18/06/2018, 15:51

Lịch sử Myanmar

THỜI KỲ PHONG KIẾN MIẾN ĐIỆN Chế độ phong kiến ở Miến Điện được hình thành từ rất sớm. Các tài liệu lịch sử và khỏa cổ học của Miến Điện đã chứng minh, chính những nhóm dân tộc di cư đến Miến Điện từ các vùng, miền khác nhau đã lập nên vương triều phong kiến rực rỡ và có vai trò quan ...

ar130937851432088.jpg

THỜI KỲ PHONG KIẾN MIẾN ĐIỆN

Chế độ phong kiến ở Miến Điện được hình thành từ rất sớm. Các tài liệu lịch sử và khỏa cổ học của Miến Điện đã chứng minh, chính những nhóm dân tộc di cư đến Miến Điện từ các vùng, miền khác nhau đã lập nên vương triều phong kiến rực rỡ và có vai trò quan trọng trong tiến trình hình thành đất nước Miến Điện. Đó là các tộc người Mon, Miến, Pyu, Shan, và Rakhine.

Vào khoảng thế kỷ III trước Công nguyên, người Mon từ những vùng đất ngần phía Thái Lan và Campuchia ngày nay đã tiến vào Miến Điện, di cư xuống vùng đồng bằng Ayeyarwady lạp nên vương quốc Thanlwin và Sittang, trồng trọt và bán gạo, gỗ teak, khoảng sản, ngà voi sang Ấn Độ, Trung Quốc, Trung Đông và Đông Dương. Họ là những người đầu tiên tiếp xúc với đạo Phật.

Thế kỷ I trước Công nguyên, một số bộ tộc Tạng – Miến trong đó có người Pyu và những bộ tộc liên minh với họ, rời khỏi quê hương ở sườn đông nam cao nguyên Tây Tạng di cư về phương Nam, tiến vào thung lũng thượng nguồn sông Ayeyarwady lập nên các quốc gia phong kiến ở miền Trung Miến Điện như Beikthano, Hanlin, Sri Ksetra (Thayekhittaya). Các triều đại của người Pyu phát triển rực rỡ trong khỏng 400 năm.

Tuy nhiên, đến các thế kỷ sau thì quốc gia này bị biến mất. Một số thử thách cho rằng, họ đã bị người Mon hoạc những tộc người xâm nhập từ đại lục Trung Quốc thôn tính. Cũng giống như người Mon, người Pyu rất sùng bái Phật giáo Tiếu thừa. Các tác phẩm nghệ thuật của người Miến hiện nay ít nhiều vẫn chịu ảnh hưởng của người Pyu xưa kia.

Vào thế kỷ VIII-IX, người Miến từ phía đông dãy Himalaya đến thay thế người Pyu ở vùng Trung Miến Điện và lập nên vương quốc riêng của mình ở đây. Ban đầu, họ chọn Tagaung ở phía Bắc Mandalay làm nơi xây dựng gia, trước khi chuyển đến Bagan vào năm 849.

Vào thế kỷ XII, người Shan, hay còn gọi là người Tai, từ Vân Nam – Trung Quốc tiến vào Đông Bắc Miến Điện và lập nên quốc gia riêng của mình ở khu vực Đông Bắc Miến Điện.

Nhiều tài liệu sử học Mianma cho thấy, người Rakhine (Arakanese) đã có quốc gia riêng ở Miến Điện và lập nên quốc gia riêng của mình ở khu vực Đông Bắc Miến Điện.

Nhiều tài liệu sử học Mianma cho thấy, người Rakhine(Arakanese) đã có quốc gia riêng ở Miến Điện vào thế kỷ VI. Sự hiện diện chính thức và toàn iện của quốc gia người Rakhine ở Miến Điện vào thế kỷ XV, khi vị vua theo đạo Phật của họ đặt kinh đôtại Mrauk U và lực lượng hải quân của họ nắm giữ phần lớn vịnh Bengal.

Có thể nói, những quốc gia của các tộc người kể trên là những triều đại phong kiến đầu tiên của Miến Điện. Những thế kỷ tiếp theo là những khoản thời gian chứng kiến sự phát triển, suy tàn của các vương triều phong kiến Miến Điện. Lịch sử ghi nhận thoief kỳ phong kiến Miến Điện được đánh dấu bởi ba đế chế phong kiến hùng mạnh.

Thời kỳ đế quốc Miến Điện lần thứ nhất – triều đại Bagan (1044-1287)

Pagan_Empire_--_Sithu_II

Pagan Empire circa 1210

Năm 849, sau khi người Pyu bị người Mon đẩy ra khỏi miền Bắc, người Miến đã thiết lập khu vực định cư riêng của mình và lấy Bagan làm nơi định cư riêng của mình và lấy Bagan làm nơi đóng đô của họ. Suốt hai thế kỷ sau, các triều đại không ngừng tiến hành những cuộc chiến tranh để tranh giành binh quyền. Năm 1044, một thủ lĩnh quân sự người Miến dòng dõi hoàng tộc là Anawrahta, sau khi giết chết Vua Sokkat đãtrở thành vua của Bagan, mở ra mottj thời kỳ huy hoàng trong lịch sử Miến Điện.

Trong 33 năm trị vì, Vua Anawrahta đã chinh phục các quốc gia của người Mon, tiến quân sang Nam Chiếu (Vân Nam, Trung Quốc) để biểu dương sức mạnh, quy phục các thủ lĩnh tộc Shan, thống nhất toàn bộ vùng đất ngày nay là Miến Điện, chỉ trừ vùng cao nguyên Shan, một phần Arakan và vùng Taninthayi. Triều đại của Vua Anawrahta được coi là đế quốc Miến Điện thứ nhất – với tư cách một quốc gia thống nhất về chính trị, các vương quốc nhỏ chịu quy phục Miến triều.

Tượng vua Anawrahta

Tượng vua Anawrahta

Không chỉ là vị vua đầu tiên thống nhất được Miến Điện, Vua Anawrahta còn là vị vua đầu tiên truyền bá đạo Phật ở Miến Điện. Ông đã đưa về Bagan toàn bộ 32 cuốn kinh Theravada, chữ viết của người Mon và ra lệnh xây dựng Bagan thành kinh đô của chùa tháp, thiền viện vĩ đại trong đó có chùa Shwezigon – được coi là hình mẫu của chùa Miến Điện sau này. Chỉ một thời gian ngắn sau đó, Bagan nhanh chóng trở thành điểm thu hút các tín đồ đạo Phật ở khu vực Đông Nam Á bởi những công trình chùa tháp đồ sộ, nguy nga.

Không thể thôn tính các thế lực cát cứ, thống nhất Miến Điện, Vua Anawrahta còn thực hiện chính sách giao lưu hòa hiếu với các nước láng giềng như Nam Chiếu ở phía bắc, Xri Lanca và Ấn Độ ở phía tây; đồng thời thu phục các thế lực nhỏ yếu bên lãnh thổ Thái Lan.

Triều đại Bagan để lại trong lịch sử Miến Đện nhiều kiệt tác về kiến trúc chùa tháp và các công trình thủy lợi lớn như hồ chứa nước Meiktila, hệ thống thủy lợi Kyokxe. Suốt hơn hai thế kỷ tồn tại của triều đại Bagan, kinh tế Miến Điện, nhất là nông nghiệp, rất phát triển.

canh dong Pagan

Đền đài ở thung lũng Pagan

Năm 1077, Vua Anawrahta chết, vương triều này đi vào thời kỳ suy vong. Các vị vua kế nhiệm như Kyaanzitha, Alaungsithu và Htilomoin không những không thực hiện được các tư tưởng lón của Vua Anawrahta mà còn tranh giành quyền bính, chia rẽ nội bộ khiến đế quốc Bagan suy yếu dần.

Trong thời kỳ cuối triều đại Bagan, đã xảy ra ba cuộc chiến tranh Miến – Nguyên kéo dài suốt 24 năm (1277-1301)

Lần thứ nhất, sau khi triều đình Mông Cổ thôn tính xong Vương quốc Nam Chiếu vùng Vân Nam, Trung Quốc vào năm 1253, đế quốc Nguyên Mông đòi triều đình Miến Điện phải cống nạp. Năm 1273, sứ giả Nguyên Mông lá Khất Giác Thoát Nhân đến chiêu phục Miến Điện với thái độ ngạo mạn và bị Vua Miến Điện Naratgugapate từ chối. Tháng 3-1277, quân Nguyên từ Vân Nam, Trung Quốc do tướng Hốt Đô dẫn đầu tiến vào lãnh thổ Miến Điện. Các cuộc xung đột ác liệt ở khu vực biên giới diễn ra khiến quân đội hai bên đều bị thiệt hại nặng. Quân Nguyên buộc phải rút lui.

Lần thứ hai, năm 1282, Vua Nguyên là Kublai Khan (Hốt Tất Liệu) cử đoàn sứ giả 10 người cùng đoàn hộ tống hùng hậu đến kinh đô Bagan đòi triều đình Miến Điện cống nạp. Vì quá ngạo mạn, cả đoàn sứ thàn nhà Nguyên bị vua Miến Điện Naratgugapate ra lệnh giết hết. Sự kiện này khiến Hốt Tất Liệt nổi giận, quyết tâm báo thù. Mùa thu năm 1283, Hốt Tất Liệu đều một đạo quân lớn từ Vân Nam, do tướng Tương Ngô Hợp Nhi chỉ huy, tiến sang trừng phạt Miến Điện.

Chiến sự diến ra quyết liệt ở phòng tuyến sông Bhamo, phía Bắc Miến Điện. Trước sự tấn công ồ ạt của quân Nguyên, quân Miến Điện phải rú lui, nội bộ hoàng cung Miến Điện bất hòa chia rẽ. Quân Nguyên tiến sát đến kinh đô Bagan.

Năm 1287, vương triều Miến Điện không thể đứng vững trước sự tấn công ồ ạt của quân Nguyên Mông. Bagan thất thủ, đế quốc phong kiến Miến Điện lần thứ nhất bị diệt vong. Triều đình Nguyên Mông tuyên bố vùng lãnh thổ phía Bắc  và miền Trung của Miến Điện là hai tỉnh của đế quốc Nguyên Mông trên đất Miến Điện. Các vị vua người Miến tiếp theo đều cam chịu làm chư hầu của triều đình nhà Nguyên ở Bắc Kinh.

Sau khi tàn phá Bagan, quân Nguyên Mông rút về phía Bắc Miến Điện, đất nước Miến Điện rơi vào thời kỳ hỗn loạn. Mười năm sau, năm 1297, “ba anh em người Shan” (bố là người Shan, mẹ là người Miến) do Axamkhaya làm thủ lĩnh, nổi lên tập hợp dân chúng khỏi nghĩa, kiểm soát miền trung Miến Điện chống lại sự đô hộ của quân Nguyên Mông. Lực lượng khởi nghĩa của “ba anh em người Shan” không ngừng lớn mạnh, đã đánh đuổi quân Nguyên đến ngần biên giới Vân Nam.

Lần thứ ba, đầu năm 1301, triều đình Nguyên cử tướng Mang Ngột Đô Lỗ Mê Thất dẫn 12000 quân sang Miến Điện dẹp loạn, nhưng bị lực lượng quân đội Miến Điện do Axamkhaya lãnh đạo chống trả quyết liệt, quân Nguyên Mông bị thương vong nhiều vì chiến tranh và bệnh tật. Tháng 3-1301, Mang Ngột Đô Lỗ Me Thất buộc phải xin hòa để rút quân về Trung Quốc, chấm dứt cuộc chiến tranh Miến – Nguyên. Sau khi thất bại trở về nước, các tướng Nguyên Mông bị Hốt Tất Liệt trừng trị với nhiều hình phạt khác nhau, kể cả tử hình

Ba thế kỷ tiếp theo là thời kỳ Miến Điện rơi vào tình trạng phân tranh bất hòa, chia rẽ. Tranh thủ thời cơ sụp đỗ của đế chế bagan , người Mon dưới sự lãnh đạo của Vua Dhammazedi đã di chuyển xuống miền Nam và lập ra vương quốc Hanthawady tại Bago, năm 1472. Vương triều này tiêp tục làm sống lại đạo Phật với việc xây dựng các chùa tháp ở kinh đô và mở rộng xây dựng chùa Shwe Dagon ởYangon.

Dưới thời cai trị của các vua người Mon, quan hệ ngoại giao với các nước phương Tây cũng bắt đầu được chú ý. Người Mon chính là những người mở đường cho quan hệ với Phương Tây sau này.

Trong khi đó, người Shan cũng tách khỏi đế quốc Miến Điện, nắm quyền kiểm soát ở phía bắc, thành lập quốc gia Inwa năm 1364. Người Rakhine cũng lập quốc gia riêng của mình tại vùng phía tây Miến Điện. Những người Miến còn lại rút về Tangoo bên bờ sông Sittang chờ đợi cơ hội tái thống nhất Miến Điện.

Đến đầu thế kỷ XVI, trên lãnh thổ Miến Điện hình thành bốn trung tâm quyền lực mang đậm chất chủng tộc: phía tây là quốc gia Inwa của người Shan; phía nam là quốc gia Bago của người Mon và phía đông là quốc gia Toungoo của người Miến.

Thời kỳ đế quốc Miến Điện lần thứ hai – triều đại Toungoo (1551-1752)

Map_of_Taungoo_Empire_(1580)

Sau hơn ba thế kỷ bị phân chia thành những quốc gia nhỏ lẻ, đến thế kỷ XVI, vương triều Toungoo tiến hành nhiều cuộc chiến tranh mở rộng bờ cõi và thống nhất đất nước. Năm 1541, người Miến, dưới sự lãnh đạo của vua Tabinshwehti – vị vua trẻ tài giỏi – lợi dụng cơ hội từ những cuộc chiến liên miên giữa người Shan và người Mon, đã tấn công chiếm đóng Inwa – kinh đô của người Shan. Sau đó, tiến hành các cuộc chinh phạt thành công ở phía nam, bắt vua người Mon và chuyển thủ đo về Bago.

Tháng 10-1548, Vua Tabinshwehti chỉ huy chiến dịch tấn công Thái Lan (lúc đó gọi là Ayutthaya) giành lại giải đất cực nam là Taninthayi, tuy bắt được con trai vua Thái nhưng quân Miến bị tổn thất nặng nề, năm 1549 phải rút về nước. Năm 1550, Vua Tabinshwehti chết, vương quốc Toungoo đứng trước nguy cơ tan rã trước sự nổi dậy cát cứ của người Mon và người Shan.

Cũng năm đó, Bayinnaung, em rể của vua Tabinshwehti, đồng thời cũng là người kế vị, lên ngôi vua tiếp tục sự nghiệp tái thống nhất Miến Điện. Sử sách Miến Điện ghi nhận, nếu Vua Tabinshwehti là vị vua có những hoài bão đẹp thì vua Bayinnaung là người thực hiện những hoài bão đó. Chỉ trong hai năm, Vua Bayinnaung đã đoạt lại các vùng đất bị cát cứ rồi tấn công lên phía bắc, sang phía tây, phía đông, chiếm lại Inwa, chinh phục các quốc gia của người Shan ở phía bắc. Năm 1557, giành lại giải đất Taninthayi từ tay người Thái. Uy danh của Vương quốc Toungoo chấn động các nước láng giềng.

Trước sức mạnh uy hiếp của triều đại Tangoo, năm 1559, Vua Lào Xettarirat bỏ qua mối thù của Thái Lan, chủ động liên kết với Thái Lan để chống lại Bayinnaung. Năm 1563, Vua Bayinnaung trực tiếp đưa quân vượt sông Xittaung tấn công Thái Lan. Chỉ trong một thời gian ngắn, quân đội của Bayinnaung đáng chiếm Chiang Mai và chiếm được kinh đô Ayuthaya của người Thái, bắt sống Vua Agiyuthagia cùng toàn bộ triều đình Thái và nhiều tu binh, thợ thủ công, vàng bạc,.. đưa về Miến Đện.

Năm 1567, Vua Thái Lan Ayutthaya xin phép vua Bayinnaung về nước thăm các thánh đường Phật giáo, sau đó phát động dân chúng Thái khởi nghĩa chống lại sự cai trị của người Miến. Vua Baynnaung, tiến hành cuộc viễn chinh lần thứ hai sang Thái, chỉ trong 10 tháng lại chinh phục được Thái.

Năm 1569, quân Miến tiến sang Lào nhưng bị thất bại. Năm năm sau (1574), Vua Bayinnaung mở rộng cuộc xâm chiếm lần thứ hai và chinh phục được Lào.

Một đế quốc rộng lớn nhất khu vực Đông Nam Á được hình thành. Bayinnaung tự xưng là “vua của các vua”. Miến Điện bước vào thời kỳ rực rỡ lần thứ hai. Các quốc gia khác ở vùng Miến Điện – Trung Quốc và vùng Manipur (nay thuộc Ấn Độ), đều phải triều cống Vua Miến Điện.

Trong thời kỳ này, việc buôn bán với các nước láng giềng được phát triển mạnh. Pegu trở thành một hải cảng quan trọng cho các thương nhân đi đến miền Bắc Miến Điện và sang Trung Quốc theo đường sông Ayeyarwady. Những hải cảng quan trọng  ở vùng đồng bằng Miến Điện như Syriam, Martaban và Bassein cũng là điểm dừng chân thuận tiện cho các lái buôn đến từ vùng Đông Nam Á.

Người nước ngoài nhất là người Arap và Bồ Đào Nha là những người hoạt động hăng hái nhất trong giao lưu buon bán Đông – Tây. Các công ty buôn bán của Anh, Pháp và Đức được thành lập tại Miến Điện vào thế kỷ XVII.

Tuy nhiên, cũng giống như triều đại Anwrahta, đế quốc Miến Diện lần thứ hai cũng đi vào thời kỳ suy tàn sau khi Vua Bayinnaung chết 1581. Các vương triều sau không đủ sức để duy trì quyền lực và bảo vệ lãnh thổ. Những cuộc chiến giữa các sắc tộc lại nổi lên. Năm 1636, kinh đô của người Miến buộc phải chuyển về Inwa trước các cuộc tấn công của người Mon. Mọi giao lưu với bên ngoài đều bị đình trệ. Đế chế phong kiến lần thứ hai của Miến Điện dần dần tan rã.

Lịch sử ghi nhận, từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XVII là thời kỳ phát triển rực rỡ của đế chế Miến Điện lần thứ hai, mà đỉnh cao là triều đại Vua Bayinnaung, kinh tế phồn vinh, giao lưu buôn bán tấp nập, đạo Phật được chấn hưng, cương vực lãnh thổ được mở rộng.

Thời kỳ đế quốc Miến Điện lần thứ ba – triều đại Konbaung (1752- 1885)

Konbaung

Konbaung Empire

Năm 1752, nhân cơ hội triều đình Tangoo lục đục, suy yếu, được sự giúp sức của người Pháp, người Mon đã chiếm được kinh đô Inwa và cố sức kiểm soát toàn bộ Miến Điện. Tuy nhiên, người Miến không dễ dàng từ bỏ quyền lực. Aung Giaeya – một quan võ tài ba người Miến đánh đuổi người Mon. Một năm sau, năm 1753, ông giành lại được Inwa và xưng vua, lấy hiệu là Alaungpaya – nghĩa là “Phật tương lai”, đặt hoàng cung ở Shwebo. Hoàng thành gọi là Konbaung. Konbaung cũng là tên triều đại.

Không những thế, chỉ bảy năm sau, năm 1755, Vua Alaungpaya đã giành lại Payay, chinh phục các quốc gia Shan. Năm 1755, chiếm Dagon (nơi ông đạt tên là Yangon, nghĩa là “kết thúc thù hận”, sau đó chiếm được cả kinh đô Bago của người Mon vào năm 1757. Sau tám năm chinh chiến, Vua Alaungpaya đã thống nhất đất nước và lập ra vương triều Konbaung. Đế chế thứ ba và cũng là đế chế phong kiến cuối cùng của Miến Điện được hình thành.

Trước tình hình đó, người Mon chạy sang nương nhờ lãnh thổ Thái rồi tấn công trở lại Miến Điện. Năm 1760, Vua Alaungpaya đã tiến hành chinh phạt, thu hồi dãi đất Taninthayi ròi tiến công vây hãm kinh đô Thái làAyutthaya. Chiến sự đang ác liệt thì vua Alaungpaya bị bênh nặng, phải rút quân và qua đời trên đường trở về, thọ 46 tuổi. Sau khi về đếnYangon, cái chết của vua Alaungpaya mới được công bố khiến người Thái bất ngờ.

Ngay khi lên ngôi, Vua Hsinbyushin – con trai Vua Alaungpaya – được mệnh danh là “chúa voi trắng”, rất giỏi dùng binh, tiếp tục sự nghiệp của cha, từ năm 1760 đến 1763 liên tiếp tiến hành các cuộc chinh phạt, mở mang bờ cõi. Năm 1767, Vua Hsinbyushin đã giành lại được dải đất Taninthayi, tấn công Thái phải chuyển kinh đô về Bangkok. Chiến thắng này dã mang về cho Miến Điện nhiều vũ công và vô số tù binh người Thái để phục vụ cho công cuộc chấn hưng Miến Điện. Nhiều nghệ sĩ Thái sau đó đã công hiến tài năng, góp phần phục hưng nền văn học, nghề thuật Miến Điện.

Cũng tài giỏi như người anh, Bodawpaya – em trai Hsinbyushin, sau khi lên ngôi vua tiếp tục chinh phục được Rakhine (Arakan). Sự nghiệp thống nhất đất nước được hoàn tất. Trong thời gian cai trị của mình, Vua Bodawpaya đã cải cách hệ thống thuế khóa, thông tin, luật pháp và giáo dục, tạo điều kiện thuận lợi cho giao lưu kinh tế, nâng cao đời sống của nhân dân.

Trong thời gian trị vì của Vua Hsinbyushin và Vua Bodawpaya, nhà Thanh – Trung Quốc dưới triều đại Càn Long đã bốn lần xâm lược Miến Điện và đều bị quân dân Miến Điện đập tan.

Lần thứ nhất, năm 1765, mượn cớ một người Trung Quốc bị giết chết trong bữa tiệc rượu ở Kengtung của Miến Điện (giáp biên giới Trung Quốc), chính quyền nhà Thanh ở Vân Nam sau khi chiêu nạp các thủ lĩnh người Shan từ Miến Điện sang hàng, đã huy động lực lượng quân đội hùng hậu tràn sang lãnh thổ Miến Điện để “hỏi tội” viên thủ lĩnh Kengtung. Quân Thanh bị quân dân Kengtung đánh trả quyết liệt. Ngay sau đó, một cánh quân Miến Điện từ kinh dô Inwa lên phối hợp với quân Kengtung truy đuổi quân Thanh đến tận biên giới Vân Nam. Quân Thanh thua chạy tan tác.

Lần thứ hai,  năm 1766, Thái thú Vân Nam là Dương Ứng Cơ đích thân cầm quân vượt biên giới chinh phục các quốc gia Shan, rồi thẳng tiến xuống Kaungton thì bị quân đội Miến chặn lại. Các cánh quân Miến từ Inwa, Bhamo và Kaungton tạo thành thế giọng kìm truy quét quân thanh sang tận lãnh thổ Vân Nam, chiếm luôn tám tiểu vương quốc ở Vân Nam. Quân Thanh bị tổn thất hơn một vạn người, buộc phải cầu hòa. Dương Ứng Cơ bị vua Càn ong xử tội chết.

Lần thứ ba, tháng 10- 1767, Thái thú mới của Vân Nam là Minh Thụy – con rể Vua Càn Long – đích thân dẫn một đạo quân lớn vượt biên giới đánh chiếm Hxenuy, đánh lui hai đạo quân Miến tới cứu viện rồi thẳng tiến đến khiêu chiến kinh đô Inwa. Sau ba tháng cầm cự, mùa xuân năm 1768, các đạo quân Miến tống phản công, giết chết 15000 quân Thanh, tướng tiên phong của quân Thanh phải thắt cổ tự tử. Minh Thụy chờ quân cứu viện tới để rút lui, nhưng đội quân ứng cứu từ VânNamsang đã bị quân Miến đánh tan. Đội quân xâm lược của Minh Thụy bị tấn công từ nhiều hướng, tan tác tháo chạy về VânNam.

Lần thứ tư, năm 1769, Vua Càn Long lệnh do Thái thú Vân Nam là A Lý Cồn thu thập thêm quân tình nguyện lưu vong người Miến, người Shan, bổ nhiệm phó Hoằng làm chủ tướng, chia thành ba đạo quân tiến đánh Miến Điện bằng đường thủy và đường bộ để rửa hận. Vua Hsinbyushin điều động bốn đạo quân nghênh chiến.

Sau các cuộc giao giao tranh ác liệt trên bộ và trên sông, quân Thanh vượt sông đánh chiếm Bhamo, dựng pháo đài lớn Bhamo và Kaungton, dùng thủy quân xuôi thuyền bắn phá Kaungton.

Từ kinh đô Inwa, thủy quân Miến ngược dòng tiêu diệt toàn bộ chiến thuyền quân Thanh, ba đạo quân khác của Miến Điện chặn đánh các tuyến liên lạc của địch rồi vây chặt pháo đài quân Thanh. Quân Thanh bị kẹp giữa vòng vây trùng điệp, đói khát và benh tật hoành hành, các tướng quân buộc phải xin hàng. Tống chỉ huy quân Miến là Maha Thihathura chấp thuận, hai bên ký hiệp ước hòa bình với các nội dung:

Nhà Thanh giao nộp tất cả các phần tử phản loạn người Miến trốn trong lãnh thổ VânNam

– Nhà Thanh cam kết ton trọng chủ quyền của Miến Điện đối với các quốc gia Shan.

– Hai nước trao đổi tù binh.

– Hai nước duy trì quan hệ buôn bán, trao đổi thường kỳ các sứ đoàn, quà tặng hữu hảo.

Quân Thanh chất đống đại bác đốt cho nóng chảy trước mặt quân Miến rồi rút về nước. Trên đường về, nhiều binh lính Thanh chết vì đói khát, kiệt sức và bênh tật. Tuy nhà Thanh sau đó lật lọng, không chịu trao trả tù binh nhưng từ đó không dám nghĩ tới cuộc viễn chinh thứ năm.

Vua Hsinbyushin không hài lòng với việc Tướng Maha Thihathura tha bổng quân Thanh, nên ra lệnh đày Tướng Maha Thihathura lên vùng cao nguyên Shan, các chỉ huy khác thì bị phạt đứng phơi nắng ở cổng Tây cung điện suốt ba ngày.

Bốn cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Thanh thắng lợi được coi là một trong những trang sử vẻ vang nhất của nhân dân Miến Điện.

Tuy nhiên, việc không có sự chỉ định hợp lý người kể thừa ngai vàng cũng như âm mưu thôn tính Miến Điện của thực dân Anh, Pháp là những nguyên nhân gây sự chia rẽ trong triều đại Konbaung, mà hạu quả là sự sụp đỗ của vương triều này vào những năm cuối thế kỷ XIX. Thời kỳ phát triển rực rỡ của xã hội phong kiến Miến Điện chấm dứt.

THỜI KỲ ĐẾ QUỐC THỰC DÂN CAI TRỊ

Trong quá trình tìm kiếm thị trường thuộc địa, thực dân Anh đã tìm thấy ở Miến Điện những thứ mà người Anh đang cần. Từ cuối thế kỷ XVIII, hoạt động giao thương buôn bán cùng với các đợt truyền đạo tại Miến Điện đã được thực dân Anh tiến hành. Đứng trước nguy cơ bị Pháp thôn tính mảnh đất mầu mỡ này khi Pháp giúp đỡ người Mon đánh chiếm kinh đô của người Miến, thực dân Anh càng quyết tâm thực hiện dã tâm của mình.

Chiến tranh Anh – Miến lần thứ nhất (1824-1826) và hiệp ước Yandabo

Năm 1819, Anh chiếm xong Xingapo, năm 1820, Anh thôn tính Neepan. Miến Điện trở thành đối tượng xâm lược cảu Anh. Sự căng thẳng giữa vương triều phong kiến Miến Điện với Anh ngày một gia tăng, sau khi xảy ra tranh chấp giữa hai bên tại Đảo Xahpuri giữa sông Naaf – biên giới tự nhiên giữa Rakhine (Miến Điện) và Bengal (thuộc địa Anh).

Ngày 5-3-1824, quân đội Miến Điện được trang bị bằng súng trường thô sơ và súng đại bác chế tạo từ thế kỷ XVII không thể chống trả súng máy, đại bác hiện đại và tàu chiến cảu quân Anh. Thừa thắng, đầu năm 1825 quân Anh ngược sông Ayeyarwady tràn vào Rakhine, sau đó tiến đến Yandabo (chỉ cách Inwa 80 dặm). Miến Điện thua trận, buộc phải chấp nhận các điều kiện khắc nghiệt của Anh.

Ngày 24-6-1826, hiệp ước Yandabo được hai bên ký kết với các điều khoản:

– Miến Điện nhượng cho Anh các vùng lãnh thổ Rakhine, Taninthayi và Atxam.

– Miến Điện bồi thường chiến tranh cho Anh 1 triệu Sterling, trả làm bốn lần trong hai năm.

Hai bên ký hiệp ước buôn bán và trao đổi đại diện.

Khoản tiền bồi thường quá lớn, vượt quá khả năng thánh toán của Miến Điện khiến Miến Điện hoa kiệt ngân khố. Năm 1827, phái đoàn Miến Điện phải sangCalcuttaxin hoãn trao trả đợt ba và đợt bốn.

Thất bại nhanh chóng trong cuộc chiến với Anh là một bất ngờ lớn đối với toàn dân Miến Điện, làm bùng lên phóng trào Miến Điện, làm bùng lên phong trào kháng chiến chống xâm lược ở những vùng đát bị dân cai trị. Với nhiều kinh nghiệm cai trị thuộc địa, năm 1830 thực dân Anh cử Tướng Henry Burney sang Miến Điện thực hiện chính sách Anh chia để trị.

Chiến tranh Anh – Miến lần thứ hai (1852-1853)

Không chỉ dừng lại ở đó, với tham vọng thôn tính toàn bộ Miến Điện để nối liền Calcutta với Xingapo, thực dân Anh tiếp tục tìm kiếm các cơ hội để tiến hành gây chiến tranh giành đất.

Tháng 8-1851, trước sự lồng hành của các thương gia người Anh, Vua Pagan Min chấp thuận đề nghị của Thủ hiến Yangon, bắt giam bắt viên thuyền trưởng người Anh về tội giết người. Lúc này thực dân Anh đã bình định xong người Sikh ở Ấn Độ, coi đây là cơ hội thuận lợi để tấn công Miến Điện.

Ngày 18-1-1852, Lambert – Phó Tư lệnh hải quân Anh – gửi tối hậu thư cho triều đình Miến Điện đưa ra những đòi hỏi phi lý. Vua Pagan Min biết rõ sự thu kém về quân sự của Miến Điện nhưng không thể nhịn nhục, đành chấp nhận chiến tranh.

Từ tháng 2-1852, bộ binh Anh và lính đánh thuê Ấn Độ được hải quân đại bác yểm trợ, liên tục mở các chiến dịch tấn công chiếm đóng Yagon, Bassein, Bago rồi theo sông Ayeyarwady tấn công về phía kinh thành Miến Điện.

Tháng 1-1853, quân Anh tiếp tục tiến lên phía Bắc, chiếm được Myede – cách thủ phủ Prom chỉ 50 dặm. Rút kinh nghiệm cuộc chiến tranh lần trước, quân Miến Điện vừa đánh trực diện vừa đánh du kích vừa rút lui, khiến quân Anh thiệt hại quá nhiều. Tốc độ tiến quân cảu quân Anh ngày càng chậm lại.

Giữa lúc đó, triều đình Miến Điện xảy ra binh biến giữa phái chủ chiến và phái chủ hòa. Thái tử Mindon cầm đầu phải chủ hòa thắng thế. Mindon lên ngôi vua. Ngày 31-3-1853, triều đình Miến Điện đàm phán với Lambert. Hai bên thỏa thuận tạm ngừng chiến sự vào ngày 30-6-1853. Cuộc chiến tranh lần thứ hai tự kết thúc.

Trong cuộc chiến tranh lần thứ hai, thưc dân Anh mở  rộng vùng đất chiếm đóng tới toàn bộ Yangon, Toungoo và vùng đồng bằng Irrawaddy rộng lớn. Về phía Miến Điện, không chỉ gặp phải đối thủ có vũ khí và tàu chiến hiện đại, nhiều kinh nghiệm chinh phạt, mà quan trọng hơn là nội bộ triều đình Miến Điện lục đục, thiếu một vị minh quân tài ba như các vị vua trước đây.

Sau hèn kém, nhu nhược của triều đình Miến Điện khiến Miến Điện và nhân dân Miến Điện phải trả giá đắt bởi các hiệp ước bất bình đẳng năm 1862 và 1867, trong đó người Anh không chỉ được hưởng nhiều quyền lợi ưu đãi về buôn bán mà còn được hưởng quyền “bất khả xâm phạm” trên lãnh thổ Miến Điện

Chiến tranh Anh – Miến lần thứ ba (1885)

Sau hai lần phải cắt đất cho người Anh, triều đình phong kiến Miến Điện lúc đó đã mục rỗng, không còn đủ sức và uy tín để phục vụ lòng dân, đứng lên đánh đuổi thực dân Anh.

Sau khi giành kinh đô về Mandalay năm 1857, Vua Thibaw Min – vị vua cuối cùng của vương triều Miến Điện – lên năm quyền năm 1878, nhưng trên thực tế quyền kiểm soát đất nước lại nằm trong tay các sứ quân cát cứ. Bất lực, Vua Thibaw Min tìm đến sự giúp đỡ của người Pháp nhưng không thành.

Lợi dụng tình hình rối loạn ở Miến Điện và sợ sự can thiệp cảu Pháp sẽ ảnh hưởng đến quyền độc quyền về gỗ teak, tháng 10-1885, Toàn quyền Anh ở Ấn độ là Dufferin lợi dụng cuộc tranh chấp giữa Miến Điện với một công ty gỗ của Anh khi chính quyền Miến Điện buộc tội công ty này khai thác gỗ bất hợp pháp, kiếm cớ tấn công vào kinh đô Mandalay.

Với lực lượng quân đội hùng hậu và trang bị hiện đại, từ ngày 17-11-1885, chỉ sau chưa đầy hai tuần giao tranh, quân Anh đã chiếm được Mingla, Bagan, Myingan. Ngày 27-11-1885, Vua Thibaw Min ra lệnh đầu hàng. Ngày 28-11-1885, quân Anh tràn vào kinh đô tràn vào kinh đô Mandalay. Ngày 29-11-1885, Vua Thibaw Win cùng hoàng hậu và gia quyến bị quân Anh đưa lên tàu thủy lưu đày sang Ấn Độ. Cuộc chiến tranh Anh – Miến lần thứ ba kết thúc nhanh chóng. Thực dân Anh hoàn thành kiểm soát nốt Mandalay và miền Bắc Miến Điện.

Chiến thắng lần thứ ba này không chỉ đảm bảo cho thực dân Anh quyền xuất khẩu gỗ teak, gạo, đá quý, dầu khí mà còn giúp chúng hoàn tất việc áp đặt cai trị trên toàn bộ lãnh thổ Miến Điện.

Năm 1886, thực dân Anh sáp nhập Miến Điện thành một bang của Ấn Độ thuộc Anh (người Miến gọi đó là “thuộc địa của thuộc địa”. Chế độ phong kiến Miến Điện chấm dứt, Miến Điện bước vào giai đoạn mới – giai đoạn đấu tranh chống thực dân Anh để giành độc lập).

ĐẤU TRANH GIÀNH ĐỘC LẬP (1886 -1941)

Chế độ cai trị của thực dân Anh

Sau khi giành quyền cai trị toàn cõi Miến Điện, thực dân Anh không chỉ thi hành chính sách hà khắc, vơ vét tài nguyên thiên nhiên của Miến Điện đem về mẫu quốc mà còn thực thi chính sách chia rẽ sắc tộc, để lại nhiều hậu quả lâu dài đối với Miến Điện.

Các quốc gia Karen ở miền Tây Miến Điện được thực dân Anh cho hưởng quyền độc lập theo Hiệp ước 1875 dưới sự bảo hộ của Anh. Thủ lĩnh các quốc gia Shan ở miền Bắc được toàn quyền Anh tấn phong tước hiệu và ban cho nhiều đặc quyền riêng dưới sự giám sát của người Anh.

Ở khu vực người Kachin, các thủ lĩnh địa phương được giao nhiều quyền lực hơn so với quốc gia Shan. Ở các vùng dân tộc thiểu số thưa dân giúp Trung Quốc như tộc người Wa, Naga, Chin,v.v. bị thực dân Anh cai trị gián tiếp bằng chế độ quan lại địa phương.

Thực dân Anh đặc biệt nâng đỡ người Karen, kích động mâu thuẩn giữa người Karen với người Miến. Tỷ lệ người Karen được học hành, tuyển dụng làm việc trong cơ quan hành chính, bệnh viện,.. cao hơn hơn hẳn người Miến. Người Miến không được thamgia quân đội hoàng gia.

Chính sách “chia để trị” của thực dân Anh nhìn bề ngoài là nhằm bảo vệ các dân tộc nghèo, kém phát triển, nhưng thực chất là nhấn mạnh sự khác biệt, duy trì và kéo dài sự trì trệ ở các vùng dân tộc thiểu số, đặc biệt là nằm ngăn cản quá trình hòa trộn tự nhiên về văn hóa giữa các sắc tộc. Hơn nữa, bộ máy tuyên truyền của thực dân Anh không ngừng thổi phồng, xuyên tạc “tội ác” của các triều đại phong kiến Miến Điện trước kia, vẽ ra hình ảnh sai lệch, xấu xa về người Miến trong con mắt của các sắc tộc khác.

Về quản lý hành chính, Miến Điện bị xếp thành một bang của Ấn Độ, vì vậy tất cả các vị trí trọng yếu trong ơ quan dân sự ở Miến Điện đều là người Ấn Độ và người châu Âu do thực dân Anh cử đến nắm giữ.

Về kinh tế, người Anh và người châu Âu được quyền khai thác tài nguyên thiên nhiên của Miến Điện được tự do chuyển lợi nhuận về nước. Các loại tài nguyên thiên nhiên quý giá của Miến Điện bị thực dân Anh khai thác triệt để. Theo những tư liệu của Anh còn lưu giữ ở Miến Điện ở Miến Điện, mỗi năm thực dân Anh khai thác 100000 cara ngọc ruby, 500000 tấn gỗ teak và các loại gỗ quý khác, 27 triệu gallon dầu mỏ, 71000 tấn chì, 76000 tấn thiếc, 7500 tấn đồng, 43000 tấn niken, 5,92 triệu ounce bạc 1,29 triệu ounce vàng, v.v..

Các công ty của Anh còn độc quyền kinh doanh trong các ngành: trang thiết bị quốc phòng, giao thông đường thủy, đường sắt, dệt may, xay xát gạo, chế biến nông sản và nhập khẩu phân phối hàng tiêu dùng tại Miến Điện.

Nghiêm trọng hơn, thực dân Anh đã xúc phạm nền truyền thống của văn hóa Miến Điện, ngang nhiên chà đạp lên những quy định, nguyên tác truyền thống thiêng liêng của đạo Phật, mang về Anh các tượng Phật quý, chuông quý của Miến Điện; tự tiện đi giày, dép vào các đền, chùa của Miến Điện hoạc có những hành động khiếm nhã đối với các sư sãi,..; đồng thời thẳng tay trấn áp mọi hoạt động phản kháng của nhân dân Miến Điện.

Đối với các tầng lớp nhân dân Miến Điện, đều họ không thể chấp nhận được là, với lịch sử oai hùng hàng ngàn năm chinh phục, mở mang bờ cõi, người Miến Điện chưa từng khuất phục bất kỳ kẻ thù nào đến xâm phạm, họ không thể chấp nhận thực tế đắng cay: đất nước bị biến thành một bang của Ấn Độ thuộc Anh, đó là “thuộc địa của thuộc địa”

Tất cả những nhân tố đó thôi thúc ý chí và tinh thần dân tộc của nhân dân Miến Điện nỗi dậy chống lại thực dân Anh, giành độc lập dân tộc.

Các cuộc đấu tranh tự phát

Đầu thế kỷ XX, việc Nhật Bản giành chiến thắng trong cuộc chiến tranh Nga – Nhật năm 1905, cách mạng Tân Hợi ở Trung Quốc thành công năm 1911, phong trào dân tộc Ấn Độ được truyền bá qua các lãnh tụ cách mạng Ấn Độ bị lưu đày sang Miến Điện,.. đã làm bừng tỉnh ý thức dân tộc của đông đảo dân chúng Miến Điện. Góp phần vào việc thức tỉnh ý thức dân tộc còn có cả những kết quả nghiên cứu lịch sử văn hóa dân tộc trong tạp chí hội nghiên cứu Miến Điện do các trí thức Miến Điện xuất bản, giúp người Miến Điện hiểu và tự hào về truyền thống dân tộc.

Trên đất nước Miến Điện bắt đầu xuất hiện các phong trào đâu tranh tự phát chống lại ách cai trị của thực dân Anh. Phần lớn các phong trào đấu tranh tranh tự phát này đều do các vị cao tăng hoặc các trí thức Miến Điện lãnh đạo. Điển hình là:

Năm 1906, hội thanh niên Phật tử Miến Điện họp đại hội ở Hendada, thông qua nghị quyết yêu cầu dù là người Âu hay người Á đều phải đi chân đất trong các khu vực đền, chùa của Miến Điện. Nghị quyết thổi bùng lên tình cảm dân tộc thiêng liêng của người Miến. :”Vấn đề đôi giày” trở thành tiêu điểm xung đột giữa thực dân Anh với van hóa Miến Điện.

Năm 1917 và 1918, hội thanh niên Phật tử Miến Điện cử doàn đại biểu đến Calcutta và Luân Đôn nêu nguyện vọng thành lập chính phủ Miến Điện tách khỏi Ấn Độ và đòi toàn quyền Anh áp dụng cải cách như nhau giữa hai nước Ấn Độ và Miến Điện.

Từ năm 1918 – 1922, liên tiếp diễn ra các cuộc đấu tranh của nông dân, công nhân, thủy thủ Miến Điện đòi thực dân Anh giảm thuế, cải thiện điều kiện làm việc. Trong những năm 1920 xuất hiện hơn 300 hội của người Miến đấu tranh chống ách cai trị hà khắc của thực dân Anh.

Năm 1919 tại chùa Eindawya ở Mandalay, một đoàn khách châu Âu đi giày vào chùa đã bị các thiền sư đuổi ra. Ngay sau đó, bốn vị cao tăng của Miến Điện bị người Anh đưa ra xét xử, một trong số đó là nhà sư U Kettaya bị tù chung thân.

Năm 1921, nhà sư U Ottama thúc đẩy các hoạt động tự do tín ngưỡng như là một cách thức kêu gọi các Phật tử đứng lên giành độc lập. Sau nhiều lần bị bắt giữ, giam cầm, năm 1939, nhà sư U Ottama đã chết trong tù.

Một nhà sư khác là U Wizaya cũng chết trong tù sau 163 ngày tuyệt thực để phản đối lệnh của người Anh cấm các nhà sư bị tù được mặc áo. Trong chiến tranh thế giới thứ nhất, 18000 lính Miến Điện bị thực dân Anh đưa sang mặt trận Trung Đông. Cuộc chiến tranh thế giới đã phơi bày những khuyết tật của đế quốc Anh, khiến người Ấn Độ và người Miến có cơ sở nghi ngờ về sức mạnh vô địch của “đế quốc mặt trời không bao giờ lặn”.

Năm 1930, cuộc khởi nghĩa nông dân do nhà sư Xaya Xan lãnh đạo ở vùng đồng bằng Ayeyarwady chống lại sự cai trị của thực dân Anh, được nhiều nơi hưởng ứng. Cuộc khởi nghĩa kéo dài 18 tháng. Tuy bị quân Anh dìm trong biển máu nhưng cuộc khởi nghĩa người Miến đã vùng lên.

Tiếp đó là “phong trào Thakin” do người tri thức Miến Điện khởi xướng và lãnh đạo, kêu gọi tinh thần yêu nước của mọi tâng lớp nhân dân Miến Điện. “ Phong trào Thakin” được dân chúng hưởng ứng và phát triển rộng rãi.

Đấu tranh nghị thường

Cuộc tổng bãi khóa của sinh viên trường Đại học Tổng hợp Yangon ngyaf 15-12-1920 đã buộc thực dân Anh sửa đổi luật giáo dục mới ban hành, do có một số điều khoản xúc phạm tới sự tôn nghiêm dân tộc của Miến Điện. Sau sự kiện này, gới trí thức Miến Điện đi theo xu hướng dùng đấu tranh chính trị với thực dân Anh thay cho các hình thức đâu tranh khác.

Năm 1921, nghị viện Anh quyết định áp dụng thể chế Dyarchie (hai chính quyền) đối với Miến Điện. heo thể chế Dyarchie, các lĩnh vực quan trọng về quốc phòng, đối ngoại, tiền tuệ, thuế, luật dân sự, hình sự, giao thông vận tải, v.v.. do chính quyền Ấn Độ thuộc Anh ở Niu Đêli quản lý; các lĩnh vực còn lại gồm hành chính, duy trì trật tự, tài chính công nông, nông nghiệp, lâm nghiệp, y tế, giáo dục, v.v.. thì thuộc về Hội đồng Lập pháp Miến Điện.

Hội đồng Lập pháp Miến Điện gồm 103 thành viên, trong đó có thống đóc và hơn một nửa thành viên là người Anh, còn lại là người Miến và các sắc tộc khác. Tuy nhiên thiểu số trong hội đồng Lập pháp, nhưng các thành viên của Miến Điện cũng có tiếng nói nhất định trong việc đấu tranh nghị trường, bảo vệ quyền lợi dân tộc của Miến Điện.

Đấu tranh đòi tách khỏi Ấn Độ

Trước làn sóng đấu tranh của các tầng lớp nhân dân, trí thức Miến Điện, năm 1928, Chính phủ Anh phải cử “phái đoàn Simon” sang Miến Điện điều tra tình hình và tham khảo nguyện vọng của người Miến Điện.

Hội đồng Lập pháp Miến Điện chia thành hái phái. Phái do U Bape đứng đầu tán thành tách khỏi Ấn Độ; phái do Uchit Hlang lãnh đạo chủ trương không tách. Tranh luận trong hội đồng Lập pháp lan rộng ra bên ngoài. Chủ trương tách khỏi Ấn Độ được “phong trào Thakin” và đông đảo dư luận Miến Điện tán thành. Tình hình căng thẳng dẫn đến nhiều cuộc xung đột sắc tộc Ấn – Miến trên lãnh thổ Miến Điện.

Sau cuộc khởi nghĩa Xaya Xan, thực dân Anh buộc phải ra quyết dịnh tách Miến Điện khỏi Ấn Độ về mặt hành chính. Ngày 2-3-1935, Nghị viện Anh thông qua đạo luật cho phép kể từ ngày 1-4-1937, Miến Điện sẽ có một chính phủ riêng dưới sự quản lý của toàn quyền Anh.

Đạo luật của Nghị viện Anh quy định, Quốc vụ khanh Anh phụ trách Ấn Độ và Miến Điện. Trong thể chế mới ở Miến Điện, chính phủ Miến Điện chịu trách nhiệm trước Nghị viện Anh. Cơ quan Lập pháp của Miến Điện gồm hai viện: Thượng viện và Hạ viện. Tuy nhiên, thực dân Anh cho phép áp dụng thể chế mới  trong các khu vực thuộc Miến Điện “chính sách”, những khu vực rộng lớn khác thuộc các quốc gia Shan, Rakhine, Chin, Kachin,.. không nằm trong thể chế mới của chính phủ Miến Điện.

Việc này nằm trong âm mưu “chia để trị” của thực dân Anh nhằm khống chế Miến Điện tiếp tục nằm trong vòng thống trị lâu dài của người Anh.

Tuy chỉ độc lập trên danh nghĩa hành chính, nhưng việc Miến Điện tách khỏi Ấn Độ đã chấm dứt thời kỳ “thuộc địa của thuộc địa” và được coi là một thắng lợi tinh thần của nhân dân Miến Điện trong cuộc đâu tranh chống lại ách thống trị của thực dân Anh.

Từ năm 1937 đến khi phát xít Nhật xâm lược Miến Điện (tháng 12-1941), người Anh tiếp tục thao túng Chính phủ Miến Điện, ba lần thay đổi thủ tướng Miến Điện (các thủ tướng Ba Mo, U Pu, U Saw) vì nghi ngờ họ có thái độ và hành động chống Anh.

Đến tháng 8-1940, thực dân Anh thông qua chính quyền thuộc địa bắt giam một loạt lãnh tụ yêu nước Miến Điện. Thể chế mới của chính phủ Miến Điện biến thành chính quyền bù nhìn của người Anh. Ngày 17-11-1941, Miến Điện chính thức bị đặt dưới quyền chỉ huy của Tổng Tư lệnh Anh vùng Viễn Đông là Thống chế không quân Robert Brook, để chuẩn bị chống Nhật Bản đổ bộ vào Miến Điện.

MYNAMAR-MIANMA HIỆP ƯỚC AUNG SAN VÀ DÂN TỘC MYANMAR

Cuối năm 1946, đầu năm 1947, theo lời mời của chính phủ Anh, Đoàn đại biểu Miến Điện do tướng Aung San dẫn đầu, cùng Thakin Mya, U Be Pe, U Tin Tut, Thakin Ba Xein và U Saw đến Luân Đôn đàn phám với Thủ tướng Anh Attlee về tương lai của Miến Điện.

Ngày 27-1-1947, Hiệp ước Aung San – Attlee được ký kết tại Anh với bốn nội dung:

Miến Điện sẽ tổng tuyển cử sau ba tháng ký hiệp ước để bầu ra hội đồng Lập hiến.

Chính phủ Anh công nhận Nội các Aung San là chính phủ Miến Điện lâm thời có quyền lực của một nội các tự trị.

Sẽ tổ chức một hội nghị với sự tham gia của đại diện Nghị viện Anh, Nội các Aung San và đại biểu các dân tộc Chin, Kachin, Shan, Karen bàn về tương lai của các dân tộc thiểu số ở Miến Điện

Anh đồng ý cho Miến Điện vay tiền để xây lại đất nước và giúp Miến Điện tham gia Liên hợp quốc

Trừ điều 2 và 4, chính hủ Anh hy vọng Điều 1 và 3 sẽ giúp Anh xoay chuyển tình thế, vì vấn đề sắc tộc phức tạp sẽ khiến nội các Aung San không thể tiến hành tổng tuyển cử được. Như vậy, Miến Điện không thể độc lập mà phải trực thuộc Anh.

Vấn đề thứ nhất nổi lên ngay sau khi đoàn Miến Điện về nước. Những chính sách phải hữu lợi dụng vấn đề đưa ra các khảu hiệu để lấy lòng dân chúng. U Saw và Thakin Ba Xein rời bỏ nội các, liên kiết với BaMo chống lại Aung San.

Hội Nghị Panlong và vai trò của Aung San

Một tháng sau đó, ngày 9-2-1947, theo quy định của hiệp ước Aung San – Attlee, hội nghị giữa Liên đoàn tự do nhân dân chống phát xít và đại diện các dân tộc thiểu số được tổ chức tại Panlong trong quốc gia nam Shan. Với uy tính của mình, tướng Aung San đã tháo gỡ mâu thuẩn giữa các sắc tộc.

Lời phát biểu của ông khiến các đại biểu vừa khâm phục vừa khẩu phục: “ các dân tộc miền núi – người Kachin, Karen, Chin, Shan cần tự mình quyết định thống nhất với người Miến hay không. Tôi muốn biết rõ nguyện vọng với của các bạn trong trường hợp các bạn không muốn thống nhất. Tôi hoàn toàn không muốn các bạn mất đi những điều không đáng mất… Không việc gì phải sợ – cả người da trắng và người da màu. Đừng run lên lên trước bất kỳ lời đe dọa nào. Cũng chẳng cần phải cầu xin ai hết. Hãy cất cao giọng mà tuyên bố rằng, chúng ta thống nhất Miến Điện và ngày mai độc lập sẽ đến với chúng ta”.

Tướng Aung San đã ký hiệp định Panlong với các lãnh đạo của người Shan, Chin, Karen và Kachin tại bang Shan về việc đảm bảo tự do lựa chọn chế độ chính trị của các nhóm dân tộc thiểu số, nếu họ không bằng lòng với tình hình đất nước sau 10 năm. Hiệp định cũng đảm bảo cả quyền lợi của dân tộc Kayin, Kayah, Mon và Rakhine, mặc dù đại diện của các tộc này vắng mặt.

Sau hội nghị Panlong. Liên đoàn thành lập ủy ban điều tra nguyện vọng của từng dân tộc trước khi tổng tuyển cử. Ủy ban điều tra gồm chín người, do Nghị sĩ Anh Rê Williams làm chủ tịch. Sau hơn 1 tháng điều tra, trừ hai dân tộc không có thái độ rõ ràng, tất cả các dân tộc thiểu số điều thể hiện nguyện vọng tham gia vào quốc gia “ Miến Điện độc lập chính danh”.

Tháng 4-1947, trước sự ngỡ ngàng của người Anh và các đối thủ khác của Liên đoàn, dân chúng Miến Điện lần đầu đi bầu cử quốc hội lập hiến. Liên đoàn tự do nhân dân chống phát xít (AFPEL) của tướng Aung San giành 172 ghế trên tổng số 225 ghế. Đảng Cộng sản Miến Điện được 7 ghế, lực lượng đối lập Mianma do U Saw lãnh đạo được ba ghế. Còn lại 69 ghế đều chia cho các nhóm dân tộc thiểu số.

Ngày 9-5-1947, Quốc hội lập hiến Miến Điện họp phiên đầu tiên, phê chuẩn hiệp ước Aung San – Attlee, tuyên bố Miến Điện từ bỏ khối cộng đồng Anh. U Tin Tut được cử sang Anh nhận chuyển giao quyền lực.

Khi quốc hội lập hiến Miến Điện bầu chính phủ lâm thời, tướng Aung San được quốc hội chỉ định giữ chức thủ tướng. Thực dân Anh hy vọng vẫn giữ được ảnh hưởng và từng bước chuyển giao chính quyền trong vòng 10 năm, nhưng tướng Aung San đã thành công khi buộc Anh phải trả lại độc lập cho Miến Điện vào cuối năm 1947, với một chính quyền dân sự dân chủ.

Thắng lợi của cuộc đấu tranh giành độc l

0