Hệ chi: Có 12 yếu tố gồm: Tý - Sửu - Dần- Mão - Thìn - Tỵ - Ngọ - Mùi - Thân - Dậu - Tuất - Hợi. Hệ chi này bao gồm 6 cặp âm dương do ngũ hành biến hóa mà ra. Cho nên được gọi là Thập Nhị Chi hay Địa Chi. Tên mỗi Chi ứng với một con vật sống trên mặt đất gần gũi với cuộc sống của người nông dân. + Ghép Can- Chi lại với nhau, ta được hệ đếm gồm 60 đơn vị với các tên như: Giáp tý - Bính Dần - Nhâm Tuất - Ất Sửu - Đinh Mão - Mậu Thìn - Kỷ Tỵ - Canh ngọ - Tân Mùi- Nhâm thân- Quý Dậu... Được gọi là hệ Can Chi hay lục giáp. Hệ Can Chi này dùng để gọi tên ngày tháng, năm cứ 60 năm được gọi là một Hội.
Chương 2: Phương pháp tính Can Chi.Phương pháp chuyển dịch chu kì Can- Chi: + Như chúng ta đã biết: Cứ 60 ngày, 60 năm là một vòng chu kì Can Chi, còn gọi là một hội và dựa vào vòng chuyển dịch chu kì Can Chi này chúng ta chỉ cần biết một ngày hoặc một năm Can Chi duy nhất thì chúng ta có thể biết tất cả các ngày, các năm còn lại trong thập kỉ, trong thế kỉ tương ứng với Can Chi là ngày gì, năm gì.
2.1 Phương pháp xác định ngày đầu năm dương lịch: Để xác định ngày đầu năm dương lịch, trước hết chúng ta cần biết những mốc thời gian ổn định trong từng năm và có Can Chi ngày giống nhau đó là các ngày 1-3, 30 - 4, 29 - 6, 28 - 8, 27- 10, và 26 - 12. Bởi vì theo vòng tuần hoàn Can Chi thì cứ 60 ngày là chu kỳ Can Chi lặp lại. Nếu lấy các mốc ngày khác thì sẽ không cố định, không có căn cứ được. vì nếu gặp năm nhuận thì tháng 2 dương lịch là 29 ngày (Tháng 2 năm không nhuận chỉ là 28 ngày).
2.2 Phương pháp tính Can Chi
| 0 | 1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 | 9 |
| Tân | Canh | Kỷ | Mậu | Đinh | Bính | Ất | Giáp | Quý | Nhâm |
Bảng 1: Bảng xác định hệ Can Tr.cn
| 0 | 1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 | 9 |
| Canh | Tân | Nhâm | Quý | Giáp | Ất | Bính | Đinh | Mậu | Kỷ |
Bảng 2: Xác định hệ Can sau CN (Con số cuối cùng của năm dương lịch ứng với các Can trên).Theo Giáo sư – Viện sĩ Trần Ngọc Thêm trong cuốn " Tìm về bản sắc Văn hóa Việt Nam" có một cách đổi năm dương lịch sang năm Can Chi cũng rất hay. Công thức: C= d[( D- 3) : 60] Trong đó : C- Mã số tên năm Can Chi; D - Năm dương lịch; d- Số dư của phép chia. Dưới đây là bảng Can Chi:
| ChiCan | Tý Sửu | Dần Mão | Thìn Tỵ | Ngọ Mùi | Thân Dậu | Tuất Hợi |
| GiápẤt | 12 | 5152 | 4142 | 3132 | 2122 | 1112 |
| BínhĐinh | 1314 | 34 | 5354 | 4344 | 3334 | 2324 |
| MậuKỷ | 2526 | 1516 | 56 | 5556 | 4546 | 3536 |
| CanhTân | 3738 | 2728 | 1718 | 78 | 5758 | 4748 |
| NhâmQuý | 4950 | 3940 | 2930 | 1920 | 910 | 5960 |
Cách đổi năm dương lịch sang năm Can Chi: C= d[ (D- 3): 60] Trong đó : C- Mã số năm Can Chi, D- Năm dương lịch, d- Số dư của phép chia. Ví dụ: Tìm tên Can Chi của năm 2012. Ta có: d[(2012- 3): 60] = 33 ( 29 là số dư, 29 là mã số của năm Nhâm Thìn). Các năm khác đều tính như vậy. Nhìn chung nếu tính theo công thức của GS Trần Ngọc Thêm chúng ta sẽ xác định được năm Can Chi của bất kì năm nào đó cần tìm. Công thức này chuẩn xác nhưng muốn tính được Can Chi lại phải nhớ bảng Can Chi. Vậy không cần phải nhớ bảng Can Chi, không cần biết công thức trên có một cách chúng ta có thể xác định Can Chi nhanh chóng và dễ dàng đó là phương pháp dựa vào vòng chuyển dịch của chu kỳ Can Chi và theo Tam hợp trong 12 con giáp. Đó là trọng tâm và là vấn đề chính của bài nghiên cứu này.
2.3 Tính năm Can Chi theo chu kì tam hợp. Theo chu kì Can Chi: cứ 60 năm là một vòng Can Chi. Vậy chỉ cần biết 1 năm duy nhất, xác định các năm còn lại không khó. Ví dụ năm 1945 là năm Ất Dậu, tìm năm Can Chi năm 2006. Chúng ta biết sau Ất Dậu sẽ là Bính Tuất. Vậy 60 năm sau là năm 2006 sẽ là năm Bính Tuất mà chúng ta cần tìm. Phương pháp này nhìn chung nó như là phương pháp tính nhẩm. Ví dụ như nhà Minh ở Trung Quốc được thành lập năm Mậu Thân 1368, tìm năm Mậu Thân trong thế kỉ XX, chúng ta sẽ biết ngay năm Mậu Thân trong thế kỉ XX là năm 1908 và 1968 vì chúng cách nhau 540 năm và 600 năm, tức là 9 và 10 vòng Can Chi. Theo TamTrong 12 con giáp: Tam hợp gồm các cặp số sau:Tý- Thìn- Thân;Sửu- Tỵ- Dậu;Dần- Ngọ- Tuất;Mão- Mùi- Hợi. Bảng Tam hợp:Bảng 1: Tam hợp Tý – Thìn- Thân
| Giáp | 04 | 24 | 44 | 64 | 84 |
| Bính | 16 | 36 | 56 | 76 | 96 |
| Mậu | 18 | 28 | 48 | 68 | 88 |
| Canh | 00 | 20 | 40 | 60 | 80 |
| Nhâm | 12 | 32 | 52 | 72 | 92 |
Bảng 2: Tam hợp Sửu- Tỵ- Dậu
| Ất | 05 | 25 | 45 | 65 | 85 |
| Đinh | 17 | 37 | 57 | 77 | 97 |
| Kỷ | 09 | 29 | 49 | 69 | 89 |
| Tân | 01 | 21 | 41 | 61 | 81 |
| Quý | 13 | 33 | 53 | 73 | 93 |
Bảng 3: Tam hợp Dần- Ngọ- Tuất
| Bính | 06 | 26 | 46 | 66 | 86 |
| Mậu | 18 | 38 | 58 | 78 | 98 |
| Canh | 10 | 30 | 50 | 70 | 90 |
| Nhâm | 02 | 22 | 42 | 62 | 82 |
| Giáp | 14 | 34 | 54 | 74 | 94 |
Bảng 4: Tam hợp Mão- Mùi- Hợi
| Đinh | 07 | 27 | 47 | 67 | 87 |
| Kỷ | 19 | 39 | 59 | 79 | 99 |
| Tân | 11 | 31 | 51 | 71 | 91 |
| Quý | 03 | 23 | 43 | 63 | 83 |
| Ất | 15 | 35 | 55 | 75 | 95 |
Sở dĩ có bảng Tam hợp như trên là bởi vì năm Can Chi của chúng có cùng số đuôi với nhau. Ví dụ: Những năm có đuôi 04- 24- 44- 64- 84 sẽ ứng với các năm tương ứng là Giáp tý- Giáp thìn- Giáp thân... các năm khác đều như vậy và theo tam hợp thì cứ 100 năm hay 1000 năm chu kì sẽ lặp lại. Ví dụ: biết năm Giáp tý 1984, theo tam hợp Tý- Thìn- Thân, chúng ta sẽ dễ dàng biết được năm 1884 sẽ là năm Giáp Thân, 1784 sẽ là năm Giáp Thìn. Tất cả các tam hợp khác đều như vậy. Dựa vào bảng tam hợp , người học, người nghiên cứu không cần biết các công thức khác để tính Can Chi mà chỉ cần biết 1 năm duy nhất đó là năm thứ 4 sau Công nguyên: năm Giáp Tý, Sở dĩ lấy năm thứ 4- năm Giáp Tý, bởi vì trong hệ Can thì Giáp đứng đầu còn trong hệ Chi thì tý đứng đầu cho nên chúng ta sẽ lấy mốc là năm 4 sau công nguyên. Cứ 60 năm được gọi là 1 hội thì từ đầu công nguyên đến năm Giáp Tý 1984 chúng ta đã có tổng cộng là 33 hội. Cách tính 1 năm Can Chi bất kì: Ví dụ: trong sách lịch sử có ghi: Năm Kỷ Tỵ, đời vua Gia Long ( 1802 - 1820). Chỉ cần đọc qua chúng ta sẽ biết ngay năm Kỉ Tỵ đời vua Gia Long sẽ là năm 1809. Bởi vì theo chu kì Can Chi thì năm 1804 sẽ là năm Giáp Tý , 1805 Ất Sửu, 1906 Bính Dần, 1807 Đinh Mão, 1808 Mậu Thìn, 1809 sẽ là Kỷ Tỵ. Từ năm Kỷ Tỵ 1809 theo tam hợp chúng ta sẽ biết ngay năm 1709 sẽ là năm Kỷ Sửu và 1909 sẽ là năm Kỷ Dậu. Ví dụ tính năm Can Chi 2001, chúng ta lấy mốc nó cũng giống như Hằng đẳng thức đáng nhớ trong toán học, đó là năm 4 Giáp Tý. Cứ theo bảng chúng sẽ biết ngay đuôi của nó là số 1, vậy chắc chắn nó sẽ ứng với năm Tân, còn Tân gì thì ta sẽ tính: Năm 4 Giáp Tý, tính năm Tân gần nhất năm 4 Giáp Tý. Trước Giáp Tý sẽ lần lượt là 03- Quý Hợi, 02 Nhâm Tuất và 01 sẽ là Tân Dậu. Vậy theo Tam Hợp: Sửu- Tỵ- Dậu, chúng ta sẽ biết ngay 01 Tân Dậu, 101 Tân Sửu, 201 Tân Tỵ ... Cứ thế suy tiếp năm 1801 sẽ là năm Tân Dậu, 1901 sẽ là năm Tân Sửu và năm cần tính 2001 chính là năm Tân Tỵ. Như vậy chỉ cần biết một năm duy nhất chúng ta có thể dễ dàng xác định được từ năm 01 tới năm nay là năm con gì và ứng với Can Chi. Năm tính từ công nguyên biết năm thứ 04 Công nguyên là năm Giáp Tý, chúng ta có thể biết tất cả các Can Chi còn lại một cách nhanh chóng theo Tam hợp. Chẳng hạn như để xác định năm 1601 là năm gì, theo Tam hợp biết năm 01 là năm Tân Dậu thì suy tiếp theo Sửu- Tỵ- Dậu cuối cùng ta sẽ xác định được năm 1601 là năm Tân sửu. Từ năm Tân sửu này muốn tìm bất cứ một năm nào trong thế kỉ XVII chúng ta cũng dễ dàng xác định được. Đối với phương pháp tính này có lẽ phải cần rất nhiều ví dụ để minh họa, chứng minh cho cách tính này. Ví dụ: Chùa Thiên Mụ được xây dựng từ thời Nguyễn Hoàng vào năm 1601. Để xác định năm 1601 là năm con gì, như trên chúng ta đã biết năm 04 Giáp Tý lùi lại thì sẽ là năm 01 sẽ là năm Tân Dậu. Vậy theo Tam Hợp Sửu- Tỵ - Dậu thì năm 1001 sẽ là năm Tân Dậu, và năm 1601 sẽ là năm Tân Sửu cần tìm. Nếu muốn biết thêm năm 1701 thì ta cứ suy tiếp Sửu- Tỵ , thì năm 1701 sẽ là năm Tân Tỵ. Mặt khác cũng từ năm Tân Sửu 1601 nếu muốn biết bất kỳ 1 năm nào đó trong thế kỉ XVII chúng ta sẽ dễ dàng xác định được ngay. Hay một ví dụ