Thông tin

Số điện thoại

Email

Website

Địa chỉ

Léo Ferré

Léo Ferré (1916-1993) là một trong ba chàng "ngự lâm" của ca khúc Pháp, được quần chúng âu yếm gọi là ca sĩ-thi sĩ hay thi sĩ-ca sĩ, cùng với Georges Brassens và Jacques Brel. Riêng tôi, tôi muốn thêm một người nữa: Charles Trenet. Sinh tại Monaco ngày 24.8.1916, cha Léo Ferré làm giám đốc sòng bạc Casino nổi tiếng của hầu quốc này. Theo lời nhà văn Michel Tournier, thì: "Những năm đầu của thời thơ ấu anh là học sinh nội trú trung học Saint-Charles ở Bordighera do các linh mục trông nom. Bordighera là một tỉnh lẻ trên bờ biển Ý-đại-lợi cách hầu quốc Monaco hai mươi lăm cây số. Ở đấy anh bị húi tóc, bắt mặc đồng phục, đội mũ cát và đọc kinh sùng đạo nhiều giờ mỗi ngày. Và như vậy trong tám năm ròng." Nếu muốn áp dụng phân tâm học, ta có thể coi khoảng thời gian đó như là mầm mống của tinh thần bất khuất, nổi loạn, vô chính phủ, chống-thủ cựu, chống-tôn giáo cao độ và thường trực ở Léo Ferré. Nhưng tôi nghĩ tốt hơn ta không nên đặt tin tưởng quá nhiều vào các lý thuyết của Freud, để giải thích một cách quá suôn sẻ, dễ dàng mọi vấn đề tâm lý, mọi hành vi hay phẩm hạnh, rất phức tạp của một cá nhân. André Breton coi Léo Ferré là một trong số các nhà thơ lớn của thế kỷ 20. Benjamin Péret đã chọn một bài thơ của Ferré ("L''Amour") cho vào tuyển tập Anthologie de l''amour sublime [Tuyển tập tình yêu tuyệt vời (Albin Michel, 1956)] do ông biên soạn, đặt Léo Ferré ngang hàng với André Breton và Saint-John Perse, ba nhà thơ đương thời còn sống duy nhất có mặt trong tuyển tập này. Nhận định của Breton: "Ta cần viết lại văn học sử khác đi một tí, chỉ vì Léo Ferré." Léo Ferré sáng tác không ngừng, sáng tác rất nhiều. Ông có một lượng tác phẩm mênh mông. Không chỉ hướng về ca khúc "nhạc nhẹ", mà gồm cả nhạc cổ điển, nhạc opera (La Vie d''artiste, 1954; L''Opéra du pauvre, 1956), nhạc oratorio (La chanson du mal-aimé, thơ Apollinaire, 1954, với dàn nhạc giao hưởng Monte-Carlo, nhờ sự mến mộ của Ông Hoàng Monaco), và điều khiển các dàn nhạc giao hưởng. Ngoài ra ông cũng có viết nhạc cho thơ Rutebeuf, Villon, Baudelaire, Verlaine, Aragon, Rimbaud (Le bateau ivre, 1982; Une saison en enfer, 1991), Apollinaire (Le pont Mirabeau). Như Georges Brassens, Léo Ferré thường làm thơ trước khi sử dụng thơ để làm ca từ. Ông sáng tác mọi thể thơ: cổ điển, tự do, văn xuôi, và ông có viết một cuốn tiểu thuyết chứa đựng nhiều tự sự đời tư — Benoit Misère (Robert Laffont, 1970). Ông đã sống những ngày đen tối ở Saint-Germain-des-Prés trước khi nếm mùi vinh quang và trở thành huyền thoại — huyền thoại của ca nhạc Pháp và của khu phố nghệ sĩ sau thế chiến thứ hai, đã quá vãng. Tất nhiên, ông tả khuynh, có liên hệ với Đảng Cộng Sản Pháp, có xuống đường trong tháng Năm 68, nhưng ông luôn luôn giữ được tinh thần độc lập. Tất nhiên thơ Léo đầy nhạc, và nhạc Ferré ngập thơ. Thơ, nhạc Léo Ferré vẫn nói về tình yêu, thời gian, sự sống, cái chết... những đề tài vĩnh hằng của thơ ca, nhưng với một cái nhìn hoàn toàn khác lạ, dù ông cũng thuộc nòi thi sĩ "đi trên trời xanh đầu bước trong thành phố, bước trong kinh hoàng đầu đi trên hoang đảo" đã tuyệt giống. Dòng Seine vẫn chảy trong thơ Léo Ferré, như nó đã chảy trong thơ Villon, Apollinaire, Aragon, Prévert, Francis Carco, Pierre Mac Orlan... nhưng Paris của ông không là một thành phố sến của "chuyến métro về Belleville", của "ga Lyon đèn vàng", của "Paris có gì lạ không em". Léo Ferré mất ngày14.7.1993, sau cơn bạo bịnh, thọ 77 tuổi. Tác phẩm chính: Poète... vos papiers! [Thi sĩ... cho xem giấy tờ! (La Table ronde. 1956)]; Léo Ferré (Seghers, 1962); Testament phonographe [Chúc thư máy hát (Édition Poche 10/18, 2001)]; La Mauvaise Graine [Mầm mống xấu (Livre de Poche, 2000)]... Vài ca khúc bất hủ: Jolie môme, Paris canaille, Les poètes, Le piano du pauvre, Paname, Avec le temps, Merde à Vauban... Nguồn: http://tienve.org/home/li...rtwork&artworkId=4528 Léo Ferré (1916-1993) là một trong ba chàng "ngự lâm" của ca khúc Pháp, được quần chúng âu yếm gọi là ca sĩ-thi sĩ hay thi sĩ-ca sĩ, cùng với Georges Brassens và Jacques Brel. Riêng tôi, tôi muốn thêm một người nữa: Charles Trenet. Sinh tại Monaco ngày 24.8.1916, cha Léo Ferré làm giám đốc sòng bạc Casino nổi tiếng của hầu quốc này. Theo lời nhà văn Michel Tournier, thì: "Những năm đầu của thời thơ ấu anh là học sinh nội trú trung học Saint-Charles ở Bordighera do các linh mục trông nom. Bordighera là một tỉnh lẻ trên bờ biển Ý-đại-lợi cách hầu quốc Monaco hai mươi lăm cây số. Ở đấy anh bị húi tóc, bắt mặc đồng phục, đội mũ cát và đọc kinh sùng đạo nhiều giờ mỗi ngày. Và như vậy trong tám năm ròng." Nếu muốn áp dụng phân tâm học, ta có thể coi khoảng thời gian đó như là mầm mống của ti…

Léo Ferré (1916-1993) là một trong ba chàng "ngự lâm" của ca khúc Pháp, được quần chúng âu yếm gọi là ca sĩ-thi sĩ hay thi sĩ-ca sĩ, cùng với Georges Brassens và Jacques Brel. Riêng tôi, tôi muốn thêm một người nữa: Charles Trenet.

Sinh tại Monaco ngày 24.8.1916, cha Léo Ferré làm giám đốc sòng bạc Casino nổi tiếng của hầu quốc này. Theo lời nhà văn Michel Tournier, thì: "Những năm đầu của thời thơ ấu anh là học sinh nội trú trung học Saint-Charles ở Bordighera do các linh mục trông nom. Bordighera là một tỉnh lẻ trên bờ biển Ý-đại-lợi cách hầu quốc Monaco hai mươi lăm cây số. Ở đấy anh bị húi tóc, bắt mặc đồng phục, đội mũ cát và đọc kinh sùng đạo nhiều giờ mỗi ngày. Và như vậy trong tám năm ròng." Nếu muốn áp dụng phân tâm học, ta có thể coi khoảng thời gian đó như là mầm mống của tinh thần bất khuất, nổi loạn, vô chính phủ, chống-thủ cựu, chống-tôn giáo cao độ và thường trực ở Léo Ferré. Nhưng tôi nghĩ tốt hơn ta không nên đặt tin tưởng quá nhiều vào các lý thuyết của Freud, để giải thích một cách quá suôn sẻ, dễ dàng mọi vấn đề tâm lý, mọi hành vi hay phẩm hạnh, rất phức tạp của một cá nhân. André Breton coi Léo Ferré là một trong số các nhà thơ lớn của thế kỷ 20. Benjamin Péret đã chọn một bài thơ của Ferré ("L'Amour") cho vào tuyển tập Anthologie de l'amour sublime [Tuyển tập tình yêu tuyệt vời (Albin Michel, 1956)] do ông biên soạn, đặt Léo Ferré ngang hàng với André Breton và Saint-John Perse, ba nhà thơ đương thời còn sống duy nhất có mặt trong tuyển tập này. Nhận định của Breton: "Ta cần viết lại văn học sử khác đi một tí, chỉ vì Léo Ferré."

Léo Ferré sáng tác không ngừng, sáng tác rất nhiều. Ông có một lượng tác phẩm mênh mông. Không chỉ hướng về ca khúc "nhạc nhẹ", mà gồm cả nhạc cổ điển, nhạc opera (La Vie d'artiste, 1954; L'Opéra du pauvre, 1956), nhạc oratorio (La chanson du mal-aimé, thơ Apollinaire, 1954, với dàn nhạc giao hưởng Monte-Carlo, nhờ sự mến mộ của Ông Hoàng Monaco), và điều khiển các dàn nhạc giao hưởng. Ngoài ra ông cũng có viết nhạc cho thơ Rutebeuf, Villon, Baudelaire, Verlaine, Aragon, Rimbaud (Le bateau ivre, 1982; Une saison en enfer, 1991), Apollinaire (Le pont Mirabeau). Như Georges Brassens, Léo Ferré thường làm thơ trước khi sử dụng thơ để làm ca từ. Ông sáng tác mọi thể thơ: cổ điển, tự do, văn xuôi, và ông có viết một cuốn tiểu thuyết chứa đựng nhiều tự sự đời tư — Benoit Misère (Robert Laffont, 1970). Ông đã sống những ngày đen tối ở Saint-Germain-des-Prés trước khi nếm mùi vinh quang và trở thành huyền thoại — huyền thoại của ca nhạc Pháp và của khu phố nghệ sĩ sau thế chiến thứ hai, đã quá vãng.

Tất nhiên, ông tả khuynh, có liên hệ với Đảng Cộng Sản Pháp, có xuống đường trong tháng Năm 68, nhưng ông luôn luôn giữ được tinh thần độc lập. Tất nhiên thơ Léo đầy nhạc, và nhạc Ferré ngập thơ. Thơ, nhạc Léo Ferré vẫn nói về tình yêu, thời gian, sự sống, cái chết... những đề tài vĩnh hằng của thơ ca, nhưng với một cái nhìn hoàn toàn khác lạ, dù ông cũng thuộc nòi thi sĩ "đi trên trời xanh đầu bước trong thành phố, bước trong kinh hoàng đầu đi trên hoang đảo" đã tuyệt giống. Dòng Seine vẫn chảy trong thơ Léo Ferré, như nó đã chảy trong thơ Villon, Apollinaire, Aragon, Prévert, Francis Carco, Pierre Mac Orlan... nhưng Paris của ông không là một thành phố sến của "chuyến métro về Belleville", của "ga Lyon đèn vàng", của "Paris có gì lạ không em". Léo Ferré mất ngày14.7.1993, sau cơn bạo bịnh, thọ 77 tuổi.

Tác phẩm chính: Poète... vos papiers! [Thi sĩ... cho xem giấy tờ! (La Table ronde. 1956)]; Léo Ferré (Seghers, 1962); Testament phonographe [Chúc thư máy hát (Édition Poche 10/18, 2001)]; La Mauvaise Graine [Mầm mống xấu (Livre de Poche, 2000)]... Vài ca khúc bất hủ: Jolie môme, Paris canaille, Les poètes, Le piano du pauvre, Paname, Avec le temps, Merde à Vauban...

Nguồn: http://tienve.org/home/li...rtwork&artworkId=4528
Léo Ferré (1916-1993) là một trong ba chàng "ngự lâm" của ca khúc Pháp, được quần chúng âu yếm gọi là ca sĩ-thi sĩ hay thi sĩ-ca sĩ, cùng với Georges Brassens và Jacques Brel. Riêng tôi, tôi muốn thêm một người nữa: Charles Trenet.

Sinh tại Monaco ngày 24.8.1916, cha Léo Ferré làm giám đốc sòng bạc Casino nổi tiếng của hầu quốc này. Theo lời nhà văn Michel Tournier, thì: "Những năm đầu của thời thơ ấu anh là học sinh nội trú trung học Saint-Charles ở Bordighera do các linh mục trông nom. Bordighera là một tỉnh lẻ trên bờ biển Ý-đại-lợi cách hầu quốc Monaco hai mươi lăm cây số. Ở đấy anh bị húi tóc, bắt mặc đồng phục, đội mũ cát và đọc kinh sùng đạo nhiều giờ mỗi ngày. Và như vậy trong tám năm ròng." Nếu muốn áp dụng phân tâm học, ta có thể coi khoảng thời gian đó như là mầm mống của ti…
Bài liên quan

Chu Hậu Thông 朱厚熜, Minh Thế Tông

Chu Hậu Thông 朱厚熜 (1507-1566) là tên của Minh Thế Tông 明世宗, hoàng đế thứ 11 của vương triều Đại Minh, cháu nội của Minh Hiến Tông (Chu Kiến Thâm), cháu gọi Minh Hiếu Tông Chu Hựu Đường bằng bác ruột. Thân sinh là Hưng Hiếu Vương (Chu Hựu Hằng, con trai của Minh Hiếu Tông), thân mẫu người họ Tưởng, ...

Marcel Proust

Marcel Proust (1871-1922) là nhà văn, nhà thơ Pháp. Ông sinh và mất ở Paris. Marcel Proust là tác giả bộ trường thiên tiểu thuyết "Đi tìm thời gian đã mất" được xuất bản từ năm 1913 đến năm 1926. Một số tập trong bộ trường thiên tiểu thuyết trên đã được dịch ra tiếng Việt.

Korney Ivanovich Chukovskiy Корней Иванович Чуковский

Korney Ivanovich Chukovskiy (Корней Иванович Чуковский, 1882-1969) sinh tại St. Petersburg, mất tại Moskva, là một nhà thơ, nhà văn, dịch giả, nhà báo người Nga.

Chu Phác 周樸

Chu Phác 周樸 (?-878) tự Kiến Tố 見素 (có nơi nói Thái Phác 太樸), người Ngô Hưng. Theo "Đường tài tử truyện", ông năm sinh không rõ, mất vào năm Càn Phù thứ 5 đời Đường Hy Tông (878). Ông chú trọng làm thơ, ẩn cư ở núi Tung Sơn, thường qua lại cùng với bạn thơ là sư Quán Hưu 貫休, không đoái hoài công ...

Chu Hối 朱晦

Chu Hối 朱晦 người đời Đường, không rõ năm sinh mất, sinh quán và lai lịch, có một bài chép trong Toàn Đường thi nhưng nội dung khá giống thơ của Chu Phóng 朱放, có lẽ là thơ của Chu Phóng dị truyền.

Chu Thục Chân 朱淑真

Chu Thục Chân 朱淑真 tự hiệu U Thê cư sĩ 幽棲居士, người Tiền Đường (Giang Tô), thế kỷ XI. Nàng thông đọc sách, làm thơ từ nhỏ, nhưng sớm làm dâu nhà buôn bán, lấy phải người chồng thô bỉ nên sống một đoạn đời buồn nản, uất ức và qua đời sớm. Sau khi nàng qua đời, Nguỵ Thuỵ Lễ ở Uyển Lăng tập hợp các tác ...

Mikhail Alexandrovich Dudin Михаил Александрович Дудин

Mikhail Dudin (1916-1994, St.Petersburg) là nhà thơ Nga trưởng thành từ trong cuộc chiến tranh Vệ quốc vĩ đại (1941- 1945) từ một đơn vị lính trinh sát. Sau chiến tranh, ông thường in thơ ở Leningrad (tức St.Petersburg ngày nay). Mikhail Dudin được phong tặng danh hiệu Anh hùng lao động XHCN năm ...

Marie Stuart

Marie Stuart (1542-1587) là nữ hoàng Scotland, hoàng hậu nước Pháp, sinh ra tại Linlithgow (Scotland), chưa đầy 6 tuổi sang Pháp sống từ 1542 tới năm 1561, mất tại Fotheringhay (Anh). Thơ tiếng Pháp của bà được đánh giá cao, là các tác phẩm kinh điển lớn trong kho tàng văn học Pháp.

Paul Déroulède

Paul Déroulède (1846-1914) là nhà thơ, nhà viết kịch, tiểu thuyết gia và chính khách Pháp. Ông sinh ở Paris và mất ở Boron, thọ 68 tuổi. Paul Déroulède là học trò xuất sắc nhất của Pierre-Jean de Béranger (1780-1857, tác giả tập "Những hành khúc cách mạng"). Sau cuộc chiến tranh Pháp-Đức mà Paul ...

Théodore de Banville

Théodore de Banville (1823-1891) sinh tại Moulins và mất tại Paris. Là môn đệ của Théophile Gautier (chủ soái phái Thi Sơn). Là thế hệ thứ hai của phong trào Nghệ thuật vị nghệ thuật. Là nhà thơ rất chú trọng hình thức, ông đi đến quá khích khi coi thi ca là một chuyện chắp vần vì " vần là tất cả ...

Mới nhất

THPT Đinh Tiên Hoàng

THPT Đinh Tiên Hoàng đang không ngừng nỗ lực phát triển trở thành một ngôi trường với chất lượng giảng dạy tốt nhất, tạo ra những thế hệ học sinh chất lượng

THPT Thực nghiệm

Trường THPT Thực Nghiệm trực thuộc Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam. Trường là cơ sở giáo dục đào tạo công lập trong hệ thống giáo dục quốc dân và trong hệ thống các trường phổ thông của thành phố Hà Nội. Trường dạy học theo chương trình giáo dục Trung học phổ thông của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Tiếp ...

THPT Đông Kinh

Khẩu hiệu hành động: “ Hãy đặt mình vào vị trí cha mẹ học sinh để giảng giải giáo dục và xử lý công việc ” “ Tất cả vì học sinh thân yêu ”

THPT Hà Nội Academy

Những rào cản còn tồn tại kể trên sẽ được vượt qua bởi những công dân toàn cầu tích cực với nhiệm vụ chung tay xây dựng một thế giới tốt đẹp hơn thông qua việc nghiên cứu và tìm kiếm giải pháp cho những vấn đề toàn cầu bao gồm, nhưng không giới hạn ở nhân quyền, đói nghèo và công bằng xã hội. Nhận ...

http://thptkimlien-hanoi.edu.vn/

Qua 40 năm nỗ lực phấn đấu trong các hoạt động giáo dục, vượt khó khăn, thiếu thốn về cơ sở vật chất, trường THPT Kim Liên đã tạo dựn được uy tín vững chắc, là 1 trong 5 trường THPT hàng đầu của Thủ đô có chất lượng giáo dục toàn diện không ngừng nâng cao và trở thành địa chỉ tin cậy của các bậc ...

THPT Tô Hiến Thành

Trường THPT Tô Hiến Thành được thành lập từ năm học 1995-1996, theo quyết định của Ủy Ban nhân dân tỉnh Thanh Hóa. Đến tháng 6/2010, trường chuyển đổi loại hình sang công lập. Suốt 20 năm phát triển, thầy, cô giáo, thế hệ học sinh đã phấn đấu vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, từng bước phát triển ...

THPT Mai Hắc Đế

Trường THPT Mai Hắc Đế được thành lập năm 2009, sau gần 10 năm xây dựng và phát triển, Trường đã trở thành một địa chỉ tin cậy trong đào tạo bậc THPT trên địa bàn Hà Nội.

Trường Trung học phổ thông Nguyễn Gia Thiều

Nhìn lại chặng đường gần 60 năm xây dựng và trưởng thành , các thế hệ giáo viên và học sinh trường Nguyễn Gia Thiều có thể tự hào về truyền thống vẻ vang của trường ; tự hào vì trường đã đóng góp cho đất nước những Anh hùng , liệt sĩ , những người chiến sĩ , nhà khoa học , trí thức , những cán bộ ...

Trường Trung học phổ thông MV.Lô-mô-nô-xốp

Sứ mệnh Xây dựng Hệ thống giáo dục Lômônôxốp có môi trường học tập nền nếp, kỉ cương, chất lượng giáo dục cao; học sinh được giáo dục toàn diện, có cơ hội, điều kiện phát triển phẩm chất, năng lực và tư duy sáng tạo, tự tin hội nhập.

Trường Trung học phổ thông Quốc tế Việt Úc Hà Nội

Trường thực hiện việc giảng dạy và học tập theo chương trình do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành, thực hiện thời gian học tập theo biên chế năm học do Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định. Song song với chương trình này là chương trình học bằng tiếng Anh được giảng dạy bởi đội ngũ giáo viên bản ngữ giàu ...