Lịch sử đê điều đồng bằng sông Hồng
Đê tả Bùi . Ảnh: Gia Chính Trần Đăng Hồng Con người đã sống ở Đồng bằng sông Hồng từ thời Đồ Đá Củ cách đây khoảng 25 ngàn năm. Canh tác lúa nước được phát triển vào thời Đồ Đá Mới trong nền văn hóa Hòa Bình – Bắc Sơn, cách đây khoảng 9 ngàn năm. Ước vọng chế ngự lũ lụt ở Đồng ...
Trần Đăng Hồng
Con người đã sống ở Đồng bằng sông Hồng từ thời Đồ Đá Củ cách đây khoảng 25
ngàn năm. Canh tác lúa nước được phát triển vào thời Đồ Đá Mới trong nền văn hóa
Hòa Bình – Bắc Sơn, cách đây khoảng 9 ngàn năm. Ước vọng chế ngự lũ lụt ở Đồng
bằng sông Hồng của dân Lạc Việt được thi vị hóa qua huyền thoại Sơn Tinh thắng
Thủy Tinh. Hệ thống đê sông ở Châu thổ sông Hồng Việt nam đã có lịch sử trên 2
ngàn năm.
Theo Giao Châu Ký của Trung Hoa, thì khoảng 3 thế kỷ trước công nguyên ở
Giao Châu đã có đê lớn “Ở huyện Phong Khê có đê bảo vệ nước lũ từ Long Môn”
(Sông Đà bây giờ). Theo Hán Thư thì “Miệt tây bắc Long Biên (tức Hà Nội) có đê
chống giữ nước lũ từ sông” (2).
Trong sách lịch sử Việt Nam, đê được nói đến đầu tiên là vào khoảng năm 521
dưới thời Lý Bí (tức Lý Bôn). Tuy nhiên, người có công và được nhắc nhở nhất là
Cao Biền, giữa thế kỷ thứ 9: “Sử chép rằng Cao Biền đào sông, khơi ngòi, mở đường
lộ, lập quán trọ cho khách đi đường trên khắp An Nam. Nhiều đoạn đê, nhất là đoạn
đê trên vùng gần Hà Nội hiện nay được đắp để chống lụt lội” (8). Cao Biền ra lệnh
dân thiết lập đê quanh thành Đại La với tổng số chiều dài 8,500 thước, cao 8 thước
(2).
Đê Cơ Xá là con đê đầu tiên được vua Lý Nhân Tông (1072-1127) cho xây
dựng vào tháng 3 năm Mậu Tý (1108) để bảo vệ kinh thành Thăng Long khỏi ngập lụt
(18)). Nhà vua ra lệnh đắp đê trên sông Như Nguyệt (Sông Cầu bây giờ) dài 30 km
(2).
Dưới đời nhà Trần, những con đê được đắp chỉ cốt giữ cho nước lũ không tràn
vào đồng ruộng để kịp làm vụ lúa chiêm, sau khi mùa màng thu hoạch xong thì nước
được tự do tràn vào đồng ruộng. Tháng 3 năm Mậu Thân (1248), vua Trần Thái-Tông
sai quan ở các lộ đắp đê ở hai bên bờ sông Hồng từ đầu nguồn tới biển, gọi là Dỉnh
Nhỉ Đê hay Đê Quai Vạc. Lại đặt quan để coi việc đê, gọi là Hà Đê chánh phó sứ hai
viên (5). Hể chổ nào mà đê đắp vào ruộng của dân, thì nhà nước cứ chiếu theo giá
ruộng mà bồi thường cho chủ ruộng (18). Mỗi năm sau vụ mùa, triều đình còn ra lệnh
cho quân sĩ đắp đê hay đào lạch, hào, giúp đỡ dân chúng. Đại Việt Sử Ký Toàn Thư
có chép: “Tân Mão, Kiến Trung năm thứ 7 (1231): Mùa xuân, tháng giêng, sai nội
minh tự Nguyễn Bang Cốc (hoạn quan) chỉ huy binh lính phủ mình đào vét kinh Trầm
và kinh Hào (là tên hai con kinh, thuộc huyện Ngọc Sơn (nay là Tĩnh Gia), tỉnh Thanh
Hóa) từ phủ Thanh Hóa đến địa giới phía nam Diễn Châu”. Triều đình cũng cho phép
các vương, hầu có quyền chiêu tập những người nghèo khó, lưu lạc đi khai khẩn đất
hoang để mở mang thêm ruộng nương (5). Có thể nói rằng hệ thống đê sông Hồng
được hoàn chỉnh dưới thời vua Trần Thái Tông, cách nay hơn 750 năm.
Thiết lập đê biển được ghi trong lịch sử đầu tiên là vào cuối nhà Trần, Hồ Quý
Ly cải tổ lại điền địa “Khi trước những nhà tôn thất cứ sai đầy tớ ra chổ đất bồi ở
ngoài bể, đắp đê để một vài năm cho hết nước mặn, rồi khai khẩn thành ruộng. Nay
ngoại trừ bậc đại vương, công chúa ra, thứ dân không được có hơn 10 mẩu” (18).
Vua Lê Thánh Tông (1460-1497) đặt ra quan “Hà Đê” để lo đê điều và quan
Khuyến Nông để phát triển nông nghiêp (18). Dưới triều Lê sơ (1428-1527) những
con đê lớn hơn được đắp mới, và tân tạo hệ thống đê cũ trên hai bờ sông Nhị Hà bằng
đá vửng chăc (2). Kết quả trái ngược là sông Hồng trở nên hung dữ hơn, phá vỡ đê và
gây ngập lụt triền miên trong thời nhà Nguyễn, nảy sinh nhiều ý kiến đề nghị xem xét
vấn đề bỏ hay giữ đê (28).
Giặc giả thường xuyên xảy ra trong thời Lê, Mạc, Trịnh Nguyễn phân tranh,
đê điều bị hư hại nhiều, mải tới thời Vua Gia Long (1802-1820), vua truyền cho các
quan ở các trấn phải “xoi đào sông ngòi và các cửa bể, và nhất là ở Bắc Thành phải
giữ gìn đê điều cho cẩn thận: chổ nào không có thì đắp thêm, chổ nào hư hỏng thì
phải sửa chửa lại” (18).
Nguyễn Công Trứ (1778-1858) đã có công khẩn hoang vùng duyên hải Ninh
Bình, Nam Định, Hải Dương. Ông đi kinh lý khắp bải bồi vùng duyên hải, tự vẽ bản
đồ, phân phát trâu bò, nông cụ cho dân để khẩn hoang. Chỉ trong 2 năm (1828 –
1829), Ông lập ra 2 huyện Tiền Hải (Thái Bình) và Kim Sơn (Ninh Bình) cùng hai
tổng Hoàng Thu và Minh Nhất (ven bờ biển Thái Bình, Ninh Bình), khai khẩn tổng
cộng được 37,770 ha đất. Đây là vùng đất bồi, hàng năm tốc độ phù sa bồi tụ tiến ra
biển từ 80 – 100 m. Từ đó, cứ sau 20-30 năm, đê biển mới được xây đắp lấn ra biển.
Đến nay, 178 năm sau, Kim Sơn đã tiến hành quai đê lấn biển sáu lần, tiến ra biển hơn
500 m, nhờ vậy diện tích hiện nay gấp gần 3 lần so với khi mới thành lập (24, 31).
Ngoài ra, từ trước năm 1837, Nguyễn Công Trứ đã đề xuất giải pháp phân lũ
bằng cách khai đào đoạn khởi đầu sông Đuống (tức sông Thiên Đức thời bấy giờ) nối
với sông Hồng ở phía thượng lưu để chuyển nhận nước từ sông Hồng giải tỏa áp lực
lũ ở vùng Hà Nội. Nhưng phải sang thời Tự Đức ý tưởng đó mới được thực hiện một
phần và được hoàn chỉnh thêm trong thời Pháp thuộc. Từ đó, sông Đuống trở thành
đường thoát lũ quan trọng nhất của sông Hồng (28). Hệ thống đê sông và đê biển
được hoàn chỉnh thêm trong thời Pháp đô hộ và sau này.
Tính đến nay (2006), hệ thống đê sông Hồng khu vực quanh Hà Nội được
nâng cấp tương đối hoàn chỉnh, dài tổng cộng khoảng 60 km. Dự án này thực hiện từ
năm 1996, kết thúc năm 2002, nhờ nguồn vốn vay của ngân hàng ADB. Một số đoạn
đê khác đã có đường hành lang hai bên thân đê, mặt đê được cứng hóa bằng nhựa
hoặc bê tông (1, 28).
Dưới thời quân chủ, phá hủy hay làm hư hại đê là một trọng tội. Năm nào có
thiên tai, lũ lụt nặng, chính nhà vua lập đàn chay tạ tội, nhận trách nhiệm cùng trời
đất.
ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG VÀ NGUYÊN NHÂN LŨ LỤT
Đồng bằng Sông Hồng bắt đầu được thành lập vào thời Holocene, cách đây khoảng 9
ngàn năm, khi mực nước biển, cao hơn hiện nay 2-3 m, bắt đầu hạ thấp. Đồng bằng
được phù sa sông Hồng bồi đắp nhờ rừng ngập mặn, và hàng năm lấn dần ra biển
Đông với vận tốc khoảng 22 m/năm. Cách đây khoảng 6 ngàn năm, đồng bằng tiến ra
biển chậm hơn, với vận tốc khoảng 4 m/năm (15). Hiện nay, phù sa bồi đắp lấn biển
trung bình 25 – 30 m, có nơi 120 m (17). Phù sa lắng đọng từ thời Cenozoic có độ sâu
tới 5,000 m, trong số đó phù sa thời Quaternary dày 250 m, và thời Holocene sâu 30-
60 m (17). Bờ biển trong thềm lục địa có độ sâu 20 m.
Vùng đồng bằng sông Hồng (giữa vĩ độ 22°00′ và 21°30′ Bắc, kinh độ 105°30′
và 107°00′ Đông) có hình dáng tam giác điển hình của một vùng châu thổ, với đáy là
đường bờ biển dài 130 km, từ thành phố Hạ Long đến điểm cực nam của tỉnh Ninh
Bình. Đỉnh của tam giác này thay đổi theo thời gian cùng với sự mở rộng của nó và
hiện tượng mực nước biển rút xuống. Vào thời Văn Lang, cách đây khoảng 4,000
năm, đỉnh của tam giác châu thổ sông Hồng ở gần thành phố Việt Trì ngày nay. Đến
thời kỳ Âu Lạc (thế kỷ 3 trước công nguyên), đỉnh của tam giác đã lui xuống vùng
Đông Anh (Hà Nội). Hiện nay, đỉnh của tam giác này ở Hưng Yên. Nếu vẫn coi đỉnh
tam giác là ở Việt Trì, thì diện tích tổng cộng của đồng bằng sông Hồng khoảng
16,644 km² (27).
Dãy Hoàng Liên Sơn, cao 3,142 m, có vai trò như một trường thành ngăn gió
mùa đông và các luồng không khí từ biển Đông chứa nhiều hơi nước. Do đặc điểm
này khí hậu vùng Tây Bắc ấm hơn và khô hơn. Sườn phía đông đón gió nên có lượng
mưa lớn hơn với nhiều tâm mưa lớn như: Hoàng Liên Sơn với lượng mưa/năm tới
3,552 mm, Sapa 2,833 mm, Yên Bái 2,106 mm. Ngược lại, ở phía tây phần lớn có
lượng mưa/năm ít hơn nhiều: Yên Châu 1,217 mm, Sơn La 1,444 mm, Cò Nòi 1,319
mm (11).
Trung bình hàng năm Đồng bằng sông Hồng nhận 4 trận bảo tố từ biển Đông
gây nhiều mưa ở vùng núi cao và đồng bằng, từ tháng 5 đến tháng 10, tạo ra lũ lụt,
tháng 7 và 8 thường là lũ lớn. Vì vậy, nguồn nước sông Hồng khá dồi dào nhưng phân
bố không đều. Mùa lũ chiếm khoảng 70 % lượng nước cả năm.
Địa hình thượng lưu các sông gồm các vùng đồi núi với độ dốc lớn nên nước
mưa đỗ nhanh chóng xuống vùng đồng bằng. Mỗi khi có mưa to, vùng đồng bằng
Sông Hồng nhận nước lũ từ hai hệ thống Sông Hồng và Sông Thái Bình. Hệ thống
Sông Hồng bao gồm Sông Đà, Sông Hồng, Sông Thao nhập lưu tại Việt Trì, và hệ
thống Sông Thái Bình gồm các nhánh chính là Sông Cầu, Sông Thương, sông Lục
Nam nhập lưu tại Phả Lại.
Ngoài nguyên nhân chính là các trận mưa bão ở miền thượng lưu, nạn phá
rừng trầm trọng ở đầu nguồn (thảm rừng chiếm 95% năm 1943, chỉ còn 17% năm
1991), cũng như ở đồng bằng (từ 55% năm 1943 còn 29% năm 1991) (17); hệ thống
đê đập còn nhiều nhược điểm, hệ thống thoát lũ và thoát nước thải thành phố yếu kém
(16), và đô thị hóa nông thôn hiện nay làm trầm trọng lũ lụt ở Đồng Bằng Sông
Hồng.
Khu trung tâm của vùng ĐBSH rất bằng phẳng, phần lớn nằm ở độ cao từ 0.4
m đến 12 m trên mực nước biển, với 56 % có độ cao thấp hơn 2 m. Tuy nhiên cũng có
những khu vực đất cao, gồm các đồi đá vôi, các đỉnh núi nhọn và những dãy đồi núi
dọc theo hai cánh tây-nam và đông-bắc của vùng. Phần lớn vùng đất của đồng bằng
sông Hồng được 2 loại đê bảo vệ: khoảng 3,000 km đê ngăn lũ của hệ thống sông, và
1,500 km đê biển ngăn sóng lớn của các cơn bão ở vịnh Bắc Việt (27). Tuy nhiên, đa
số các trung tâm đông dân cư đều nằm dưới mực nuớc lũ Sông Hồng. Vì vậy khi mưa
quá to và nước lũ phá vỡ đê làm nhiều người thiệt mạng (16).
Đồng bằng sông Hồng nằm trong 8 tỉnh hay thành phố. Mật độ dân cư ở đồng
bằng châu thổ sông Hồng cao nhất Việt Nam (1,179 người/km²). Tổng dân số của
vùng là 17,649,700 người (2003) (27).
Đồng bằng châu thổ sông Hồng do phù sa của 2 sông chính bồi đắp là sông
Hồng và sông Thái Bình.
SÔNG HỒNG
Sông Hồng có tổng chiều dài là 1,149 km bắt nguồn từ Trung Quốc chảy qua Việt
Nam và đổ ra biển Đông. Đoạn chảy trên đất Việt Nam dài 510 km (29). Hệ thống
Sông Hồng gồm khoảng 500 phụ lưu và suối chảy vào. Diện tích toàn bộ lưu vực sông
Hồng là 143,600 km2, phần của Việt Nam có 40 %.
Sông Hồng bắt nguồn từ dãy núi Ngụy Sơn, tỉnh Vân Nam, Trung Quốc ở độ
cao 1,776 m. Đến biên giới Việt – Trung, sông Hồng chạy dọc theo biên giới khoảng
80 km; đoạn thì sang bên lãnh thổ Việt Nam, đoạn thì sang bên lãnh thổ Trung Quốc.
Điểm tiếp xúc đầu tiên của sông Hồng với lãnh thổ Việt Nam tại xã A Mú Sung
(huyện Bát Sát), chính giữa sông là điểm phân chia lãnh thổ hai nước. 40 % nước
sông Hồng do từ lảnh thổ Trung quốc chảy tới (17). Đến thành phố Lào Cai, sông
Hồng chảy hẳn vào lãnh thổ Việt Nam qua Hà Nội trước khi đổ ra biển Đông ở cửa
Ba Lạt.
Ở Lào Cai sông Hồng cao hơn mực nước biển 73 m. Đến Yên Bái, cách Lào
Cai 145 km, thì sông chỉ còn ở cao độ 55 m. Giữa hai thị trấn đó là 26 ghềnh thác,
nước chảy xiết. Đến Việt Trì thì triền dốc sông không còn mấy nên lưu lượng chậm
hẳn lại. Đồng bằng sông Hồng nằm ở hạ lưu con sông này (29). Các sông nhánh chính
của sông Hồng là sông Đà, sông Lô (với phụ lưu là sông Chảy và sông Gầm).
Lưu lượng sông Hồng biến đổi tùy theo năm có vũ lượng ít hay nhiều, từ 93.1
tỷ (năm 1963, năm ít mưa nhất)) đến 159 tỷ m3 nước (năm 1971, năm mưa nhất gây
lụt 1971) (17). Lưu lượng nước bình quân hàng nǎm 2,640 m³/s (tại cửa sông), tuy
nhiên lưu lượng nước phân bố không đều. Về mùa khô lưu lượng giảm chỉ còn
khoảng 700 m³/s, nhưng vào cao điểm mùa mưa có thể đạt tới 30,000 m³/s. (29). Mực
nước lũ cao nhất là 14.13 m tại Hà Nội, nhưng vào mùa khô, mức thấp nhất là 1.5 m
tại Hà nội (13). Nước sông hạ thấp trung bình 9 cm/giờ khi lũ rút (22). Lưọng phù sa
trung bình khoảng 80 triệu m3, tương đương với 130 triệu tấn (19). Năm 1971, năm lũ
lớn của thế kỷ, có lượng phù sa tới 202 triệu tấn (17). Trong mùa lũ, mỗi mét khối
nước chứa khoảng 1.5 kg phù sa làm nước sông có màu đỏ hồng (29). Vì nạn phá
rừng và đất bị xoi mòn ở thượng nguồn, lượng phù sa có khuynh hướng gia tăng.
Chẳng hạn, tại trạm Yên Bái trong thời kỳ từ 1961-1970, lượng phù sa là 1,780 g/m3
đã tăng lên 1,820 g/m3 trong thời kỳ 1981-1993. Tương tự tại trạm Bảo Yến lượng
phù sa đã tăng từ 997 g/m3 trong thời kỳ 1983-1989 đến 1,250 g/m3 vào 1990-1993
(11). Chỉ 5 % số phù sa (khoảng 26 triệu tấn) lắng đọng suốt chiều dài dòng chảy làm
lòng sông cạn dần, còn bao nhiêu (khoảng trên 100 triệu tấn) đều được đưa ra vịnh
Bắc Việt bồi đắp dọc biển làm cho đồng bằng châu thổ sông Hồng lấn biển mỗi
năm có nơi thêm 100 m (19). Để phòng lũ lụt, ngưòi Việt đã đắp đê ngăn nước tràn
vào làng mạc ruộng đồng. Chỉ riêng sông Hồng, chiều dài đê tổng cộng là 1,660 km
(19).
Trong 3 nhánh của sông Hồng, sông Đà và sông Thao có lưu vực xấp xỉ như
nhau (sông Đà: 52,900 km2, sông Thao: 51,900 km2), và dòng chảy lũ sông Đà đóng
góp trung bình tới trên 50 % lượng lũ sông Hồng tại hạ lưu (Sơn Tây). Trên 70 %
trường hợp lũ lớn xảy ra ở hạ lưu sông Hồng trùng hợp với tâm mưa lớn nằm trên lưu
vực sông Đà (11).
Hệ thống sông Hồng đổ ra Vịnh Bắc Việt qua 10 cửa sông. Các cửa chính
gồm: (i) Cửa Ba Lạt là cửa chính ở bờ biển giáp ranh Nam Định và Thái Bình; (ii)
Cửa Lạch Giang (sông Ninh Cơ) ở tỉnh Nam Định; (iii) Cửa Đáy (sông Đáy) ở tỉnh
Ninh Bình; (iv) Cửa Lân ở Tiền Hải (Thái Bình); Cửa Trà Lý (sông Trà Lý) ở tỉnh
Thái Bình; (v) Cửa Diêm Điền (Thái Bình); (vi) Cửa Hà Lận ở tỉnh Nam Định (27).
SÔNG THÁI BÌNH
Hệ thống sông Thái Bình gồm sông Thái Bình cùng các phụ lưu và chi lưu. Các phụ
lưu gồm sông Cầu, sông Thương và sông Lục Nam ở thượng nguồn, với tổng chiều
dài khoảng 1,650 km và diện tích lưu vực khoảng 10,000 km². Ngoài ra, hệ thống
sông này còn nhận một phần dòng chảy của sông Hồng, để đổ ra biển Đông (30).
Sông Thái Bình, dài 93 km, khởi sự từ khúc Lục Đầu ở Phả Lại. Gọi là Lục Đầu vì đây là chỗ
tập trung của 6 con sông: 4 sông chảy vào là sông Cầu (dài 290 km), sông Thương (dài 80
km), sông Lục Nam (dài 200 km), sông Đuống (dài 65 km,nối với sông Hồng ở Phả Lại), và
2 sông chảy ra là sông Kinh Thầy (hay sông Cấm,dài 30 km) và sông Bình Than.
Hệ thống sông Thái Bình nối với sông Hồng bởi sông Đuống ở thượng lưu, và
sông Luộc ở hạ lưu. Nhờ hệ thống sông nối này giúp phân nước lũ của sông Hồng làm
giảm bớt lụt lội ở hạ lưu đồng bằng sông Hồng.
Do phần lớn lưu vực của hệ thống sông Thái Bình bắt nguồn từ các vùng đồi
trọc miền Đông Bắc, đất đai bị xói mòn nhiều nên nước sông rất đục, hàm lượng phù
sa cao. Do đặc điểm lòng sông rộng, ít dốc, đáy cạn nên sông Thái Bình là một trong
những sông bị bồi lấp nhiều nhất. Lưu lượng nước hàng năm đạt khoảng 53 tỷ m³
(30).
Hệ thống sông Thái Bình ra biển Đông với các cửa: (i) Cửa Thái Bình của
sông Thái Bình, nằm giữa hai tỉnh Thái Bình và Hải Phòng; (ii) Cửa Văn Úc, trên
sông Văn Úc (dài 38 km) Hải Phòng; (iii) Cửa Lạch Tray, trên sông Lạch Tray (dài 43
km), Hải Phòng; (iv) Cửa Cấm, trên sông Cấm (dài 37 km), Hải Phòng; (v) Cửa Nam
Triệu, trên sông Bạch Đằng (dài 42 km), nằm giữa hai tỉnh Quảng Ninh và Hải
Phòng; (vi) Cửa sông Chanh, Quảng Ninh (27).
Ở Vịnh Bắc Việt, trung bình cứ 20 km đường bờ biển thì có một cửa sông lớn.
Lượng cát bùn lớn vào mùa lũ, chiếm tới 75- 85 % lượng dòng chảy cả năm tạo các
bải bồi và lấn biển.
HỆ THỐNG CHỐNG LŨ LỤT
Ở Đồng Bằng Sông Hồng, hệ thống chống lũ lụt gồm (i) thiết lập đê sông, đê biển, (ii)
hồ chứa nước ở thượng nguồn, (iii) hệ thống phân lũ thoát nước, (iv) thiết lập các
vùng chặn lũ xung quanh Việt Trì và Phả Lại, và (v) hệ thống báo động.
Hệ thống đê sông: Hiện tại, tổng số chiều dài hệ thống đê sông trong vùng đồng bằng
Sông Hồng là 3,000 km, gồm 2,417 km đê thuộc Bắc Bộ, và 420 km ở các sông vùng
Thanh – Nghệ. Hệ thống sông Hồng có 1,667 km đê, và 750 km đê thuộc hệ thống
sông Thái Bình. Hệ thống đê sông Hồng có quy mô lớn và hoàn thiện hơn so với các
hệ thống đê còn lại. Các đê sông thường có độ cao không quá 10 m (3). Chiều cao
trung bình của đê sông từ 6-8 m, có nơi lên đến 11 m. Tuy nhiên hệ thống đê được
xây dựng đã lâu đời trên nền đất yếu, đất đấp đê cũng lấy từ địa phương và không
đồng nhất, nhiều nơi bị hư hại vì thiếu bảo quản. Nhiều kè cống rất củ kỳ. Dọc theo đê
còn có nhiều ao hồ làm nước lũ khó thoát. Dân cư quá đông đúc sống kế cận bờ đê.
Ngày nay, nhiều nhà cửa xây cất ngay trên bờ đê. Vì vậy đê có thể bị vỡ bất cứ lúc
nào trong mùa lũ lớn.
Tùy theo tầm quan trọng kinh tế và số dân cư của địa phương, dựa vào đợt lũ lớn nhất
thế kỷ năm 1971, 5 cấp đê được thiết kế. Chẳng hạn, ở vùng Hà Nội đê thiết kế từ cấp
I đến cấp III, với mức nước an toàn thiết kế 0.8 %, hay mức nước lũ 125 năm lặp lại
một lần. Tại các khu vực khác trong vùng đồng bằng sông Hồng (nơi cấp đê thay đổi
từ cấp I đến cấp III) cũng áp dụng cùng một mực nước thiết kế nhưng độ cao an toàn
không thấp hơn, do đó an toàn thiết kế là 1 %, tương đương với mực nước lũ tần suất
100 năm. Cấp đê IV là cấp bảo vệ chống mực nước lũ tần suất 20 năm (3). Tiêu chuẩn
phòng lũ đối với hệ thống đê Hà Nội là bảo đảm chống được lũ tương ứng với mực
nước sông Hồng tại trạm Long Biên là 13.4 m, và thoát được lưu lượng tối thiểu là
20,000 m3/s.
Phòng tuyến đê lũ Hà Nội.
Từ ngàn xưa, bảo vệ thủ đô Đại La/Thăng Long/Hà Nội là ưu tiên của nhà vua qua
các thời đại. Hàng loạt đê cao, có nơi cao 15 m, được đắp từ hàng thế kỹ trước. Ngày
nay, có nhiều nơi lòng sông cao hơn mặt đất đồng ruộng, làng mạc.
Hà nội bằng phẳng có độ cao trung bình 7-8 m trên mực nước biển, nơi thấp
nhất có độ cao 5 m. Diện tích tổng cộng là 270 km2, dân số khoảng 2 triệu, nếu tính cả
ngoại ô là 3 triệu (13).
Trong thời nhà Nguyễn, người Hoa ở vùng Hà Nội xin phép nhà vua để họ đắp
kè lấp đá cho một số đê dọc sông Hồng nơi họ cư trú.
Năm 1885 mưa bão lớn làm sụt lở bờ sông sát Đồn Thuỷ. Người Pháp đổ kè
đá ở bên ngoài bờ sông Hồng chỗ Hàng Than dài 400 m để hướng dòng chảy về phía
Gia Lâm (19).
Trận lụt năm 1926, Hà nội bị ngập lụt nặng, vì lúc đó chưa có đoạn đê dọc
đường Trần Nhật Duật, Trần Quang Khải ngày nay (4). Người Pháp đắp đê này đồng
thời củng cố cả hệ thống đê Hà Nội, có nơi cao 14 m.
Sau biến cố vỡ đê năm 1971, nhiều biện pháp mới được ban hành, ngoài việc
tăng cường hệ thống đê, còn lập hồ chứa nước và phân lũ. Khi mực nước sông Hồng
tại Hà Nội đến mức báo động 13.4 m, thì dòng nước sông Hồng ở đầu nguồn được xả
vào Hà Tây, Vĩnh Phúc, Phú Thọ, Hà Nam và Nam Định. Việc tháo nước phân lũ vào
sông Đáy do Thủ Tướng quyết định vì có ảnh hưởng đến khoảng 675,000 dân chúng,
và chính phủ bồi thường thiệt hại.
Ngày nay, hệ thống đê dọc sông Hồng bảo vệ Hà Nội dài 61 km được nâng
cấp tương đối hoàn chỉnh. Dự án này thực hiện từ năm 1996, kết thúc năm 2002, nhờ
nguồn vốn vay của ngân hàng ADB. Một số đoạn đê khác đã có đường hành lang hai
bên thân đê, mặt đê được cứng hóa bằng nhựa hoặc bê tông (1, 28). Ngoài ra, Hà Nội
có hơn 40 hồ lớn và sâu, chưa kể ao, có khả năng giảm lũ khi có mưa lớn.
Hệ thống đê biển: Bờ biển Vịnh Bắc Việt cấu tạo bởi đá và phù sa. Do ảnh hưởng
của biến động thời tiết trên toàn thế giới vì dòng nước El Nino và La Nina, những trận
bão biển xảy ra càng khốc liệt hơn. Mùa bão thường kéo dài từ tháng 6 đến tháng 10,
và trung bình hàng năm có 4 cơn bão. Những cơn bão này thường xuất phát từ Phi
Luật Tân, Biển Đông và Tây Thái Bình Dương rồi 3-4 ngày sau sang đến vịnh Bắc
Việt tạo những sóng cao, gây lụt lội vùng duyên hải. Hệ thống đê biển được thiết lập
từ lâu đời và được xây đắp ngày càng vững chắc. Chiều dài tổng cộng đê biển và cửa
sông khoảng hơn 1,500 km. Hiện nay, đê biển còn thấp (cao khoảng 5 m), nhiều nơi
còn bằng đất, có nơi bằng bê tông, và chỉ chịu được các cơn bão nhỏ. Ngày nay, với
kỹ thuật trồng rừng ngập mặn ngoài bờ đê, và cỏ Vetiver hai bên bờ đê có thể cản
được sự phá hủy đê do sóng bảo.
Trong thời gian 1958-1995, tổng số diện tích đất bồi đầm lầy vùng duyên hải
Vịnh Bắc Việt được biến cải thành đồng ruộng nhờ hệ thống đê biển là 24,000 ha
(17).
Hồ chứa nước
Ngoài hệ thống đê, còn có các đập thủy điện và hồ chứa nước lớn ở vùng thượng lưu
để giảm thiểu lũ lụt ở vùng đồng bằng.
Hiện tại đã có 3 hồ chứa và 1 đang xây dựng, đóng vai trò quan trọng trong
phòng chống lũ nhờ giữ cho mực nước ở mức thấp trên sông trong mùa lũ (3):
1. Hồ Thác Bà trên sông Chảy để làm thủy điện, đưa vào vận hành từ năm 1972, có
dung tích chứa lũ là 460 triệu m3, điều tiết khoảng 6 % lưu lượng nước sông Hồng tại
Sơn Tây.
2. Hồ Hoà Bình trên sông Đà, diện tích 208 km2
, đưa vào vận hành từ năm 1988, có
dung tích chứa lũ 5,720 triệu m3, và điều tiết khoảng 48 % lưu lượng xả tại Sơn Tây.
Đập Hoà Bình được ước tính có thể giảm đĩnh lũ năm 1971 tại Hà Nội chừng 1.5 m
(3).
3. Hồ Đại Thị trên sông Gầm tỉnh Tuyên Quang vận hành vào năm 2007, với dung
tích chứa lũ là 1,600 triệu m3, điều tiết 9 % lưu lượng tại Sơn Tây.
4. Ngoài ra, hồ Sơn La trên sông Đà tại tỉnh Sơn La, thượng nguồn hồ Hoà Bình và
cách hồ Hoà Bình khoảng 187 km, sẽ được đưa vào vận hành năm 2015, với dung tích
chứa lũ là 4,500 triệu m3 và điều tiết 46 % lưu lượng xả tại Sơn Tây.
Với 4 hồ chứa khi đưa vào vận hành, tổng dung tích chứa lũ sẽ tăng lên, làm
cho mức an toàn trong vùng đồng bằng tăng đáng kể. Tổng dung tích chứa lũ sông Đà
khi vận hành hồ Sơn La được xác định ở mức 7 tỷ m3 và được chia giữa hồ Sơn La và
hồ Hoà Bình (6).
Tất cả các hồ chứa nói trên đều là hồ đa mục đích (thủy điện, thủy nông). Tuy
nhiên, nếu các đập này giữ nước lũ ở mức độ cao trong nhiều ngày có thể đe dọa độ
an toàn của đê đập. Hai đập Sơn La và Hoà Bình ở thượng lưu Sông Đà là một vùng
có động đất thường xuyên và mạnh nhất nước. Nếu có chấn động mạnh sẽ gây vỡ đập
dây chuyền, dẫn tới thảm hoạ khủng khiếp cho Hà Nội và các trung tâm dân cư vùng
đồng bằng Sông Hồng. Vì vậy, mực nước hồ chứa phải duy trì thấp vào mùa lũ (từ
tháng 6 đến giữa tháng 9), như vậy có ảnh hưởng đến phát điện và việc cấp nước tưới
vào mùa khô. Vào mùa khô hạn, ưu tiên giữ nước để phát điện, nên đồng ruộng
thường thiếu nước.
Một yếu điểm của việc thiết lập hồ chứa nước là số lượng phù sa lắng đọng
nhiều trong hồ, giảm số lượng phù sa lưu chuyển trên sông, giảm lắng tụ ngoài bờ
biển, ở vài nơi vì thiếu phù sa bồi đắp bờ biển bị xói mòn vì sóng biển khi rừng ngập
mặn bị phá hủy. Trước khi có Đập Hòa Bình, 113 triệu tấn phù sa/năm đựơc bồi đắp
vùng biển Đồ Sơn. Nhưng từ khi có Hồ Hòa Bình, 48 triệu tấn phù sa/năm đã lắng tụ
trong hồ, số lượng phù sa chảy qua Sơn Tây giảm từ 119 triệu tấn/năm trước khi có
hồ, xuống 79.4 triệu tấn/năm sau khi có hồ, và chỉ còn tổng cộng 70 triệu tấn chuyển
ra biển vùng Đồ Sơn (30). Tại cửa biển Ba Lạt (cửa chánh của sông Hồng), trong thời
gian 1965-1990 (trước khi có Hồ Hòa Bình), phù sa lấn biển trung bình 88.8 m/năm,
nhưng trong thời gian 1990-1998 (sau khi có hồ Hòa Bình), phù sa chỉ lấn biển 58.7
m/năm (17).
Phân lũ
Ngay từ thời vua Minh Mạng, Nguyễn Công Trứ đã đề nghị giải tỏa áp lực lũ sông
Hồng bằng cách khai đào đoạn khởi đầu sông Đuống, chuyển cửa nhận nước từ sông
Hồng. Nhưng phải sang thời Tự Đức ý tưởng đó mới được thực hiện một phần và
được hoàn chỉnh thêm trong thời Pháp thuộc.
Sông Hồng có phân lưu phía tả ngạn là sông Đuống chảy từ Hà Nội đến Phả
Lại (thuộc Hải Dương) và sông Luộc chảy từ Hưng Yên đến Quý Cao (huyện Vĩnh
Bảo, thành phố Hải Phòng). Hai sông này nối sông Hồng với hệ thống sông Thái
Bình.
Phân lưu phía hữu ngạn là sông Đáy và sông Đài (còn gọi là Lạch Giang hay
Ninh Cơ), nối sông Hồng và sông Đáy là hai sông Phủ Lý và sông Nam Định. Vùng
chậm lũ Vân Cốc nằm ở thượng nguồn đập Đáy. Nếu khi nước sông Hồng sắp tràn bờ
thấp ở cống Vân Cốc; và nếu tiếp tục tăng cao thì có thể mở đập Đáy cho nước tràn
vào sông Đáy. Sông Đáy có thể rút lấy nước lũ sông Hồng với 5,000 m3/s (6).
Ngoài ra, thông qua sông Tích, nước từ sông Đà có thể được dẫn trực tiếp vào
sông Đáy.
Tạo các vùng phân chậm lũ
Trong trường hợp mực nước sông Hồng tại Hà Nội tiếp tục vượt quá mức báo động
13.4 m thì tháo cống đê, hoặc cho nổ mìn đê sông Hồng để cho nước chảy vào một số
vùng thấp gần Việt Trì, như Tam Thanh ở tỉnh Phú Thọ, Lập Thạch ở tỉnh Vĩnh Phúc,
Lương Phú và Quảng Oai ở huyện Ba Vì tỉnh Hà Tây, và dọc theo sông Đáy, như
Chương Mỹ, Mỹ Đức, hoặc gần Phả Lại thuộc tỉnh Thái Bình. Tổng dung tích chứa lũ
của các vùng này ước tính vào khoảng 3 tỷ m3 (3, 6).
TỔ CHỨC QUẢN LÝ VÀ DỰ BÁO LŨ
Từ thời xa xưa, quản lý đê điều do Hà Đê Chánh Sứ (tương tự chức Bộ Trưởng bây
giờ) của triều đình do vua bổ nhiệm. Cấp thừa hành thấp nhất là làng xả, có nhiệm vụ
bảo trì, báo cáo lên cấp trên, những vấn đề thuộc đê điều trong phạm vi làng xả của
mình. Ngày nay, quản lý bậc cao nhất là Thủ Tướng, các vị bộ trưởng liên hệ (Nông
nghiệp, Giao Thông, v.v.) ở cấp quốc gia, tới cấp tỉnh (hay thành phố), huyện và làng
xả. Mỗi xã đều có một đội quản lý đê xuống đến tận thôn/xóm. Các đội quản lý đê này
được các kỹ sư thuỷ lợi huyện tư vấn và hỗ trợ về mặt kỹ thuật (3).
Để dự đoán bảo lụt, một mạng lưới các trạm đo khí tượng và thuỷ văn theo
thời gian thực được sử dụng, cùng với các thông tin từ vệ tinh và dự báo thời tiết để
đưa vào các mô hình thuỷ văn và thủy lực, từ đó dự báo lưu lượng và mực nước trong
vùng đồng bằng sông Hồng. Hệ thống này có thể dự báo trước 1 ngày cho hồ Hoà
Bình, và khoảng 2 ngày cho Hà Nội để tiến hành những biện pháp thích hợp (3).
Các biện pháp phòng chống lũ được tiến hành khi mực nước ở cầu Long Biên
(Hà Nội) ở mức báo động. Việc điều tiết lũ ở lưu vực sông Hồng được tiến hành theo
các giai đoạn sau:
1. Phòng lũ bằng cách vận hành hồ Hoà Bình và Thác Bà,
2. Khi mực nước tại Hà Nội vượt quá 12.7 m, phân lũ qua Vân Cốc,
3. Khi mực nước tại Hà Nội đạt 13.40 m, phân lũ vào sông Đáy qua đập Đáy,
4. Khi dự báo thấy nước lũ còn tiếp tục tăng và đã phân lũ sông Đáy thì mở các vùng
phân chậm lũ khác bằng cách cho nổ mìn phá đê hoặc vận hành đập tràn cứu hộ vào
các vùng chặn lũ xung quanh Việt Trì và Phả Lại.
NHỮNG TRẬN VỠ ĐÊ TRONG LỊCH SỬ:
Trong thời Nhà Nguyễn, cứ vài ba năm là có một trận lũ lớn phá đê. Vì vậy, vua Tự
Đức đã triệu tập triều đình để hội ý là nên giữ đê hay phá đê, và nếu giữ đê thì tìm
biện pháp nào để trị lũ lụt. Những trận lụt lớn có ghi trong sử là: 1078, 1121, 1236,
1238, 1243, 1270, 1445, 1467, 1491, 1506, 1630, 1713, 1728, 1806, 1809, 1821, 1827,
1844, 1893 (13). Kể từ đầu thế kỷ 20 tới nay, đồng bằng sông Hồng đã có 26 trận lũ
lớn. Các trận lũ lớn này đa số xảy ra vào tháng 8, nhằm vào cao điểm của mùa mưa
bão (28).
Năm 1913, ngày 9 tháng 8, mực nước tại Hà Nội đạt 11.35 m làm vỡ đê sông
Hồng ở đoạn đê thuộc tỉnh Vĩnh Phúc trên 2 đoạn phía tả ngạn tại Nhật Chiên, Cẩm
Viên và Hải Bối, Yên Hoa thuộc Phúc Yên; vỡ đê Phu Chu thuộc tỉnh Thái Bình.
Ngày 14 tháng 8, khi lũ Hà Nội xuống mức 10.69 m vẫn vỡ đê Lương Cổ, tả ngạn
sông Đáy thuộc tỉnh Hà Nam. Ngày 17 tháng 8, vỡ đê Phương Độ, Sơn Tây phía hữu
ngạn sông Hồng khi mực nước Hà Nội là 11.11 m. Ngày 18 tháng 8, vỡ đê Nghĩa Lộ
phía hữu ngạn thuộc tỉnh Hà Nam, khi mực nước Hà Nội 11.03 m. Ngày 19 tháng 8,
vỡ đê Quang Thừa, Lỗ Xá sông Đáy phía hữu ngạn thuộc tỉnh Hà Nam, khi mực nước
Hà Nội 10.99 m. Nước lũ làm ngập gần hết tỉnh Vĩnh Phúc (cũ), một phần Hà Tây,
Nam Định, Hà Nam, Thái Bình và Bắc Ninh (28).
Năm 1915, từ ngày 11 đến 20 tháng 8: Đê bị vỡ liên tiếp 42 chỗ với tổng
chiều dài 4,180 m (từ 11 – 20/7/1915 khi mực nước Hà Nội dao động từ 11.55 – 11.64
m). Những nơi vỡ chính như: Xâm Dương, Xâm Thị đê hữu sông Hồng thuộc tỉnh Hà
Đông. Các chỗ vỡ khác như Lục Cảnh, Hoàng Xá, Trung Hà tỉnh Phúc Yên; Phi Liệt,
Thuỷ Mạo tỉnh Bắc Ninh. Đê tả sông Hồng, vỡ ở: Mễ Chân tỉnh Hưng Yên; Gia Quất,
Gia Thượng, Phú Tòng, Yên Viên, Đông Thụ, Danh Nam tỉnh Bắc Ninh và một số
chỗ khác trên sông Phó Đáy, Đuống và sông Đáy (28).
Năm 1926, ngày 29 tháng 7, khi mực nước Hà Nội lên tới 11.93 m thì vỡ đê tả
ngạn sông Hồng vùng Gia Quất, Ái Mộ, Gia Lâm tỉnh Bắc Ninh; vỡ đê hữu ngạn sông
Luộc tại Hạ Lao, Văn Quán tỉnh Thái Bình; vỡ đê tả ngạn sông Luộc tại Bô Dương,
tỉnh Hải Dương. Tổng diện tích đất canh tác bị ngập lụt do vỡ đê khoảng 100,000 ha
(28). Hà nội lúc này chưa đắp đê cao như hiện nay nên lũ sông Hồng uy hiếp trực tiếp
Thành phố Hà Nội. Kể từ đây đê được nâng cao lên 14 m. Nhiều tuyến đê được nắn
lại, hai sườn đê được đắp không đối xứng đảm bảo chống chịu nước lũ tốt hơn (19).
Năm 1945. Một trận lũ lớn vào tháng 8 năm 1945 gây vỡ đê tại 79 điểm, gây
ngập 11 tỉnh với tổng diện tích 312,000 ha, ảnh hưởng tới cuộc sống của 4 triệu người
(28)
Năm 1971, ảnh hưởng những trận mưa to liên tục và một cơn bão lớn, nước
trên sông Thao, sông Lô và sông Đà đã hợp lại gây nên cơn lũ lịch sử của đồng bằng
sông Hồng. Mực nước sông Hồng ngày 20 tháng 8 lên đến 14.13 m ở Hà Nội (cao
hơn mực nước báo động cấp III đến 2.63 m). Mực nước Sông Hồng đo được 18.17 m
ở Việt Trì (cao hơn 2.32 m mức báo động cấp III) và 16.29 m ở Sơn Tây (1.89 m cao
hơn mức báo động cấp III). Đồng thời mực nước ở các Sông Cầu, Sông Lô, Sông
Thái Bình lên cao hơn bao giờ hết. Mưa lũ năm 1971 đã gây vỡ đê ở ba địa điểm, làm
chết 100,000 nguời, úng ngập 250,000 ha và hơn 2,7 triệu người bị thiệt hại (28).
Năm 1996. Ngày 24 tháng 7 năm 1996 bảo Frankie với gió 100 km/giờ gây lụt
lội hơn 177,000 ha bị úng ngập, mưa bảo làm 100 người bị thiệt mạng, và 194,000
căn nhà bị hư hại. Không có tường trình vở đê (16).
Năm 2008. Trận mưa lớn nhất trong 35 năm đổ xuống ngày 31/10 và
1/11/2008 với hơn 600 mm biến Hà Nội và nhiều vùng khác trong đồng bằng Sông
Hồng thành biển nước. Thành phố Hà Nội có hệ thống thoát nước chỉ chịu đựng được
lượng mưa tối đa 86 mm mới không bị ngập lụt.
Mực nước lúc 16 giờ ngày 4/11/2008 trên sông Thao tại Yên Bái là 31.94 m
(dưới mức báo động III là 0.06m); trên sông Lô tại Tuyên Quang là 25.77 m (dưới
báo động III là 0.23 m); trên sông Cầu tại Đáp Cầu là 5.93 m, (trên báo động III là
0.13 m); hạ lưu sông Hồng tại Hà Nội là 9.1 m (dưới báo động I là 0.4 m); sông Thái
Bình tại Phả Lại là 4.76 m (trên báo động II là 0.26 m); sông Thương tại Phủ Lạng
Thương là 5.34 m (dưới báo động III là 0.46 m). Tại Hà Đông, chiều 4/11, nước sông
Nhuệ tràn qua mặt đê, mực nước lên tới 6.17 m. Hàng loạt các hồ chứa nước của Hà
Nội và một số tỉnh lân cận bị quá tải. Tại Hồ Miễu, hồ Đồng Đò, hồ Kèo Cà, hồ Bàn
Tiện, hồ Đền Sóc (huyện Chương Mỹ), mực nước lên cao vào chiều tối và tràn bờ.
Nhiều hồ khác lên mức tràn xả lũ là hồ Cầu Bãi, hồ Đồng Đò, hồ Đồng Quan, hồ Cầu
Dọc.
Tuyến đê sông Hồng có 13 vị trí hư hỏng tại các huyện Mê Linh, Đan Phượng,
Từ Liêm, Đông Anh, Long Biên, Sóc Sơn. Tuyến đê tả Bùi, tả Tích đã tràn hầu hết
tuyến. Tuyến sông Nhuệ và Duy Tiên (Hà Nam) có tổng cộng 6,000 m đê bị tràn.
Điểm Châu Can, Bạch Hạ, Đại Xuyên bị sụt. Tại Ninh Bình đê trên sông Hoàng Long
bị vỡ, hàng ngàn nhà ở Nho Quan bị ngập lụt (22).
Tổng số người chết ở Miền Bắc là 92, riêng Hà Nội 22 người, thiệt hại kinh tế
lên đến gần 5,000 tỷ đồng. Mưa lũ kéo dài cũng khiến cho khoảng 169 km đê nội
đồng kinh mương hư hỏng; hơn 266,000 ha diện tích hoa màu và thủy sản bị ngập
úng; hàng trăm nghìn nhà cửa bị sập đổ và hư hại (21).
TẠI SAO HÀ NỘI BỊ LỤT?
Trận lũ tháng 11/2008 tại Hà Nội và đồng bằng sông Hồng không lớn lắm.
Mặc dầu mưa to gió lớn liên tục trong ba ngày, mực nước sông tại Hà Nội vẫn dưới
mức báo động, hệ thống đê sông Hồng và Thái Bình vẫn vửng chắc, không bị phá vở
nhiều nơi như trận lụt năm 1971. Các hồ chứa và biện pháp phân lũ cũng như hệ
thống đê chứng tỏ có hiệu quả. Tuy nhiên, Hà Nội và nhiều thành phố lớn khác ngập
trong biển nước trong nhiều ngày. Lý do của việc thất bại bảo vệ thủ đô Hà Nội là do:
(i) Xây cất nhà cửa, chiếm cứ đất đai trên mặt đê làm đê yếu, rạn nức
khoảng 40 địa điểm (25).
(ii) Đường sá phát triển và nhà cửa xây cất vô trật tự cản trở thoát
nước.
(iii) Các hồ trong thành phố cạn, thiếu nạo vét, hệ thống phân lưu quá
tải và tắt nghẻn, nhiều kinh mương và hồ bị lấp nên thiếu đường
thoát nước
(iv) Hệ thống tháo nước của thành phố quá yếu kém, chỉ cần một trận
100 mm là có nhiều vùng bị ngập, nếu mưa 200 mm là nguyên
thành phố bị ngập. Tổng số nước mưa tại Hà Nôi trong ngày 31/10
và 1/11 hơn 600 mm, dĩ nhiên ngập lụt xảy ra do mưa, chứ không
phải do vỡ đê. Hơn 90 % máy bơm không chạy được trong thời
gian có lụt (7).
Trên phạm vi của đồng bằng sông Hồng, quá trình đô thị hóa, chiếm hửu đất mặt đê
để xây nhà cửa, và mất đất nông nghiệp làm hệ thống phân lũ và thoát nước yếu kém.
CÁC TRANH LUẬN
Nên hay không nên thiết lập đê sông ngăn ngừa lũ lụt vẫn là một đề tài tranh luận ở
mọi nơi và mọi thời đại.
Việc chống đối thiết lập đê dựa vào các lý do sau:
– Phù sa không vào đồng ruộng, mà lắng đọng trong lòng sông, bờ đê, sông trở
nên cạn và hung dử, xoi mòn bờ và phá đê khi có lũ lớn. Đáy sông ngày càng
cạn, tạo các cồn và bải bồi ở cửa sông, làm khả năng thoát lũ càng chậm.
– Các vùng trủng (ở Hưng Yên, Hà Nam, Nam Định…) vẫn tồn tại sau hàng
ngàn năm, vì không được phù sa bồi đắp.
– Đê phải nâng ngày càng cao và to hơn, hể củng cố nơi này thì nạn đê vỡ xảy ra
nơi khác, lũ lụt vẫn xảy ra.
– Nguồn lợi cá và thủy sản khác trên đồng ruộng và sông bị giảm.
– Con người đã có kinh nghiệm sống chung với lũ lụt. Tìm biện pháp sống
chung hơn là tr