24/05/2018, 21:24

Kinh nghiệm cổ phần hóa của một số nước trên thế giới

Trung Quốc bắt đầu thí điểm cổ phần hoá những năm 1980, họ đã gặt hái được một số kinh nghiệm đáng chú ý. Từ ngày 22-25/8/1993 tại Hàng Châu chính phủ tổ chức hội nghị thảo luận về ba năm thực hiện CPH . Chỉ tính 5 tỉnh của thành phố ...

Trung Quốc bắt đầu thí điểm cổ phần hoá những năm 1980, họ đã gặt hái được một số kinh nghiệm đáng chú ý. Từ ngày 22-25/8/1993 tại Hàng Châu chính phủ tổ chức hội nghị thảo luận về ba năm thực hiện CPH .

Chỉ tính 5 tỉnh của thành phố - Thẩm D­ơng,Th­ợngHải ,Bắc Kinh ,Quảng Châu, Thiểm Tây đã có trên 1500 xí nghiệp quốc doanh CPH vơí số vốn lên tới hàng chục tỉ nhân dân tệ.Ngày 25/7/1984 thành lập công ty cổ phần của cả nước với số vốn cổ phần bên ngoài công ty lên tới 5318000 nhân dân tệ chiếm 73,6% tổng giá trị của doanh nghiệp . Hình thức cổ phần ở Trung Quốc .

  • Cơ cấu cổ phần.

Cơ cấu cổ phần của doanh nghiệp gồm:Cổ phần Nhà nước,cổ phần cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp và cá nhân ngoài doanh nghiệp.

  • Chế độ cổ phần hữu hạn.

Vốn cổ phần cuả các xí nghiệp này do những xí nghiệp Nhà nước,tập thể và tư nhân góp.

  • Chế độ cổ phần hỗn hợp

Cổ phần của các xí nghiệp là sự hỗn hợp cổ phần trong nội bộ và cổ phần ngoài xã hội.Chúng bao gồm cổ phần Nhà nước,cổ phần xí nghiệp ,cổ phần các tổ chức kinh doanh và cổ phần cá nhân.

  • Xác định cổ phần hoá.

Việc xác định cổ phần hoá nhằm làm rõ vai trò sở hữu của người sở hữu cổ phần. Căn cứ vàovốn đầu tư để chia quền sở hữu cổ phần.Tổng số cổ phần được chia làm 4 loại:Cổ phần Nhà nước,cổ phần xã hội,cổ phần cá nhân.Cổ phần Nhà nước chủ yếu là tài sản được hình thành do đầu tư của Nhà nước vào những xí nghệp thuộc sở hữu toàn dân bao gồm:Tài sản cố định vốn l­u động do Nhà nước cấp. Cổ phần nói chung là chỉ tài sản được hình thành từ lợi nhuận để lại cho xí nghiệp. Cổ phần xã hội là cổ phần mà các tầng lớp xã hội ở ngoài xí nghiệp mua. Cổ phần cá nhân mà công nhân trong xí nghiệp và nhân dân mua từ thu nhập cá nhân từ nguồn vốn nhàn dỗi của họ.

  • Về phân phối lợi nhuận.

Nhìn chung có 3 cách phân phối lợi nhuận.

  • Lợi nhuận hình thành trước hết phải trả các khoản vay của ngân hàng,sau đó căn cứ các luật thuế để nộp các loại thuế cho Nhà nước phần lợi nhuận còn lại phân phối cho các quỹ,căn cứ vào số lượng các quỹ và tỷ lệ cụ thể cho mỗi quỹ do hội đồng quản trị quyết định căn cứ vào những quy định có liên quan của Nhà nước.
  • Hạ thấp mức thuế doanh thu:Phầncòn lại sau khi nộp thuế trả nợ sẽ đtôi phân bổ các quỹ.

Lợi nhuận thực hiện còn lại của xí nghiệp được phân bổ cho các quỹ sau khi nộp thuế,tiền phạt nếu chiếm dụng vốn của Nhà nước hoặc của các xí nghiệp khác,trả nợ và lãi vay nhân hàng.

  • Phân phối lợi tức cổ phần:

Cơ bản đều căn cứ vào vào tỷ lệ cổ phần để chia lợi tức được h­ởng khi hoạt động kinh doanh có lãi và chịu thiệt hại tổn thất khi thua lỗ.Lợi tức được phân chia dưới dạng một khoản thu nhập cố định hoặc dưới dạng biến động phụ thuộc vaò khối lượng lợi nhuận thu được trong quá trình sản xuất kinh doanh.

Tại mỗi nước khác nhau được hình thành bằng các con đ­ờng khác nhau và mức độ cũng khác nhau cụ thể như sau:

Bán các tài sản thuộc sở hữu Nhà nước, kể cả các doanh nghiệp Nhà nước đất, rừng, tài nguyên thuộc về sở hữu của Nhà nước. Điển hình phương thức này là Úc.

Thực hiện cải cách kinh tế nhưng không chấp nhận loại bỏ sở hữu Nhà nước.Trung Quốc,ấn Độ và Hàn Quốc là những nước thực hiện phương thức này.

Chấp nhận xoá bỏ quyền sở hữu Nhà nước.Các nước thực hiện cổ phần hoá theo khuynh hướng này là Philippin và Xrilanca.Người ta cho rằng quyền sở hữu thuộc Nhà nước haytưnhân không quan trọng họ chỉ cần doanh nghiệp nào mang lại lợi ích thiết thực cho các thành viên trong doanh nghiệp đó là cho các thành viên trong doanh nghiệp đó và xã hội.

Dù còn nhiều khác biệt song các bước tiến hành cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước ở hầu hết các nước thuộc khu vực này đều có những nét tương đồng.

Lập kế hoạch cổ phần hoá bao gồm: Đánh giá thực trạng và tiềm năng của doanh nghiệp,đề xuất loại hình mà doanh nghiệp thích hợp.

Xtôi xét các khía cạnh luật pháp những văn bản luật nào liên quan trực tiếp đến loại hình hoạt động của doanh nghiệp.Các hợp đồng mà xí nghiệp đã đăng ký thực hiện chúng đến đâu vấn đề tổ chức và quản lý sản xuất cả trước và sau khi cổ phần hoá. Các quan hệ công việc,đặc biệt là các vấn đề liên quan tới hợp đồng công việc. Các vấn đề về vốn kể cả vốn cố định và vốn l­u động,nhữnh khoản tín dụng nguồn vốn và khả năng,năng lực sản xuất của doanh nghiệp và các vấn đề liên quan.

Vấn đề cuối cùng là về thuế và vấn đề tài chính cần xử lý doanh nghiệp đã giải quyết đến đâu và còn những vướng mắc gì.

Sự phát triển ồ ạt doanh nghiệp Nhà nước và không xác định được quy mô hợp lýcủa khu vực này là một gánh nặng cho kế hoạch đầu t­,ở nhiều nước điều này vượt quá sức chịu đựng của nhiều nền kinh tế. Bởi vậy cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước là điều không thể tránh khỏi.

Để tiến hành cổ phần hoá có hiệu quả ở các nước hầu hết người ta lập các uỷ ban cơ quan chuyên trách quốc gia,cơ quan đó phải gồm những người được giao thực quyền.

Hình thức cổ phần hoá rất phong phú cách làm nhiều nước rất mềm dẻo dễ chấp nhận trong điều kiện có nhiều giới còn e ngại hoặc chống đối.Những bài học kinh nghiệm có thể rút ra từ việc nghiên cứu cổ phần hoá ở các nước trên thế giới là:

  • Cổ phần hoá phải được nghiên cứu toàn diện. Nó không phải là mục đích tự thân mà là một bộ phận trong một chư­ơng trình cải cách rộng lớn hơn.Nhằm thúc đẩy bố trí tốt hơn các nguồn lực , khuyến khích cạnh tranh tạo môi trường thuận lợi cho phát triển kinh tế, phát triển thị trường vốn.
  • Việc nghiên cứu thiếu thận trọng các phương án lựa chọn trước khi hành động có thể dẫn đến những sai sót tốn kém nhiều,ch­ơng trình bán xí nghiệp mới chỉ trú trọng đến hiệu quả thu hồi trước mắt nhưng lại chưa quan tâm tìm cách bảo đảm tài chính lâu dài.
  • Trong trường hợp thị trường vốn chưa phát triển thậm chí còn yếu kém thì việc cổ phần hoá cần phải thận trọng và phải cụ thể hoá trong chủ trương bán một phần tài sản, điều kiện tài chính là tiên quyết,nếu không trong tình trạng nền kinh tế sẽ bất thư­ờng. Nhiều nước đã thu hẹp thị trường tài sản của mình bằng cách giới hạn hoặc loại trừ sự tham gia cuả người nước ngoài xây dựng một chiến l­ợc cổ phần hoá và phân loại xí nghiệp quốc doanh là bước cấn thiết để làm sáng tỏ mục tiêu và quan điểm của của Nhà nước.
  • Việc cổ phần hoá yêu cầu phải có các cán bộ có trình độ quản lý một ch­ơng trình cổ phần hoá là công việc phức tạp trong khi các quan chức Chính phủ chưa có đầy đủ các năng lực cần thiết.Mặt khác Nhà nước th­ờng ở thế yếu trong th­ơng lượng các xí nghiệp không hấp dẫn ,lại thiếu thông tin,thiếu kinh nghiệm trong việc bán tài sản.Trong những trường hợpnhưvậy th­ờng thấy là tài sản bị đánh giá thấp hơn giá trị thực tế của nó.Cuối cùng điều cần phải có là sự công khai và lòng tin tư­ởng của quần chúng đối với ch­ương trình cổ phần hoá.

0