18/06/2018, 15:51

Thần khúc của Dante Alighieri

Devils confronting Dante and Virgil Phạm Trọng Chánh Lần cuối cùng gặp nhau tại Paris thấm thoát đã ba mươi năm. Nay thư từ trở lại Gs Nguyễn Văn Hoàn gửi tặng tôi bản dịch thơ Thần Khúc của Dante và tôi gửi tặng giáo sư Truyện thơ Odyssée và Sử thi Iliade của Homère tôi diễn ca ra ...

Devils confronting Dante and Virgil

Devils confronting Dante and Virgil

Phạm Trọng Chánh 

Lần cuối cùng gặp nhau tại Paris thấm thoát đã ba mươi năm. Nay thư từ trở lại Gs Nguyễn Văn Hoàn gửi tặng tôi bản dịch thơ Thần Khúc của Dante và tôi gửi tặng giáo sư Truyện thơ Odyssée và Sử thi Iliade của Homère tôi diễn ca ra thơ lục bát. Không hẹn mà cùng làm một công việc mạo hiểm đội đá vá trời như nhau. Tôi và anh đều mừng vì hiểu rằng dịch các tác phẩm thi ca vĩ đại của nhân loại như Homère, Dante, Shakespeare và Goethe, trăm người khởi hành chỉ có hai ba người là đến đích. Dịch các tác phẩm thi ca vĩ đại là  một cuộc phiêu lưu mạo hiểm kiên nhẩn, đam mê, trì chí từng bước từng bước một, ròng rã trong 10 năm, 20 năm, 30 năm. Không có một ngân sách quốc gia nào có thể bỏ ra để đầu tư cho một việc làm như thế. Hoàn toàn không có gì chắc chắn người dịch đạt đến mục đích cuối cùng. Khác với dịch văn xuôi, mỗi câu thơ là một dòng chữ cô đọng ngắn gọn, súc tích, nhiều điển tích, hình ảnh, và vần điệu. Chuyển thế nào để người đọc thấy cái đẹp trong từng câu thơ, nhất là thơ các bậc thi hào, thi bá, mỗi câu thơ như một viên ngọc bích hoàn hảo, tuyệt đẹp, không thể thay một chữ, hay đổi một câu. Người dịch nếu không lượng được sức mình, bỏ cuộc thì chỉ mất thời gian là chuyện bình thường. Đa số các bản dịch thi ca chỉ dịch ra ý, và bỏ mất đi phần thi ca, vần điệu, hình ảnh, âm nhạc… Tác phẩm dịch chỉ là cái xác không hồn. Và dịch xong tìm người đọc và phê bình cũng không dễ, vì tìm một người Việt đọc đủ trình độ, kiến thức để làm công việc này càng hiếm có.. Là người cùng làm công việc phiêu lưu mạo hiểm, tôi hiểu nhiều về anh và xin phép anh làm cái công việc ít ai dám làm là được đọc và giới thiệu công trình của anh, Thần Khúc Dante, tác phẩm  văn học vĩ đại nước Ý thời Trung Cổ và thử diễn ca thành ngôn ngữ Truyện Kiều, thơ lục bát vài Ca khúc.

Bộ Từ điển Từ Hải của Trung Quốc cho rằng Homère, Shakespeare, Dante và Goethe là Tứ đại thi thánh của văn học phương Tây. Tự điển Từ Hải quá tóm lược, vì Dante chỉ cho mình là học trò của Virgile, và Virgile chỉ cho mình là học trò của Homère. Homère được xem là Thủy Tổ của văn học phương Tây. Jean Auguste Dominique Ingres vẽ năm 1827, tác phẩm Vinh danh Homère hiện lưu trử tại Viện Bảo Tàng Louvre Paris. Homère được thần nữ thi ca trao vòng nguyệt quế, chung quanh có 28 thi hào, văn hào từ Socrate, Platon, Aristote  đến Virigile, Shakespeare, Dante, Molière.. Ngôn ngữ Pháp, được xem là ngôn ngữ  Molière, ngôn ngữ văn chương Âu Châu, nếu không biết tới Le roman de la rose (tiểu thuyết Hoa Hồng, 21677 câu thơ) của Guillaume de Lorris và Jean de Meung,  là những thiếu sót lớn.

Chúng ta biết gì về văn hóa Tây Phương ? Nếu không dịch những tác phẩm vĩ đại của nhân loại.  Người  Việt Nam chúng ta còn có những khoảng trống kiến thức rất lớn. Nếu muốn tham gia vào những cuộc chơi thế giới, có mặt Hội Homère học thế giới, Hội Dante học, hay đạt được giải Nobel Văn Học chẳng hạn. Khâu dịch thuật cần đi trước, đưa người Việt Nam tiếp cận với 28 văn hào lớn của lịch sử văn học Tây Phương. Nước Nhật đã làm công việc này từ thế kỷ qua, từ năm 1942 đã có một bản dịch thơ Homère hoàn chỉnh. Điều đáng mừng cho nước ta ngày nay đã có những nhà dịch thuật lưu tâm đến việc đặt nền tảng cho việc nâng cao dân trí người VIệt Nam ngang tầm với dân trí những nước phát triển trên với thế giới. Và có sự hợp tác trong và ngoài nước, giữa  trí thức Việt Kiều hải ngoại, và trí thức trong nước… Bàn chuyện dịch thuật các tác phẩm lớn của nhân loại, trong thời điểm, sách giá trị chỉ in ấn 500, 300 quyển cho một dân tộc  90 triệu người trong nước, và 4 triệu người Việt tại hải ngoại. So với các nước tiên tiến, 20 000 quyển cho một đầu sách trung bình, hệ thống hàng chục ngàn thư viện công cộng miễn phí, từ thành phố đến làng quê, mua một phần lớn sách xuất bản cũng đủ giải quyết vấn đề lời lỗ. Nước ta chưa có một hệ thống thư viện miễn phí, một phóng viên đi trong thành phố ba tuần lễ mới gặp được một người cầm sách đọc, một cuộc điều tra trên báo chí,  mỗi người Việt Nam đọc không đến một quyển sách một năm. Tình trạng thật bi quan, dân trí nước ta quá kém cõi, đi thua các nước Tây Phương hàng trăm năm, thua cả  Thái Lan, Nam Hàn ba chục năm. Các nhà văn ta ra đời,  có tài, có đủ khả năng như mọi nhà văn khác trên thế giới, nhưng không đủ sức, đủ kiến thức đi đường trường, chỉ đánh được ba búa, ra được ba tác phẩm, rồi hết vốn kiến thức, viết cứ lập đi lập lại, văn chương nhạt nhẻo dần, người đọc nhàm chán. So với thời kỳ khởi đầu văn học chữ quốc ngữ những năm 1930-1945, ngày nay ta không đi xa hơn, thậm chí còn thụt lùi. Cho đến nay chúng ta không có nhà văn nào ngang tầm với  thời tiền chiến 1930-1945   Nhất Linh, Khái Hưng, Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan.. chúng ta cũng không có được nhà thơ nào ngang tầm với Huy Cận, Xuân Diệu, Hàn Mạc Tử, Nguyễn Bính..  Nhưng tôi vẫn tin rằng đó chỉ là tình hình tạm bợ, rồi đây khi kinh tế đi lên, chúng ta sẽ tổ chức một hệ thống thư viện từ thành phố đến làng, thôn, khu phố, như các nước, sách miễn phí cho mọi người, trẻ em sẽ được dạy phương pháp  đi tìm sách vỡ, tài liệu từ mẫu giáo, tiểu học, khuyến khích cho trẻ em khát vọng tìm kiếm, bồi bổ kiến thức nhà trường, chỉ cần vài thế hệ với chính sách đúng đắn của Bộ Văn Hóa, Bộ Giáo Dục, việc nâng cao dân trí sẽ phát triễn nhanh chóng. Ước mơ như thế, nhưng tình hình không phải dễ dàng, trước sự bùng nổ phát triễn của thông tin, những trò chơi bằng hình ảnh trên máy điện toán, điện thoại di động, những phim ảnh tràn ngập thị trường, nếu phụ huynh không cẩn thận, như thuốc bổ dùng quá liều lượng, trở thành thuốc độc, những căn bệnh thời đại mới nảy sinh, trẻ em ngày một thụ động trước màn ảnh, mất dần đi sự tìm kiếm, sáng tạo, tưởng tượng, cầm đến cuốn sách là ngắm mắt ngủ  ?

GS Nguyễn Văn Hoàn nguyên Giáo sư Trường Đại Học Sư Phạm Hà Nội và nhà nghiên cứu kỳ cựu,  Viện Văn Học Việt Nam, đã hưu trí từ lâu, nay  đã thành lập Hội Kiều Học Việt Nam, do GS làm Hội Trưởng, nhằm mục đích nghiên cứu Truyện Kiều và thi hào Nguyễn Du và mời tôi tham gia. Truyện Kiều còn, nước ta còn, tiếng ta còn như lời cụ Phạm Quỳnh. Chúng ta bắt đầu bằng cái ta yêu trước tiên. Ta có yêu văn hóa của ta, thì ta mới trân trọng văn hóa các nền văn minh nhân loại. Để nghiên cứu thơ chữ Hán Nguyễn Du, tôi và GS Nguyễn Văn Hoàn cùng làm một chuyện giống nhau, là đi đi Trung Quốc  theo bước đường Nguyễn Du đi sứ Trung Quốc, nghiên cứu từng địa danh Trung Quốc trong thơ chữ Hán Nguyễn Du.

Nói đến Hy Lạp, người ta nói đến Homère, Virgile ngôn ngữ tiếng La Tinh, nói đến Đức là ngôn ngữ của Goethe, nói đến Anh là ngôn ngữ của Shakespeare, Pháp ngôn ngữ của Molière, Ý ngôn ngữ của Dante, Trung Quốc ngôn ngữ của Khuất Nguyên, Lý Bạch, Đỗ Phủ.. và Việt Nam ngôn ngữ của Nguyễn Du.. Trong xã hội hiện đại ngày chúng ta cần mở rộng để thu nhận những tinh hoa thế giới và phổ biến cho nhân loại những tinh hoa của đất nước ta. Trong bài viết này tôi giới hạn về Thần Khúc Dante do GS Nguyễn Văn Hoàn dịch và chú giải.

Dante được người đời gọi là người cha của tiếng Ý và của Văn Học Ý.  Thần Khúc là Kinh Thánh của thời Trung Cổ,  Dante là Homère của nước Ý.

Ưu điểm của GS Nguyễn Văn Hoàn là dịch Thần Khúc của Dante, sau hai năm học tiếng Ý, một công việc vừa học vừa làm rất có hiệu quả, không gì hay hơn, nhiều nhà văn thế hệ trước như ông Nguyễn Hiến Lê đã từng áp dụng việc này : chọn dịch một tác phẩm một đề tài mình say mê, qua đó mình kiên trì học hỏi và hoàn thành được tác phẩm.. Khi dịch Dante đã thăm quê hương của Dante, thăm ngôi nhà nơi Dante sinh ra tại Firenze (Florence theo tiếng Pháp) sự tiếp cận này rất quan trọng vì không đi thăm, không hít thở cái không gian nhà thơ đã sống, không thể dịch chính xác những điều nhà thơ đã viết ra. Người dịch mà không đi thăm quê hương người viết, không tìm hiểu bối cảnh, môi trường sống người viết, thì văn chương người dịch  giống như chuyện ngụ ngôn con cá tả cảnh đất liền theo lời con rùa. Nhiều người Pháp dịch thơ Homère trước khi đi Hy Lạp, khi được  đi Hy Lạp về phải viết lại  gần như toàn bộ. Tôi đã từng đi thăm Florence, thăm vùng Toscane quê hương của Dante, đọc bản dịch của Gs Nguyẽn Văn Hoàn tôi càng thấm thía, càng say mê hơn thi ca của Dante.

Để dịch Odyssée và Iliade, tôi đã đọc khá nhiều sách về Hy Lạp, xem nhiều phim tài liệu về hành trình Odyssée,  tôi đã đến tận nơi các di tích, thăm quê hương của Ulysse của Homère, đến thăm những ngọn núi lửa, nơi Homère nhân cách hóa thành những vị thần khổng lồ, thần một mắt  ném những tảng đá to bằng con bò, đắm vỡ thuyền và bắt người ăn thịt, thăm thạch động ở Malte, tương truyền là nơi Ulysse bị Calypso giam giữ, thăm bờ biển cát nơi Ulysse chiều chiều ra ngóng về quê hương, tôi đã đi thuyền tàu  ban đêm trên sóng nước biển Hy Lạp, nghe tiếng cá heo như tiếng những nàng nhân ngư, và từng ngủ lại đêm cắm trại trên bờ biển vắng Hy Lạp, để đón ánh bình minh, ngắm hoàng hôn rực đỏ trên bầu trời xanh vắt, trong những ngôi nhà sơn trắng , cửa xanh, giàn bông giấy rực đỏ..Dịch là tái sáng tạo , chuyễn ngữ từ một ngôn ngữ này ra ngôn ngữ khác, nếu không thấy không gian sinh sống người viết, bản dịch khó mà hoàn hảo.

Để dịch Dante, GS Nguyễn Văn Hoàn đã học tiếng Ý tại Ý, và trở về nước mang theo khá nhiều sách báo về Dante và văn học Ý và nhiều lần sang dự Hội nghị  Ý- Việt tại Ý. Cách làm việc của giáo sư trả lời các người bạn Ý là : «  Tôi luôn luôn có trước mặt ba bản dịch Thần khúc bằng tiếng Ý với lời chú giải rất tỉ mỉ. Tôi cũng luôn có ở trước mặt ba bản dịch Thần khúc sang tiếng Pháp. Tôi đọc đối chiếu từng câu giữa các bản, cố gắng nắm bắt cho được nguyên ý của Dante. Sau đó tìm cách diễn đạt sang ngôn ngữ dân tộc của chúng tôi  ». (Thần khúc, tr 17,18).

Tuy nhiên  « Thầy bói, bói ra ma, quét nhà thì ra rác » không ai tránh khỏi những khuyết điểm, có khi điểm sai nằm sờ sờ, mình đọc đi, đọc lại bao nhiêu lần mà không thấy, người đánh cờ ngoại cuộc nhìn vào sáng nước thấy liền : Ví dụ Khúc I, Thiên Đường : câu 19-21

« Xin (Áppônlo) hãy nạp vảo ngực tôi hơi thở

Như người đã có khi hạ Mácsia

Làm văng bao tay của hắn.”

Nguyên tác tiếng Ý

Entra nel petto mio, e spira tue

Sí come quando Marsïa traesti

De lavagina de le membra sue.

Bản dịch tiếng Pháp :

Entre dans ma poitrine, et souffle, toi,

Comme quand tu as tiré Marsyas

Hors de la gaine de ses membres.

Điển tích thần Apollon thách thần dương nhân Marsyas thi âm nhạc, Apollon đã thắng và lột da  thần dương nhân (thần nửa người  nửa dê). Dante đảo ngược câu, lột thần dương nhân ra khỏi da của hắn. Lột da là môt hình phạt man rợ thời Trung Cổ ở Tây Phương, sánh với hình phạt lăng trì, lóc từng miếng thịt, Kiều đã cho xử mụ Tú Bà theo lời thề thốt của mụ. Ai ai thấy cũng hồn kinh phách rời. Vua  Philippe le Bel tại Pháp đã từng xử hai kẻ ngoại tình với hai nàng dâu của vua bằng hình phạt lột da sống, lột từng miếng cho đến khi nạn nhân chết. Ngày nay với kỷ thật plas-tic áp vào da, một nhà giải phẩu Đức đã lột nguyên bộ da người nguyên vẹn nặng 2k500, cho thấy toàn bộ các bắp thịt người chết không da. Cuộc triễn lãm khoảng 50 xác người này bị cấm tại Pháp vì lý do đạo đức ngành Y khoa, nhưng được triễn lãm nhiều nơi trên thế giới, tôi đã xem cuộc triễn lãm này tại Portland, Oregon, Hoa Kỳ năm 2007. Nếu không thấy cuộc triễn lãm này một xác người plas-tic hóa chỉ thấy bắp thịt vác trên vai bộ da của mình, chắc tôi không tưởng tượng được chuyện Apollon lột da thần dương nhân Marsyas. Và tôi hiểu GS Nguyễn Văn Hoàn dịch thành : Apollon  hạ Mácsia làm văng bao tay của hắn.

Bản dịch GS Nguyễn Văn Hoàn có lẽ vì do quá tôn trọng sự chính xác từng chữ, nên tác phẩm chuyển ra Việt Ngữ mất đi chất thơ,  tiếc là GS Hoàn không là một nhà thơ, để chuyển một tác phẩm thơ ra thơ, để người đọc có thể cảm nhận từ thi ca Ý ra thi ca Việt Nam. Có lẽ tôi đòi hỏi hơi quá đáng . Thứ hai là chuyển tên từ tiếng Ý, ví dụ Virgilo ra tên phiên âm Viếcgilô, người đọc vẫn thấy còn xa lạ, tôi thiên về cách phiên âm của các cụ ta đầu thế kỷ 20 : Hán Việt hóa các tên ngoại quốc, đồng thời chú thích cho người đọc biết là ai.  Manon Lescot thành Mai Nương Lệ Cốt,   Ulysse tôi chuyển thành Uy Lĩnh. Virgilo tôi chuyển thành Việt Sinh. Dante thành Đăng Tử.

CUộC ĐỜI CỦA  DANTE

Dante sinh năm 1265 tại Firenze (Florence), miền trung nước Ý. Ở thời Dante trên bán đảo Ý, chưa có một quốc gia Ý thống nhất như ngày nay, trái lại có hàng chục tiểu vương quốc và công quốc thành phố tự trị. Phía bắc Firenze là công quốc Milano, phía Đông là Cộng Hòa Venezia quê hương của Marco Polo mà năm 1271, ông du hành sang tận Trung Quốc, Chiêm Thành và lưu lại Bắc Kinh trong 17 năm. Phía Tây Milano là nước cộng hòa Genova quê hương của Cristoforo Colombo năm 1492 đã phát hiện ra Tân Thế giới châu Mỹ. Phía Nam là Vatican của Giáo Hoàng, Vương quốc Napoli, Vương Quốc Sicilia.. Dù có nhiều  vương quốc, công quốc khác nhau nhưng bán đảo Ý vẫn là khu vực phát triễn tiên tiến nhất thời Trung Cổ, nó thừa hưởng di sản nền văn minh La Tinh và Hy Lạp thời cổ đại.

Dante sớm mồ côi cha mẹ, một người hảo tâm dã dạy Dante tiếng La tinh và truyền cho Dante niềm say mê văn chương, nhất là văn chương phúng dụ, thơ ngụ ngôn lúc bấy giờ đang nở rộ ở Pháp. Thông qua tiếng La Tinh, Dante say mê thơ ca cổ đại và tôn sùng Virgilo :

« Người là Thầy, là Tác giả của tôi, chính nơi Người mà tôi đã học. Phong cách thanh tao làm vinh dự thơ tôi. »( ĐN I)

Dante cũng học tiếng Pháp, tiếng Provençal, đi sâu vào nghiên cứu thần học, triết học, thiên văn học và trở thành một người có kiến thức bách khoa uyên bác nhất thời đại ông. Cuộc đời thanh niên của Dante là ba niềm say mê: yêu đương, sáng tác thơ và hoạt động chính trị.

Dante đi vào tình yêu và thi ca rất sớm. Mối tình đầu buổi thiếu thời Dante đã sáng tác và gom lại thành tập thơ: Cuộc đời mới (La Vita nova), đó là tập thơ tình đầu tiên của một chàng trai vừa biết yêu.

Dante cũng từng tham gia hoạt động chính trị rất sớm. Quê hương Firenze ( Florence) của ông có hai phái đối địch: Phái Ghibellini muốn tìm sự ủng hộ của Hoàng đế nước Đức để thống nhất đất nước, trong khi phái Guelfi lại đặt niềm tin nơi Giáo Hoàng. Từ năm 1289 phái Guelfi hoàn toàn thắng thế nhưng rồi phái này lại chia thành hai phe: phe Đen và phe Trắng. Phe Đen muốn liên minh với Giáo Hoàng, còn phe Trắng hướng về Hoàng đế Đức. Mâu thuẩn vẫn còn nguyên, và cuộc đấu tranh lại tiếp diễn ác liệt.

Dante đứng về phái Guelfi và từng hai lần đại diện phái mình đi thương thuyết. Năm 1300 ông được bầu vào Hội đồng Thị chính Firenze. Sau sự chia rẽ của phái Guelfi, ông lại đứng về phe Trắng, kiên quyết chống lại đường lối dựa vào Giáo Hoàng. Giáo Hoàng cầu viện Pháp, Charles de Valois. Năm 1301 quân Pháp tiến vào Frirenze, phe Đen lưu vong trở về, tổ chức đàn áp phục thù. Dante bị vu khống. Hai lần bị xét xử. Lần thứ hai bị kết án thiêu sống trên giàn hỏa, khiến ông phải rời bỏ quê hương, bắt đầu cuộc sống lưu vong, mai danh ẩn tích, nay đây mai đó. Niềm hy vọng trở về quê hương lần cuối cũng tan biến dần vì hai lần tên ông bị xóa khỏi danh sách ân xá.

Dante mất năm 1321 tại Ravenna, một thành phố nằm bờ biển đông bắc Firenze. Năm 1519 Viện Hàn Lâm Firenze kiến nghị với Giáo Hoàng tha thiết xin chuyển phần mộ nhà thơ về quê hương, nhưng Ravenna kiên quyết chối từ.  Cuối cùng Firenze tự bằng lòng với việc xây ngôi mộ giả của Dante bên cạnh các mộ thật các danh nhân  Michel Angelo (1475-1564), Galileo Galiei (1564-1642).. trong nhà thờ Santa Croce, một điện Panthéon của Ý ở trung tâm thành phố Firenze.

Ở Việt Nam tên tác phẩm của Dante từng được dịch dựa vào tên tiếng Pháp La Divine Comédìe nên dịch thành Hài Kịch Thần Thánh, hay Tấn hài kịch tuyệt diệu. Nhưng tác phẩm nguyên thủy của Dante bản cổ nhất chép sau ngày mất nhà thơ 15 năm chỉ ghi chú bằng tiếng Ý: Commedia hay bằng tiếng La Tinh Comoedia. Thuật ngữ này không có nghĩa là một thể loại văn học gây cười , hài kịch đối với bi kịch theo thuật ngữ ngày nay mà là ở vị trí trung gian giữa phong cách cao sang và phong cách bình dân. Thuật ngữ này cũng là tên gọi loại văn ”mở đầu nặng nể “  và “kết thúc có hậu “. Có thể dịch tiếng Việt là Những khúc ca thần diệu, dịch ngắn gọn là Thần Khúc.  Các bản dịch Trung Quốc đã dùng là Thần Khúc.

Năm 1979, qua tư lìệu tiếng Pháp do GS Nguyễn Văn Hoàn cung cấp, Giáo sư Lê Trí Viễn và nhà thơ Khương Hữu Dụng đã tuyển dịch 30 ca khúc trong 100 ca khúc Thần Khúc. Nhà xuất bản Văn Học Hà Nội. dựa theo bản tiếng Pháp La Divine Comédie do Henri Longnon dịch, nhà xuất bản Garnier Frères. Paris 1962. Phần dịch này được Gs Nguyễn Văn Hoàn dùng lại và bổ túc, hiệu đính  và dịch toàn bộ 100 ca khúc của Thần Khúc.

TÓM LƯỢC THẦN KHÚC

Thần Khúc  kể lại cuộc du hành kỳ lạ của Dante sang thế giới bên kia – thế giới của người đã chết. Nhà thơ Virgilie được Béatrice, người yêu thiếu thời của Dante phái tới làm người hướng dẫn Dante đi tham quan Địa ngục và một phần Tĩnh thổ. Đến đây Virgilio vì chưa chịu phép rửa tội đạo Thiên Chúa nên không được phép đi tiếp, Béatrice xuất hiện và hướng dẫn Dante đi xem Thiên đường.

Trước Dante, Homère đã tả cảnh Ulysse xuống Địa ngục nhờ tiên tri Tirésias chỉ dẫn gặp mẹ, và gặp tất cả các nhân vật lịch sử, các giai nhân danh tiếng. Nhưng cảnh thiên đường của Homère mà Ulysse trải qua thật đặc biệt.  Bảy năm sống trong Thiên đường của tiên nữ Calypso, Ulysse  được tiên nữ cứu sống chết đuối trên biển  và  cầu khẩn làm chồng, được hầu hạ cung phụng đủ điều, ăn ngon, mặc đẹp. Được  tình yêu một nàng tiên tóc vàng đẹp tuyệt trần,  và còn được Calypso hứa cho tuổi thanh xuân bất tử.  Ulysse từ một anh hùng đầy mưu kế, đầy chiến công anh dũng thành Troie  bỗng trở nên, một món đồ chơi trong tay tiên nữ Calypso, chỉ sống hưởng thụ và thỏa mãn thân xác cho tiên nữ,  Ulysse trở nên lại buồn chán trong thiên đường Calypso, chiều chiều ra bờ biển ngồi khóc, ngóng về quê hương nhớ vợ, nhớ con. Khi được Thiên đình Zeus và Thần nữ Athéné và các thần hội họp buộc Calypso phải trả người tình tù. Ulysse hăm hở đóng bè về quê hương, dù phải vượt qua bao sóng gió biển cả, dù cho Calypso có khuyên  răn, ngăn cản và cho biết những khó khăn. Trở về quê hương lại phải chiến đấu với hàng trăm kẻ cầu hôn, đang chực chiếm ngôi, dành người vợ Pénélope, trêu chọc, ngược đãi con trai Télémaque. Cuối cùng Ulysse đã chiến thắng giết trăm kẻ cầu hôn, thần Hermès dẫn hồn bọn cầu hôn xuống địa ngục, gặp hai viên Phán Quan mới là Vua Agamemnon và Phán Quan cũ là  Achille. Linh hồn bọn cầu hôn kiện Ulysse, nhưng  Phán Quan xử phần thắng về Ulysse và ca ngợi Pénélope trung trinh. Ở trần gian, thân nhân bọn cầu hôn nổi loạn nhưng thần nữ Athéné can thiệp,  Ulysse lại sống hoà bình với toàn dân Ithaque bên người vợ trung trinh Pénélope và con trai Télémaque..

Ulysse đã từ chối cuộc sống bất tử tuổi thanh xuân nơi thiên đường Calypso, để chọn lựa cuộc sống ngắn ngủi  trên trần gian đầy khó khăn nguy hiểm.

Trong tác phẩm  Enéide của Virgilio(Virgile) cũng có đề cập đến thiên đường, địa ngục. Trong văn học cổ Việt Nam cũng có chuyện Phạm Công Cúc Hoa, Phạm Tải – Ngọc Hoa, Dương Từ – Hà Mậu.. đề cập đến. Nguyễn Du cũng viết Chiêu Hồn Thập Loại Chúng Sinh, rồi đây chúng ta sẽ nghiên cứu kỹ hơn trong so sánh giữa Thần Khúc của Dante và Chiêu Hồn Thập Loại Chúng Sinh.  Nhưng tưởng tượng của Dante thiết kế cảnh Thiên đường, Địa ngục thật rộng lớn đa dạng và sinh động. Dante trở thành một phán quan, một Diêm Vương cho các nhân vật đối lập của mình xuống địa ngục, kể cả Đức Giáo Hoàng và cho những người mình liên kết chính trị, mình kính mến lên Thiên Đường.

Tác phẩm của Dante gồm 100 ca khúc: gồm Địa ngục, Tĩnh thổ, Thiên đường, mỗi phần gồm 33 ca khúc, cộng thêm một ca khúc mở đầu. Toàn tác phẩm theo thể thơ Terzina, cứ mỗi khổ thơ 3 cấu được móc nối với nhau bằng hệ thống vần ABA, BCA,CDC, DED.. Vai trò quan trọng con số 3 trong Thần Khúc, từ con số 3, có bội số là 9. Trong Cuộc đời mới Dante gặp người yêu Béatrice lần đầu hai người đều lên 9, gặp lần thứ hai 9 năm sau, đúng 9 giờ sáng, lúc cả hai tròn đôi 9. Trong Thần Khúc Dante cho Béatrice xuất hiện lại ở khúc 30 phần Tĩnh thổ, lại là khúc 63 toàn tác phẩm.. Tóm lại Dante đã xử dụng tiểu xảo số 3 để sắp xếp quan niệm giáo lý ba ngôi của đạo Thiên Chúa, một con số hoàn thiện, hoàn mỹ.

Thần Khúc có nhiều ý nghĩa tượng trưng: Khu rừng rậm tượng trưng cho cuộc đường đời đầy bất trắc: ba con thú là ba thói hư tật xấu con người: Dâm đãng, Kiêu căng và Gian lận. Béatrce, người yêu của Dante thời thơ ấu tượng trưng cho sự sáng suốt của thượng giới, có thể chi phối sự sáng suốt của hạ giới. Virgilio, nhà thơ La Mã, Dante kính phục là bậc thầy của thi ca mình, tượng trưng cho sự sáng suốt của trần thế của triết học, khoa học… Những hình phạt Địa ngục đều mang những biểu tượng: những tên bạo chúa lội bì bõm trong biển máu sôi sùng sục, những tên cho vay  nặng phải mang ở cổ những túi tiền nặng trĩu, những kẻ đam mê sắc dục bị cuốn quay cuồng trong gió lốc, những tiên tri khoắc lác là biết mọi chuyện tương lai thì đầu bị bẻ ngoặt về phía sau..

Trong Thần Khúc có những trang xúc động kể lại mối tình say đắm giữa nàng Francesca da Rimini và ngưòi em chồng Paolo, hoặc cảnh Bá tước Ugolomo bị giam trong tháp tù tận mắt chứng kiuến những đứa con mình lần lượt chết đói. Hoặc cảnh bi hùng của đoàn Ulysse trong chuyến đi biển cuối cùng.

Thần Khúc còn là bức tranh hiện thực của xã hội Ý thời Dante. Vị quan toà Dante mở phiên toà xét xử các tội nhân chỉ vì mục đích, muốn uốn nắn, cải hóa con người, nhằm hoàn thiện thiên đường nơi trần thế. Các tội nhân bị xét xử không phải vì tội tổ tông vu vơ nào mà chính vì tội ác do chính mình gây ra, bị dân chúng và lịch sử lên án.

Dante viết:

Tôi thấy từng lũ âm hồn trần truồng,

Tất cả đều khóc lóc cực thảm thương,

Và hình như hình phạt khác nhau.

Có những người nằm dài  trên mặt đất,

Những kẻ khác thì ngồi thu mình lại,

Một số khác cứ phải đi lại liên hồi.

(Khúc XIV. Địa Ngục)

Ta không khỏi liên tưởng đến cảnh Nguyễn Du tả trong Chiêu Hồn Thập Loại Chúng Sinh; Cảnh lang thang cực khổ các cô hồn:

Mấy thu chịu nhiều bề thảm thiết.

Dạ héo khô gió rét căm căm,

Dãi dầu biết mấy trăm năm,

Khóc than dưới đất ăn nằm trong sương.

Nghe gà gáy tìm đường lánh ẩn,

Tắt mặt trời lẩn thẩn tìm ra.

Lôi thôi ẳm trẻ dắt già,

Có khôn thiêng hỡi lại mà chứng minh.(câu 149 -156)

Ta thử đọc cảnh âm hồn bọn cầu hôn trong Odyssée của Homère được thần Hermes dẫn về cõi âm, bản dịch thơ lục bát của Nhất Uyên.

Nói về đường xuống cõi âm

Sứ thần Mai Hạc dẫn hồn cầu hôn.

Phép mầu thần cõi Chi Liên.

Đũa vàng huyền diệu ru hồn cầm tay,

Khép mi, thoát dẫn hồn đi,

Lìa thân về cõi âm ty nghìn trùng.

Đũa thần dẫn lũ âm hồn,

Đêm sương tăm tối lạnh lùng tiếng chim,

Từ muôn lỗ tối hang đen,

Cánh dơi thấp thoáng bóng đêm chập chàng.

Hồn theo dơi lạnh non ngàn,

Gieo chùm đá biếc, kêu than đường dài,.

Thoáng sao băng vượt trời mây,

Qua truông rừng thẳm, vượt bay sóng ngàn.

Vượt qua sóng cả Đại Dương,

Vượt đá Liêu Cát, Cửa Thần Thái Ô,

Vượt qua Suối Mộng thuyền đò,

Đến đồng lan dại, trắng bờ lau thưa.

Nơi đây tạm nghỉ hồn vừa,

Mới lìa trần thế đợi chờ Phán Quan.

Khúc XXV Nơi Địa Ngục – Hoà Bình. Câu 11547 câu 11566.

Khác với Homère : Truyện Thơ Odyssée có ba cõi, cõi thần, cõi người, cõi địa ngục, nhân vật Ulysse đi từ cõi thần tiên, vào cõi địa ngục rồi lại trở về cõi người, giữa ba cõi giao lưu như  ngôi nhà ba tầng tâm thức con người. Dante lấy cảm hứng từ thơ Homère đưa mình đi từ cõi địa ngục, lên cõi tĩnh thổ rồi lên cõi Thiên Đàng ở trên các  vì sao. Dante tự mình làm Phán Quan, cho các nhân vật chính trị đối lập mình xuống địa ngục, và bạn đồng minh của mình lên Thiên đàng.  Nguyễn Du viết Truyện Kiều chỉ viết về cõi con người, phần liên hệ với người chết Nguyễn Du cho rằng:  Chẳng qua đồng cốt quàn xiêngNgười đâu mà lại thầy trên cõi đời.  Dù cho người lên đồng nói có đúng sự thật không tìm thấy Kiều dưới địa ngục. Nguyễn Du dành phần viết về cõi âm cho một bài văn tế riêng: Văn tế Thập Loại Chúng Sinh. Một bài Văn tế :  kính nhi viễn chi. Quỷ thần nên kính và đứng tránh xa. Nguyễn Du tả mười loại âm hồn: Vua chúa bị giết, Quý nữ liều thân, Tể thần thất thế, Đại tướng bại trận, Ham giàu chết đường, Ham danh chết quán, Buôn bán chết xa, Binh lính chết trận,, Kỷ nữ cô đơn, Chết bởi nghèo nàn tai họa. Đó là những người , thân thuộc, bạn bè, anh em.. Nguyễn Du gặp trên cõi đời, chết không ai cúng kiến, hồn  lang thang vất vưỡng, phải cầu Phật độ để linh hồn được siêu thoát trong vòng luân hồi. Nguyễn Du không viết một bài văn tế nào cho chúa Trịnh Tông, cho vua Lê Chiêu Thống, cho vua Cảnh Thịnh, cho tướng Hoàng Đình Bảo, Nguyễn Hữu Chỉnh, cho Đặng Thị Huệ, cho  anh Nguyễn Khản, anh Nguyễn Điều, anh Nguyễn Nể, cho các con chết yểu từ Nguyễn Nhất đến Nguyễn Tứ, cho vợ Đoàn Nguyễn thị Huệ, cho từng giai nhân Nguyễn Du gặp trên đường đời.. nhưng Nguyễn Du viết một bài văn tế chung cho tất cả mọi người.  Nguyễn Du không tả cảnh địa ngục dù truyện kể, truyền thống nhân gian Việt Nam cũng có chuyện bỏ đồng tiền vào miệng người chết để đi đò vào cõi Địa Ngục như Hy Lạp, ăn cháu lú để quên kiếp trần gian đầu thai kiếp khác. Có Ngưu đầu, Mã diện dẫn vào chầu Diêm Vương, người bị xử tội bỏ vào vạc dầu, hay thú dữ cắn xé.. rồi bị lột da, đắp vào da mới cho đi đầu thai.. Tại chùa Ngọc Hoàng, Sài Gon, năm 2011 tôi có dịp được xem cảnh địa ngục được chạm khắc với nhiều chi tiết thú vị.

Cũng như Homère, Dante coi trọng hạnh phúc trần thế, thừa nhận kiếp nhân sinh hiện hữu trước mắt và hầu như không hề ảo tưởng về thế giới mai sau.

Dante cũng không dấu diếm thái độ chính trị khi ném các đối thủ phái Ghibellini và các vị Giáo Hoàng, kể cả Giáo Hoàng Bonifazio đang trị vì xuống tầng Địa ngục sâu nhất (Khúc XIX), trong lúc đó ông lại dành cho đồng minh chính trị mình Hoàng đế Đức Arrigo VII, người mà ông đặt hy vọng vào việc hỗ trợ thống nhất nước Ý, một chỗ vinh dự trên Thiên đường.

Nhà nghiên cứu văn học Francesco de Sanctis (1817-1883)trong Storia della Letteratura Italiana (Lịch sử văn học Italia) Nxb Feltrinelli, Milanno, 1964 tập I tr 169  đã viết : « Thần Khúc là thời Trung Cổ được biểu hiện trong nghệ thuật. Những điều trông thấy và phúng dụ, văn chính luận và truyền thuyết, sử biên niên, truyện kể, tụng thi, thánh ca, chủ nghĩa thần bí và kinh viện học, tất cả những hình thái văn chương và toàn bộ văn hóa của thời đại, đã được biểu hiện và tái sinh ở đây, trong cái bí ẩn vĩ đại của một tâm hồn và của cả nhân loại, một tác phẩm tầm cở thế giới, ở đó phản chiếu mọi dân tộc, mọi thế kỷ, được gọi là thời Trung Cổ.”

Tác phẩm Thần Khúc của Dante được tôn sùng là Kinh Thánh của thời Trung Cổ, Dante là Homère của nước Ý. Dante được xem là người cha của tiếng Ý và của Văn học Ý.

QUYỂN I :  ĐỊA NGỤC

Dante thấy mình lạc trong rừng tối. Ba con dã thú chặn đường. Virgilo xuất hiện, dẫn Dante du hành sang thế giới bên kia.(Khúc I)  Dante e ngại trước cuộc du hành. Virgilo khuyến khích Dante bằng cách tiết lộ sự ủy thác của Béatrice. Dante được trấn tỉnh.(Khúc II)

Cửa vào Địa ngục. Nhóm tội đồ thứ nhất: Bọn bạc nhược. Dòng sông Akéronté và lão lái đò Caron.(Khúc III)

Tầng thứ nhất của Địa ngục: Minh phủ dành riêng cho các vĩ nhân chưa qua phép rửa tội: Homère, Horace, Ovide, Lucano. Virgilo được tôn vinh là người thứ  năm và Dante là người thứ sáu.(Khúc IV)

Tầng Địa ngục thứ hai. Những người dâm đãng. Mối tình bi thảm của Francesca da Rimini.(Khúc V)

Tầng Địa ngục thứ ba : Siasco, âm hồn quê ở Frirenze, tiên đoán về diễn tiến tương lai của thành phố mình.(Khúc VI)

Tầng Địa ngục thứ tư . Quái vật Pluto. Những kẻ hà tiện, những kẻ hoang phí, những kẻ cuồng nộ.(Khúc VII).

Tầng Địa ngục thứ năm :  Filippo Argenti, một người Frirenze giàu có thuộc phái Đen, bị trừng phạt. Bọn quỷ sứ ngăn không cho Virgilo và Dante vào thành Dite(Khúc VIII)

Tầng Địa ngục thứ sáu. Nhờ sự can thiệp của Thiên đình. Virgilo và Dante được vào thành Dite, nơi giam những người dị giáo.(Khúc IX). Dante gặp kẻ thù chính trị của phe mình Farinnata, thủ lĩnh của phe Ghibellini và gặp người bạn cũ thân thiết Guido.(Khúc X).

Tầng địa ngục thứ bảy. Trật tự giam giữ dưới Địa ngục. Ngục thứ nhất:  Tội bạo hành và tội gian lận.(Khúc I ). Con quái vật Minotauro(Đầu bò tót, thân người). Dòng sông máu và những kẻ bạo hành.  Thần nhân mã Nesxo dẫn đường cho Virgilo và Dante.(Khúc XI I).  . Ngục thứ hai. Những người tự sát biến thành cây. Số phận Frirenze.(Khúc XIII I. Ngục thứ ba. Sa mạc cát dưới trận mưa lửa. Dòng sông máu. Nguồn gốc các sông dưới đí ngục (Khúc XIV) Dante gặp lại và trò chuyện với thầy học Brunetto Latini (Khúc XV). Dante trò chuyện với ba âm hồn Frirenze (Khúc XVI). Dante đến xem bọn cho vay nặng lãi. Virgilo và Dante cưỡi trên lưng quái vật Gìrong để đi xuống vực sâu (Khúc XVII)

Tầng địa ngục thứ tám : Địa ngục thứ nhất. Những kẻ quyến rũ, những tên ma cô đi thành hai toán. Ngục thứ hai : Bọn xu nịnh ngập trong hố phân (Khúc XVIII).Ngục thứ ba: Nơi Giáo Hoàng Nicolas III và bọn buôn thần bán thánh bị hành tội. (Khúc XIX) Ngục thứ tư. Những thầy bói tiên tri. Virgilo nói về nguồn gốc thành phố Mantova.(Khúc XX) Ngục thứ năm : Bọn tội đồ với thùng nhựa sôi. Virgilo thương lượng với con quỷ có đuôi. Dante và Virgilo được quỷ sứ hộ tống.(Khúc XXI)  Ngục thứ năm : Bọn ăn hối lộ và bọn cố ý làm sai chức trách. Lũ quỷ sứ tức giận vì bị đánh lừa. (Khúc XXII) Ngục thứ sáu: Bọn đạo đức giả mặc áo chì nặng chĩu (Khúc XXIII).. Ngục thứ bảy. Bọn ăn trộm đồ thờ Chúa bị rắn cắn, cháy thành tro, rồi lấy lại hình người. Vanni Fucci bộc lộ tội trạng của mình (Khúc XXIV). Những sự hổn xược của Vanni Fucci, Cacao Sự biến hóa khủng kiếp của hai tên kẻ cắp. (Khúc XXV). Ngục  thứ tám : Những âm hồn bị bọc trong lửa. Ulysse kể lại chuyến đi biển cuối cùng.(Khúc XXVI) Bọn cố vấn gian giáo. Guy Montefrentero và vai trò của Bonifascio VIII (Khúc XXVII). Ngục thứ chín: Bọn chia rẽ và bọn ly gián tôn giáo. Cuộc gặp gỡ  Maometto (Mahomet) và Bertram del Bornio.(Khúc XXVIII) Ngục thứ mười. Bọn làm giả kim, bọn dối trá (Khúc XXIX) Ngục thứ mười: Những kẻ gian dối giả mạo: Gianni Schicchi, Mirra, Adam  Thợ cả đúc tiền giả.(Khúc XXX).

Tầng Địa Ngục thứ chín. Những kẻ khổng lồ quanh hố ngục. Khổng lồ Antéo đặt Virgilo và Dante xuống đáy ngục sâu (Khúc XXXI). Vùng ngục  thứ nhất (Caina) Những bá tước ở Mangova. Vùng ngục thứ hai : Bocca Abbatti Ganéloné. (Khúc XXXII). Vùng ngục thứ ba: Bá tước Ugolono kể về cái chết của ông và con cháu. Dante nhục mạ Pida va Genova.(Khúc XXXIII) Ngục thứ tư Lucifero và ba tên tội phạm lớn nhất của Giáo Hội: Giuda, Bruto, Cassio . Hai nhà thơ trở về trần thế.

QUYỂN II.  TĨNH THỔ

Dante ra khỏi địa ngục và ngắm các vì sao. Bãi biển của Tĩnh Thổ. Catoné, thiên thần của Tĩnh Thổ xuất hiện. Virgilo  trò chuyện với  Catoné (Khúc I). Các thiên thần chỡ thuyền xuất hiện. Dante gặp lại bạn cũ nhạc sĩ Caselle và trò chuyện thân mật (Khúc II) Gặp gỡ một đoàn âm hồn, Trò chuyện với linh hồn vua Manfredi.(Khúc III). Tiền Tĩnh Thổ.

Tầng thứ nhất của ngọn núi, Mặt trời ở bán cầu Nam. Dante gặp người quen Belacqua. (Khúc IV). Tầng thứ hai của ngọn núi. Gặp gỡ và trò chuyện với những âm hồn bị chết vì bạo lực: Iacopo del Cassero, Bonconte da Montefeltro và Pia. (Khúc V).

Tầng núi thứ hai. Bàn về hiệu quả lời cầu nguyện, Virgilo gặp Sordello, chỉ trích nước Ý, Đế chế, Giáo Hoàng và Frirenze. (Khúc VI) Sordello dẫn hai nhà thơ đến một thung lũng nhỏ xinh đẹp và chỉ cho thấy một số âm hồn khác.(Khúc VII). Trong thung lũng cầu kinh buổi chiều, có con rắn và hai thiên thần bảo vệ thung lũng, Dante trò chuyện với Nino Viscoti và Currado Malaspina.(Khúc VIII). Dante ngủ và mơ. Tỉnh giấc ở gần Tĩnh Thổ. Thiên thần gác cổng mở cửa (Khúc IX) Những tranh tượng khắc trên vách đá: Maria, David, Traiano chỉ trích tật kiêu căng của con người.(Khúc X) Đoàn âm hồn vừa đi vừa cầu nguyện. Những kẻ kiêu ngạo: Omberto Aldobrandeschi, Odersrisi da Gubbio và Provenzanoo Savani. (Khúc XI) Tranh khắc về những kẻ kiêu ngạo. Thiên thần của đức tính khiêm nhường. Đi lên tầng thứ hai (Khúc XII)  Quang cảnh tầng núi thứ hai. Virgilo ca ngợi mặt trời. Lời nói các thiên thần bay trên không trung. Chuyện kể của Sapia, một âm hồn  ở Siena. (Khúc XIII). Những kẻ đố kỵ Guydo del Duca và Riniéri da Canboli. Sự suy thoái của thung lũng Arno và Romanha. Những trường hợp đố kỵ bị trừng phạt. Những tiếng nói huyền bí trên không trung. (Khúc XIV). Rời tầng núi thứ hai lên tầng thứ ba. Thiên thần khoan dung xuất hiện Virgilo giảng giải một câu khó hiểu của Guydo del Duca và sự phân chia của cải ở thế gian và trên trời.

Tầng núi thứ ba. Những kẻ giận dữ. Những tấm gương về sự khoan dung.(Khúc XV) Trong làn khói đen: Gặp Marco Lambardo. Nghi hoặc của Dante và Marco giảng giải về tự do ý chí. Những nguyên nhân của sự biến chất.(Khúc XVI) Tầng núi thứ ba lên tầng thứ tư: Những dẫn chứng cuối cùng về sự giận giữ tội lỗi. Virgilo trình bày lý thuyết về tình yêu, được xem là nguồn gốc mọi đức hạnh và tội lỗi.(Khúc XVII)

Tầng núi thứ tư: Những kẻ lười biếng, Virgilo nói tiếp về tình yêu, tự do ý chí và trách nhiệm của con người. Câu chuyện của Tu viện trưởng Thánh Déno.(Khúc XVIII). Giấc mơ tượng trưng của Dante và sự giải thích của Virgilo.

Tầng núi thứ năm: Những kẻ biển lận và những kẻ hoang phí. Dante nói chuyện với Giáo Hoàng Adreriano V.(Khúc XIX) Những kẻ biển lận bị trừng phạt :  Hugue Capet và dòng họ vua Pháp. Động đất, bài thánh ca Vinh quang thay Chúa Trời.(Khúc XX) Linh hồn Stazio giải thích về sự rung chuyển của trái đất. và sự giải thoát các linh hồn trong sạch. Virgilo và Stazio nhận ra nhau.(Khúc XXI) Tầng thứ năm lên tầng thứ sáu. Câu chuyện cuộc đời của Stazio. Các nhà thơ cổ đại.

Tầng núi thứ sáu: cây cám dỗ những kẻ tham ăn.(Khúc XXII). Những kẻ tham ăn. Dante gặp bạn cũ Forese. Sự suy thoái đạo đức các phu nhân thành Frirenze.(XXIII) Bonagiunta ở Lucca Văn phong mới dịu dàng thi phái của Dante.. Câu chuyện Forese  và cái chết của Corso Donati. Cây cám dỗ thứ hai.(khúc XXIV). Tầng thứ sáu lên tầng thứ bảy Bàn về sự hình thành thân xác và linh hồn có lý trí của con người. Sự hoạt động của linh hồn sau khi chết.

Tầng núi  thứ bảy: Những kẻ dâm đãng và phạm tội về xác thịt. (Khúc XXV). Những người vi phạm quy luật tự nhiên. Nhà thơ Guydo Guinidenli. Nhà thơ Arno Danien. (Khúc XXVI). Thiên thần của sự trong trắng. Dante trước bức tường lửa. Thiên thần của thiên đường trên mặt đất. Giấc mơ của Dante: Lia và Raken. Ở ngưỡng cửa thiên đường Virgilo nói lời từ biệt Dante.(Khúc XXVII). Nữ thiên thần Matenda giảng giải cho Dante về sông Lété và mọi hiện tượng và bản chất khác thường của Thiên đường mặt đất. (Khúc XXVIII) Dante và Matenda đi dọc sông Lété. Đám rước thần bí : 7 cây đèn nến, 24 ông già, 4 con vật có cánh. Cổ xe do sư tử, chim ưng kéo. Bảy ông già cuối cùng (Khúc XXIX). Béatrice xuất hiện. Virgilo biến mất. Những lời trách móc của Bétrice. Lòng trắc ẩn của các thiên thần  (Khúc XXX). Béatrice tiếp tục trách móc. Dante thú tội. Mantenda đem nhúng chàng vào dòng sông Lété và chàng được dẫn đến trình diện Béatrice.(Khúc XXXI). Đám rước tiếp tục, giấc ngủ của Dante. Sứ mệnh của Dante với những người sống. Những hiện tượng tượng trưng : Con đại bàng, con cáo, con rồng. Biến đổi của cổ xe. Cô gái điếm và anh khổng lồ.(Khúc XXXII). Những lời báo trước của Béatrice. Matenda dẫn Dante đi uống nước sông  Ennoé. Dante sẳn sàng đi lên các vì sao.

QUYỂN III. THIÊN ĐƯỜNG

Dante lên Thiên Đướng., Dante say mê và thán phục. Béatrice giải thích cho Dante vê trật tự và sự chuyển vần của vũ trụ. (Khúc I).

Vùng trời thứ nhất: Vùng trời của Mặt Trăng. Lời báo trước với độc giả. Dante đi vào diệu kỳ trong thiên thể đó. Những vết đen trên mặt trăng. Sự lầm lẫn của Dante và giải thích của Béatrice (Khúc II). Những linh hồn không hoàn thành lời nguyện của mình. Picarda Donati. Hoàng Hậu Costanza vĩ đại.(Khúc III). Béatrice giải đáp những thắc mắc của Dante. Đâu là ngôi vị của những người chân phúc ? Công lý thần thánh được thực thi như thế nào ? Béatrice khẳng định những sai lầm của Platon : sau khi người chết linh hồn sẽ trở về các ngôi sao, mối quan hệ giữa bạo lực và ý chí .(Khúc IV) . Thực chất giá trị của một lời nguyền, Điều kiện và giới hạn  trong việc đổi một lời nguyền.            Vùng trời thứ hai : vùng trời của sao Thủy. Những người chân phúc đón mừng Dante. (Khúc V).Linh hồn của Hoàng Đế Giustiniano I kể cho Dante những chiến công của con Đại bàng La Mã, từ Énée dến Carlos Manho. Những sai lầm của Guenfi và Ghibenlini chống lại đế quốc. Ca ngợi Roméo di Villannova.(Khúc VI)  Béatrice giải đáp những nghi hoặc mới của Dante, sự trả thù về cái chết của Kito, sự hóa thân của chúa, sự biến chất của các yếu tố và sự hồi sinh của thể xác con người. (Khúc VII).

Vùng trời thứ ba ; Vùng trởi của Sao Kim. Linh hồn Carlos Maxtendo. Vua Hungarie trò chuyện với Dante. Ông ta nhận xét về dòng họ mình. Và lý giải vì sao mà con cháu lại có tính cách khác vời ông cha mình.(Khúc VIII ) Những lời tiết lộ của Carlos Martello và Cunizza da Romano. Nhà thơ tình yêu Fonco di Macsighia. Vinh dự của Raab. Lời lên án Giáo Hoàng.(Khúc IX)

Vùng trời thứ tư : vùng của Mặt trời. Các thiên thần họp thành vòng nhảy quanh Dante và Béatrice. Thánh Thomas d’ Aquino giới thiệu với Dante từng thiên thần có mặt. (Khúc X). Thánh Thomas  đoán biết những băn khoăn của Dante liền giải thích. Thánh Thomas ca ngợi Thánh Francoise D’Assisi và chê trách sự thoái hóa của các tu sĩ dòng Dominique.(Khúc XI) Thánh Bonaventura ca ngợi thánh Dominico và chê trách sự sa sút của các tu sĩ dòng Franciscain. Thánh Bonaventura giới thiệu 11 người bạn mình với Dante (Khúc XII) Thánh Thomas nói với Dante về sự hiểu biết tương đối của Salomoné. Nguyên nhân sự khôn,g bằng nhau giữa các linh hồn (Khúc XIII) Salomon giải đáp những thắc mắc của Dante. Xuất hiện vòng tròn nhảy múa thứ ba. Dante lên

Vùng trới thứ năm, vùng trời của sao Hỏa. Chúa Kitô phóng ra những tia sáng chói lọi. Những bài hát ca ngợi Chúa.(Khúc XIV). Dante gặp vị thủy tổ ba đời là Catsiaguida. Ông này kể lại đời mình và ca ngợi thành Frirenze ngày xưa. (Khúc XV) Dante hài lòng về dòng dõi quý tộc của gia đình mình ; Catsiaguida nói về sự thịnh suy các dòng họ Frirenze.(Khúc XVI). Dante muốn biết tương lai đời mình. Tiết lộ của Catsiaguida Dante sẽ bị đày biệt xứ.(XVII) Nhắc lại một số anh hùng Do Thái, các hiệp sĩ của cuộc Thập tự chinh và của Anh hùng ca.

Vùng trời thứ sáu, Vùng trời của Sao Mộc. Các thiên thần và các vị hằng phúc vừa hát vừa xếp chữ, ca ngợi một công lý.(Khúc XVIII )  Đại bàng nói về công lý thần thánh. Tính chất xấu xa của một số vua Thiên Chúa Giáo Âu Châu. (Khúc XIX) Đại bàng nói tiếp. Những linh hồn nổi tiếng hợp thành con mắt của Đại bàng. Hai người không có đạo ở trên Thiên Đường : Riféo và Traiano (Khúc XX)

Vùng trời thứ bảy, Vùng trời của Sao Thổ. Béatrice không cười nữa, các vị chân phúc không hát nữa. Chiếc cầu vàng. Thánh Piertro Damiano và sự phê phán các vị chăn chiên hiện đại. Bí mật của sự tiền định.(Khúc XXI) Béatrice trấn an Dante. Thánh Bénédetto nói về mình, về các giáo hữu và nguyền rủa sự hủ hóa các tu sĩ.

Vùng trời thứ tám : Vùng trời các định tinh. Dante nhìn về các hành tinh và trái đất.(Khúc XXI I). Kito và Maria xuất hiện giữa những người hằng phúc, sau đó lên vùng trời thiên thanh. Maria với chiếc vương niện bằng lửa, Thánh ca ca ngợi Maria.(Khúc XXIII). Béatrice giới thiệu Dante với những người hằng phúc và đề nghị thành Pietro kiểm tra Dante về Đức tin. Thánh Pietro hài lòng về những câu trả lời của Dante. (Khúc XXIV). Thánh Giacomlo chất vấn Dante về vấn đề hy vọng. Sự xuất hiện cuả Thánh Giuovanni. Dante cố nhìn thánh và mắt bị mù tạm thời (Khúc XXV) Thánh Giovani hỏi quan niệm của Dante về lòng nhân từ. Dante lấy lại thị giác. Adamo xuất hiện và trò chuyện với Dante (Khúc XXVI). Thánh Pierro chỉ trích Giáo Hoàng Bonifascio VIII, và trao cho Dante nhiệm vụ. Dante nhìn xuống trái đất. Dante bay lên .

Vùng trời thứ chín : hay vùng Động lực đầu tiên. Béatrice giải thích về vùng trời này và mối quan hệ với vùng trời khác. (Khúc XXVII) Chín vòng tròn lửa  quay quanh một Điểm Sáng Cố Định và Chói Loà (Chúa Trời) Béatrice giải thích sự tương ứng giữa chín vòng tròn lửa này với chín vòng trời. Tôn ty trật tự giữa các thiên thần. (Khúc XXVIII). Béatrice nói về sự sáng tạo và lịch sử các thiên thần. Các thiên thần phản nghịch và các thiên thần trung thành. Khả năng của các thiên thần. Chống lại các ý tường ngông cuồng về thần học và sự khoan dung. Số lượng thiên thần và sự vĩ đại của Chúa Trời.(Khúc XXIX)

Vùng trời thứ mười : Vùng Thiên Thanh : Thiên Đình, Thiên thần và những người hằng phúc. Dòng sông ánh sáng, những tia lửa, những bông hoa. Dante có thị lực mới, Bông hồng Thiên đường. Chiếc ngai dành cho Hoàng Đế Arrigo VII (Khúc XXX) Bông Hồng Trắng, sự kinh ngạc của Dante. Béatrice trở lại chổ của mình. Thánh Bernardo đến thay. Lời cầu khẩn của Dante với Béatrice. Đức Mẹ Đồng Trinh trong vinh quang của mình (Khúc XXXI). Sự sắp xếp chổ ngồi trong Bông Hồng. Những thiếu niên hồn nhiên, sự không ngang nhau giữa chúng trong cõi Thiên Đường. Sự ca ngợi Đức Mẹ Đồng Trinh. (Khúc XXXII). Thành Bernardo cầu nguyện Đức Mẹ Đồng Trinh chiếu cố đến Dante. Dante nhìn vào Bản Thể Vô Tận và trực cảm về sự thống nhất vũ trụ ở Chúa, về tính duy nhất của Ba Ngôi về bí Mật của sự hóa thân.

Bản dịch Thần Khúc của Gs Nguyễn Văn Hoàn là một kỳ công, tôi thử góp sức thêm, thử diễn ca thành thơ lục bát, để thử Việt hóa bản dịch, tôi sẽ tiếp tục chuyển toàn bộ tác phẩm vĩ đại này ra 14266 câu thơ thành  thơ lục bát, và bổ túc những điểm sơ sót, một công việc ít nhất phải mất 5 năm liên tục.

THẦN KHÚC

DANTÊ ALIGHIÊRI

Nhất Uyên diễn ca thơ lục bát theo bản dịch GS Nguyễn Văn Hoàn

QUYỂN I  ĐỊA NGỤC

KHÚC   I

Dante thấy mình lạc trong rừng tối tượng trưng cho sự lầm lạc về đạo lý và tinh thần. Ba con dã thú chặn đường: con báo, sư tử và sói cái tượng trưng cho ba đức tính: dâm dục, kiêu căng và gianb lận. Virgilo, thi hào La Mã, người thầy thi ca của Dante xuất hiện dẫn Dante du hành sang thế giới bên kia.

Nữa đường đời thoáng qua nhanh,                                                                       1

Tôi thấy mình lạc rừng xanh mịt mùng.

Nẽo về chính đạo mông lung,

Bao điều cay đắng nói không nên lời.

Rừng hoang hiểm trở núi đồi,

Bao điều kinh hãi, bồi hồi xiếc bao.

Chết khôn bằng, đắng cay sao ?

Những điều trông thấy cùng trao tỏ bày.

Kể cùng nhau mọi điều hay,

Kể làm sao được vì say giấc nồng.                                                                          10

Lúc xa chính đạo mơ mòng,

Thấy mình bỗng tới dưới chân ngọn đồi.

Cuối vùng thung lũng bên trới,

Đã từng vò xé tim tôi hãi hùng.

Ngước nhìn lên mắt tôi trông,

Sườn non rực rỡ ánh hồng rạng tươi.

Mọi đường đi, lối tỏ soi,

Nỗi niềm kinh sợ lòng tôi lắng dần.

Trái tim như mặt hồ trong,

Suốt đêm dao động mênh mông mệt nhoài.                                                     20

Như người kiệt sức đi thôi,

Thoát lên bờ ngóng trùng khơi chập chùng,

Ngoảnh nhìn biển cả mênh mông.

Hải hùng ngọn sóng cao dâng hiểm nghèo.

Lòng còn run sợ biết bao,

Khi nhìn lại quảng đường nào đi xa.

Mấy ai từng dễ thoát qua,

Sau khi yên nghỉ thân ta mệt nhoài.

Như đi đường cát trắng dài,

Chân phải vẫn dẽo hơn hoài chân kia.                                                                  30

Ngay trên đỉnh d

0