Louis Aragon

Louis Aragon (3/10/1897–24/12/1982), nhà sử học, nhà thơ và nhà văn người Pháp, từng là một thành viên của viện Goncourt. Ông sinh và mất ở Paris. Là nhà thơ, nhà tiểu thuyết Pháp nổi tiếng thế giới, là một trong những cánh chim đại bàng của văn học thế kỷ XX, người chiến sĩ luôn dâng hiến trái tim chân thành cho tự do, hòa bình của nhân loại. Ông có một tuổi thơ đầy sóng gió, bất hạnh. Mãi tới năm 1942, trước khi qua đời, mẹ ông mới cho ông biết cha ông là ai, vì người cha đã trốn trách nhiệm không thừa nhận vợ con. Năm 1917 khi đang học Đại học Y khoa thì ông bị gọi nhập ngũ để phục vụ cho Chiến tranh thế giới lần thứ I (1914-1918). Năm 1919 ra quân, năm 1927 ông gia nhập Đảng Cộng sản Pháp, và tới năm 1939 một lần nữa ông lại khoác áo lính vì Chiến tranh Thế giới lần thứ II nổ ra (1939-1945). Bước ngoặt tư tưởng lớn nhất trong đời ông là từ khi gặp Elsa Triolé năm 1928, một phụ nữ Nga, nhà văn gốc Do thái sang cư trú ở Pháp, và đã trở thành người bạn đời thủy chung của ông. Chính nhà thơ Maiacopski và Elsa (em vợ nhà thơ) đã góp phần xua đi tư tưởng bi quan của Aragon ở thời kỳ đầu , đưa ông đến với lý tưởng của Cách mạng Tháng Mười Nga để ông từ bỏ “chủ nghĩa đa đa”, “chủ nghĩa siêu thực”, chuyển sang “chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa”. Ông tích cực hoạt động xã hội, tham gia kháng chiến chống phát xít Đức đang đóng trên đất Pháp, lên án chủ nghĩa đế quốc, kêu gọi thế giới hòa bình. Ông là người luôn bộc lộ trái tim chân thành, tin vào lý tưởng đã chọn, cống hiến hết mình cho sự nghiệp bảo vệ hòa bình của nhân dân Pháp và thế giới. Vì thế khi tròn 60 tuổi (1957), ông đã được trao giải thưởng “Hòa bình quốc tế Lenin” - một phần thưởng rất cao quý. Năm 1972, nhân kỷ niệm Aragon 75 tuổi, ông được Chính phủ Liên Xô tặng thưởng Huân chương Cách mạng Tháng Mười. Ông mất ngày 24-12-1982 tại Paris. Aragon đến với tiểu thuyết sớm hơn thơ. Khi chưa đầy 10 tuổi, ông đã viết những “tiểu thuyết nho nhỏ”, mỗi cuốn khoảng mươi, mười lăm trang nhưng cũng chia thành các chương, mục. Nay chỉ còn cuốn “Tâm hồn tuyệt vời biết bao” viết năm 1903, tặng mẹ. Về sau, ông cho ra đời nhiều tiểu thuyết nổi tiếng như: “Những khu phố đẹp” (1936), “Những hành khách trên xe” (1943), “Những người cộng sản” (1949-1951), “Tuần lễ thánh” (1958)... Mỗi cuốn tiểu thuyết đã đánh dấu một bước đổi mới về nghệ thuật của Aragon khiến giới phê bình phải ngạc nhiên trước kỳ tài của người nghệ sĩ. Tuy đến với thơ hơi muộn, nhưng ông cũng đã để lại một khối lượng thơ khá đồ sộ với các tập: “Lửa vui” (1920 - theo chủ nghĩa siêu thực). Sau khi cùng vợ sang dự Hôi nghị các Nhà văn cách mạng ở Kharcov (Liên Xô), trở về ông viết tập “Mặt trời đỏ” (1930) và “Hoan hô Uran!” (1934) với lời thơ hùng hồn, tin tưởng tuyệt đối vào cách mạng vô sản và Liên Xô. Tiếp theo là các tập “Nát lòng” (1941), “Đôi mắt Elsa” (1942), “Anh chàng say đắm Elsa” (1963). Riêng tập thơ “Cuốn tiểu thuyết chưa hoàn thành” (1956) được nhà phê bình văn học M. Alighe nhận xét “là một tác phẩm thơ ca hay nhất châu Âu thế kỷ XX”. Thơ ông là cả một “Vườn thơ Elsa” với đề tài đa dạng, âm điệu phong phú. Ông ngợi ca lý tưởng, Tổ quốc và nhân dân, và có những câu thơ sôi sục căm thù quân giặc. Thơ Aragon không có các loại dấu chấm câu, và cách ngắt dòng rất linh hoạt, tự do, không theo khuôn phép nào cả. Ông có những câu thơ dài tới mươi dòng hoặc nửa trang. Ông muốn xóa khoảng cách giữa thơ và văn xuôi, thích viết dài để bộc lộ hết xúc cảm trào tuôn. Đó là mặt mạnh và cũng là mặt hạn chế của thơ ông. Thơ Aragon rất giàu nhạc điệu nên nhiều bài đã được các nhạc sĩ Pháp và thế giới phổ nhạc. Bài hát “Tự nguyện” của nhạc sĩ Trương Quốc Khánh, trong phong trào “Hát cho đồng bào tôi nghe” của học sinh, sinh viên Sài Gòn xuống đường đấu tranh trước 1975, cũng xuất phát từ ý thơ Aragon: “Nếu là chim tôi sẽ là loài bồ câu trắng/ Nếu là hoa tôi sẽ là một đóa hướng dương/ Nếu là mây tôi sẽ là một vầng mây ấm/ Nếu là người tôi sẽ chết cho quê hương”. Aragon là người bạn tốt của nhân dân Việt Nam. Khi hoạt động cách mạng ở Paris Bác Hồ rất thích thơ Aragon, coi ông như người bạn thân của mình. Ở Việt Nam, nhà thơ Tố Hữu là người dịch thơ Aragon đầu tiên từ tiếng Pháp ra tiếng Việt. Trong cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ của nhân dân ta, Aragon đã đi nhiều nơi trên thế giới đọc thơ ca ngợi tinh thần chiến đấu anh dũng của nhân dân Việt Nam, phản đối chiến tranh phi nghĩa của thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Là nhà thơ lỗi lạc của nhân dân Pháp, tài năng và sự nghiệp của ông còn là của nhân loại tiến bộ. Ông là một trong những nhà thơ ca ngợi hòa bình, ca ngợi đoàn kết nhân loại, và phản đối chiến tranh đế quốc mạnh nhất thế giới. LÊ XUÂN (Nguồn: - “Tự điển văn học”, tập 1, NXB Khoa học - Xã hội, Hà Nội, 1983. - “Thơ Louis Aragon”, NXB Văn học, Hà Nội, 1980. - “Giáo trình Đại học sư phạm”, tập 3, NXB Giáo dục, Hà Nội, 1978.) Louis Aragon (3/10/1897–24/12/1982), nhà sử học, nhà thơ và nhà văn người Pháp, từng là một thành viên của viện Goncourt. Ông sinh và mất ở Paris. Là nhà thơ, nhà tiểu thuyết Pháp nổi tiếng thế giới, là một trong những cánh chim đại bàng của văn học thế kỷ XX, người chiến sĩ luôn dâng hiến trái tim chân thành cho tự do, hòa bình của nhân loại. Ông có một tuổi thơ đầy sóng gió, bất hạnh. Mãi tới năm 1942, trước khi qua đời, mẹ ông mới cho ông biết cha ông là ai, vì người cha đã trốn trách nhiệm không thừa nhận vợ con. Năm 1917 khi đang học Đại học Y khoa thì ông bị gọi nhập ngũ để phục vụ cho Chiến tranh thế giới lần thứ I (1914-1918). Năm 1919 ra quân, năm 1927 ông gia nhập Đảng Cộng sản Pháp, và tới năm 1939 một lần nữa ông lại khoác áo lính vì Chiến tranh Thế giới lần thứ II nổ ra (19…

Louis Aragon (3/10/1897–24/12/1982), nhà sử học, nhà thơ và nhà văn người Pháp, từng là một thành viên của viện Goncourt. Ông sinh và mất ở Paris.

Là nhà thơ, nhà tiểu thuyết Pháp nổi tiếng thế giới, là một trong những cánh chim đại bàng của văn học thế kỷ XX, người chiến sĩ luôn dâng hiến trái tim chân thành cho tự do, hòa bình của nhân loại. Ông có một tuổi thơ đầy sóng gió, bất hạnh. Mãi tới năm 1942, trước khi qua đời, mẹ ông mới cho ông biết cha ông là ai, vì người cha đã trốn trách nhiệm không thừa nhận vợ con. Năm 1917 khi đang học Đại học Y khoa thì ông bị gọi nhập ngũ để phục vụ cho Chiến tranh thế giới lần thứ I (1914-1918). Năm 1919 ra quân, năm 1927 ông gia nhập Đảng Cộng sản Pháp, và tới năm 1939 một lần nữa ông lại khoác áo lính vì Chiến tranh Thế giới lần thứ II nổ ra (1939-1945).

Bước ngoặt tư tưởng lớn nhất trong đời ông là từ khi gặp Elsa Triolé năm 1928, một phụ nữ Nga, nhà văn gốc Do thái sang cư trú ở Pháp, và đã trở thành người bạn đời thủy chung của ông. Chính nhà thơ Maiacopski và Elsa (em vợ nhà thơ) đã góp phần xua đi tư tưởng bi quan của Aragon ở thời kỳ đầu , đưa ông đến với lý tưởng của Cách mạng Tháng Mười Nga để ông từ bỏ “chủ nghĩa đa đa”, “chủ nghĩa siêu thực”, chuyển sang “chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa”. Ông tích cực hoạt động xã hội, tham gia kháng chiến chống phát xít Đức đang đóng trên đất Pháp, lên án chủ nghĩa đế quốc, kêu gọi thế giới hòa bình. Ông là người luôn bộc lộ trái tim chân thành, tin vào lý tưởng đã chọn, cống hiến hết mình cho sự nghiệp bảo vệ hòa bình của nhân dân Pháp và thế giới. Vì thế khi tròn 60 tuổi (1957), ông đã được trao giải thưởng “Hòa bình quốc tế Lenin” - một phần thưởng rất cao quý. Năm 1972, nhân kỷ niệm Aragon 75 tuổi, ông được Chính phủ Liên Xô tặng thưởng Huân chương Cách mạng Tháng Mười. Ông mất ngày 24-12-1982 tại Paris.

Aragon đến với tiểu thuyết sớm hơn thơ. Khi chưa đầy 10 tuổi, ông đã viết những “tiểu thuyết nho nhỏ”, mỗi cuốn khoảng mươi, mười lăm trang nhưng cũng chia thành các chương, mục. Nay chỉ còn cuốn “Tâm hồn tuyệt vời biết bao” viết năm 1903, tặng mẹ. Về sau, ông cho ra đời nhiều tiểu thuyết nổi tiếng như: “Những khu phố đẹp” (1936), “Những hành khách trên xe” (1943), “Những người cộng sản” (1949-1951), “Tuần lễ thánh” (1958)... Mỗi cuốn tiểu thuyết đã đánh dấu một bước đổi mới về nghệ thuật của Aragon khiến giới phê bình phải ngạc nhiên trước kỳ tài của người nghệ sĩ.

Tuy đến với thơ hơi muộn, nhưng ông cũng đã để lại một khối lượng thơ khá đồ sộ với các tập: “Lửa vui” (1920 - theo chủ nghĩa siêu thực). Sau khi cùng vợ sang dự Hôi nghị các Nhà văn cách mạng ở Kharcov (Liên Xô), trở về ông viết tập “Mặt trời đỏ” (1930) và “Hoan hô Uran!” (1934) với lời thơ hùng hồn, tin tưởng tuyệt đối vào cách mạng vô sản và Liên Xô. Tiếp theo là các tập “Nát lòng” (1941), “Đôi mắt Elsa” (1942), “Anh chàng say đắm Elsa” (1963). Riêng tập thơ “Cuốn tiểu thuyết chưa hoàn thành” (1956) được nhà phê bình văn học M. Alighe nhận xét “là một tác phẩm thơ ca hay nhất châu Âu thế kỷ XX”. Thơ ông là cả một “Vườn thơ Elsa” với đề tài đa dạng, âm điệu phong phú. Ông ngợi ca lý tưởng, Tổ quốc và nhân dân, và có những câu thơ sôi sục căm thù quân giặc.

Thơ Aragon không có các loại dấu chấm câu, và cách ngắt dòng rất linh hoạt, tự do, không theo khuôn phép nào cả. Ông có những câu thơ dài tới mươi dòng hoặc nửa trang. Ông muốn xóa khoảng cách giữa thơ và văn xuôi, thích viết dài để bộc lộ hết xúc cảm trào tuôn. Đó là mặt mạnh và cũng là mặt hạn chế của thơ ông. Thơ Aragon rất giàu nhạc điệu nên nhiều bài đã được các nhạc sĩ Pháp và thế giới phổ nhạc. Bài hát “Tự nguyện” của nhạc sĩ Trương Quốc Khánh, trong phong trào “Hát cho đồng bào tôi nghe” của học sinh, sinh viên Sài Gòn xuống đường đấu tranh trước 1975, cũng xuất phát từ ý thơ Aragon: “Nếu là chim tôi sẽ là loài bồ câu trắng/ Nếu là hoa tôi sẽ là một đóa hướng dương/ Nếu là mây tôi sẽ là một vầng mây ấm/ Nếu là người tôi sẽ chết cho quê hương”.

Aragon là người bạn tốt của nhân dân Việt Nam. Khi hoạt động cách mạng ở Paris Bác Hồ rất thích thơ Aragon, coi ông như người bạn thân của mình. Ở Việt Nam, nhà thơ Tố Hữu là người dịch thơ Aragon đầu tiên từ tiếng Pháp ra tiếng Việt. Trong cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ của nhân dân ta, Aragon đã đi nhiều nơi trên thế giới đọc thơ ca ngợi tinh thần chiến đấu anh dũng của nhân dân Việt Nam, phản đối chiến tranh phi nghĩa của thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Là nhà thơ lỗi lạc của nhân dân Pháp, tài năng và sự nghiệp của ông còn là của nhân loại tiến bộ. Ông là một trong những nhà thơ ca ngợi hòa bình, ca ngợi đoàn kết nhân loại, và phản đối chiến tranh đế quốc mạnh nhất thế giới.

LÊ XUÂN

(Nguồn:
- “Tự điển văn học”, tập 1, NXB Khoa học - Xã hội, Hà Nội, 1983.
- “Thơ Louis Aragon”, NXB Văn học, Hà Nội, 1980.
- “Giáo trình Đại học sư phạm”, tập 3, NXB Giáo dục, Hà Nội, 1978.)
Louis Aragon (3/10/1897–24/12/1982), nhà sử học, nhà thơ và nhà văn người Pháp, từng là một thành viên của viện Goncourt. Ông sinh và mất ở Paris.

Là nhà thơ, nhà tiểu thuyết Pháp nổi tiếng thế giới, là một trong những cánh chim đại bàng của văn học thế kỷ XX, người chiến sĩ luôn dâng hiến trái tim chân thành cho tự do, hòa bình của nhân loại. Ông có một tuổi thơ đầy sóng gió, bất hạnh. Mãi tới năm 1942, trước khi qua đời, mẹ ông mới cho ông biết cha ông là ai, vì người cha đã trốn trách nhiệm không thừa nhận vợ con. Năm 1917 khi đang học Đại học Y khoa thì ông bị gọi nhập ngũ để phục vụ cho Chiến tranh thế giới lần thứ I (1914-1918). Năm 1919 ra quân, năm 1927 ông gia nhập Đảng Cộng sản Pháp, và tới năm 1939 một lần nữa ông lại khoác áo lính vì Chiến tranh Thế giới lần thứ II nổ ra (19…
Bài liên quan

Chu Khánh Dư 朱慶餘

Chu Khánh Dư 朱慶餘 (797-?) tên là Khả Cửu 可久, Khánh Dư là tự của ông, người Việt Châu (nay là Thiện Hưng, Chiết Giang) đỗ tiến sĩ năm 826. Trước khi đi thi, Khánh Dư làm bài thơ Khuê ý với câu đầu là “Ðộng phòng tạc dạ đình hồng chúc” dâng lên Trương Tịch 張籍, lúc này đang làm chức Thuỷ bộ ...

Louise Labé

Louise Labé (1925-1966), còn gọi là "La Belle Cordière", nhà thơ nữ có đóng góp lớn cho thơ ca trong thời kỳ Phục Hưng ở Lyon.

Chu Loan 朱灣

Chu Loan 朱灣 tự Cự Xuyên 巨川, hiệu Thương Châu Tử 滄洲子, không rõ năm sinh năm mất, ước sống khoảng trước sau đầu niên hiệu Đại Lịch (766-779) đời vua Đường Đại Tông. Tính tình lãng mạn, thích nhàn dật, từng làm quan nhưng bất đắc chí lại thôi, về làm nhà ở Hội Kê, Sơn Âm, sống cho đến lúc mất. Trước ...

Madame de Pressensé Élise-Françoise-Louise de Plessis-Gouret

Madame de Pressensé (1827-1901) tên thật là Élise-Françoise-Louise de Plessis-Gouret, là vợ của Edmond Dehault de Presssensé (lãnh tụ giáo phái Tin Lành của Pháp). Bà nổi tiếng không chỉ qua các tác phẩm tiểu thuyết của mình mà còn với các hoạt động chính trị.

Marina Evseevna Ratner Марина Евсеевна Ратнер

Marina Evseevna Ratner (Марина Евсеевна Ратнер, 1938-) là một nhà toán học Mỹ gốc Nga. Bà sinh tại Moscow trong một gia đình cha mẹ đều làm khoa học. Bà chuyển sang sống và giảng dạy tại Israel năm 1971. Tới năm 1975, bà sang Mỹ làm giáo sự tại trường Berkeley. Bà cũng là một nhà thơ.

Chu Phần 周濆

Chu Phần 周濆 năm sinh và mất không rõ. "Việt thi sưu dật" 粵詩搜逸 nói ông sống khoảng cuối thời Ngũ Đại đến đầu Tống sơ, người Thiệu Châu (nay là Bình Đông, Quảng Tây), là em của Chu Vị 周渭. "Trực trai thư lục giải đề" 直齋書錄解題 chép thơ ông một quyển gồm 19 bài, nhưng đã thất truyền. "Toàn Đường thi" chép ...

Chu Quyền 朱權

Chu Quyền 朱權 (1378-1448) là nhà hý khúc lớn đời Minh, con thứ 17 của Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương. Ông viết 12 loại tập kịch và sách Thái Hoà chính âm phả. Cuốn Hình tự ký của ông có ảnh hưởng lớn đến đời sau, là bốn người nổi tiếng nhất đầu thời Minh. Tác phẩm Hoà luận biểu hiện tư tưởng Đạo ...

Chu Tộ 周祚

Một tác giả đời Đường, chưa rõ thân thế, thơ còn một bài duy nhất chép trong "Toàn Đường thi".

Marc Chagall Марк Шагал

Marc Chagall (1887-1985) tên thật là Mark Zakharovich Shagal, hoạ sĩ Nga kiệt xuất, suốt đời phải sống lưu vong ở Pháp và phương Tây. Thơ ông đầy đắng đót và xót xa, được tuyển chọn và in ở Mỹ, Israel. Riêng ở Nga, mãi tới năm 1987, kỷ niệm 100 năm ngày sinh của ông, độc giả Nga mới biết đến thơ ông ...

Chu Mật 周密

Chu Mật 周密 (1232-1308) tự Công Cẩn 公謹, hiệu Thảo Song 草窗, người Tế Nam đời Tống. Ông từng làm Tri huyện Nghĩa Ô, sau khi nhà Tống mất, ông không làm quan nữa, lấy thi từ tiêu khiển. Từ của ông tinh tế, phong cách có nhiều điểm tương đồng với bạn ông là Ngô Văn Anh 吳文英, hiệu Mộng Song 夢窗, nên người ...

Mới nhất

THPT Đinh Tiên Hoàng

THPT Đinh Tiên Hoàng đang không ngừng nỗ lực phát triển trở thành một ngôi trường với chất lượng giảng dạy tốt nhất, tạo ra những thế hệ học sinh chất lượng

THPT Thực nghiệm

Trường THPT Thực Nghiệm trực thuộc Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam. Trường là cơ sở giáo dục đào tạo công lập trong hệ thống giáo dục quốc dân và trong hệ thống các trường phổ thông của thành phố Hà Nội. Trường dạy học theo chương trình giáo dục Trung học phổ thông của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Tiếp ...

THPT Đông Kinh

Khẩu hiệu hành động: “ Hãy đặt mình vào vị trí cha mẹ học sinh để giảng giải giáo dục và xử lý công việc ” “ Tất cả vì học sinh thân yêu ”

THPT Hà Nội Academy

Những rào cản còn tồn tại kể trên sẽ được vượt qua bởi những công dân toàn cầu tích cực với nhiệm vụ chung tay xây dựng một thế giới tốt đẹp hơn thông qua việc nghiên cứu và tìm kiếm giải pháp cho những vấn đề toàn cầu bao gồm, nhưng không giới hạn ở nhân quyền, đói nghèo và công bằng xã hội. Nhận ...

http://thptkimlien-hanoi.edu.vn/

Qua 40 năm nỗ lực phấn đấu trong các hoạt động giáo dục, vượt khó khăn, thiếu thốn về cơ sở vật chất, trường THPT Kim Liên đã tạo dựn được uy tín vững chắc, là 1 trong 5 trường THPT hàng đầu của Thủ đô có chất lượng giáo dục toàn diện không ngừng nâng cao và trở thành địa chỉ tin cậy của các bậc ...

THPT Tô Hiến Thành

Trường THPT Tô Hiến Thành được thành lập từ năm học 1995-1996, theo quyết định của Ủy Ban nhân dân tỉnh Thanh Hóa. Đến tháng 6/2010, trường chuyển đổi loại hình sang công lập. Suốt 20 năm phát triển, thầy, cô giáo, thế hệ học sinh đã phấn đấu vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, từng bước phát triển ...

THPT Mai Hắc Đế

Trường THPT Mai Hắc Đế được thành lập năm 2009, sau gần 10 năm xây dựng và phát triển, Trường đã trở thành một địa chỉ tin cậy trong đào tạo bậc THPT trên địa bàn Hà Nội.

Trường Trung học phổ thông Nguyễn Gia Thiều

Nhìn lại chặng đường gần 60 năm xây dựng và trưởng thành , các thế hệ giáo viên và học sinh trường Nguyễn Gia Thiều có thể tự hào về truyền thống vẻ vang của trường ; tự hào vì trường đã đóng góp cho đất nước những Anh hùng , liệt sĩ , những người chiến sĩ , nhà khoa học , trí thức , những cán bộ ...

Trường Trung học phổ thông MV.Lô-mô-nô-xốp

Sứ mệnh Xây dựng Hệ thống giáo dục Lômônôxốp có môi trường học tập nền nếp, kỉ cương, chất lượng giáo dục cao; học sinh được giáo dục toàn diện, có cơ hội, điều kiện phát triển phẩm chất, năng lực và tư duy sáng tạo, tự tin hội nhập.

Trường Trung học phổ thông Quốc tế Việt Úc Hà Nội

Trường thực hiện việc giảng dạy và học tập theo chương trình do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành, thực hiện thời gian học tập theo biên chế năm học do Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định. Song song với chương trình này là chương trình học bằng tiếng Anh được giảng dạy bởi đội ngũ giáo viên bản ngữ giàu ...