24/05/2018, 21:24

Tín dụng trung dài hạn của ngân hàng thương mại

Theo khái niệm trên, tín dụng trung, dài hạn của ngân hàng thương mại là các khoản cho vay của ngân hàng có thời hạn từ 20 đến 60 tháng nhưng không vượt quá thời gian khấu hao cần thiết của tài sản hình thành từ vốn vay. Mục đích vay ...

Theo khái niệm trên, tín dụng trung, dài hạn của ngân hàng thương mại là các khoản cho vay của ngân hàng có thời hạn từ 20 đến 60 tháng nhưng không vượt quá thời gian khấu hao cần thiết của tài sản hình thành từ vốn vay.

  • Mục đích vay vốn tín dụng trung, dài hạn:

Mục đích vay vốn là để phát triển sản xuất kinh doanh như: cải tiến kỹ thuật, mở rộng sản xuất, đầu tư xây dựng cơ bản mới, đầu tư cho các dự án phục vụ đời sống. Muốn thực hiện được như vậy thì trước hết phải có vốn để trang trải những chi phí cấu thành nên công trình, mua sắm thiết bị máy móc, đổi mới công nghệ. Những chi phí này không thể thu hồi ngay được do đó cần có thời gian thu hồi theo thời gian khấu hao tài sản của dự án, thường là trung và dài hạn.

  • Thời hạn, rủi ro và lãi xuất trong cho vay trung, dài hạn:

Tín dụng trung dài hạn phân biệt với tín dụng ngắn hạn chính là thời hạn của khoản tín dụng, là những khoản tín dụng có thời hạn trên 1 năm. Bởi thời hạn cũng là một yếu tố của rủi ro, thời hạn càng dài thì rủi ro càng lớn và chính vì vậy mà lãi suất càng cao để bù đắp rủi ro có thể xảy ra.

  • Nguyên tắc cho vay trung dài hạn:

Nguyên tắc sử dụng vốn vay và hoàn trả nợ gốc và lãi là nguyên tắc chung đối với mọi khoản tín dụng. Khách hàng phải đảm bảo sử dụng vốn vay đúng mục đích, có hiệu quả kinh tế xã hội cao và hoàn trả nợ gốc và lãi tiền vay đủ đúng hạn đã thoả thuận trong hợp đồng tín dụng. Ngân hàng đảm bảo thường xuyên kiểm tra, giám sát việc sử dụng vốn vay và đôn đốc khách hàng trả nợ gốc và lãi đầy đủ, đúng hạn.

  • Nguồn vốn để cho vay trung, dài hạn:

Nguồn vốn cho vay trung dài hạn được huy động từ các nguồn sau:

+ Nguồn vốn tự có : là nguồn vốn của bản thân ngân hàng, chủ yếu là trụ sở, trang thiết bị máy móc..., đây là nguồn vốn chiếm tỷ lệ rất nhỏ trong nguồn vốn cho vay trung dài hạn nhưng là một nguồn cho vay an toàn nhất.

+ Nguồn huy động trung dài hạn: là những nguồn huy động từ tiền gửi tiết kiệm trên 12 tháng, nguồn vốn huy động này cũng chiếm tỷ lệ nhỏ và tuỳ vào từng ngân hàng, từng địa bàn và từng thời điểm nhưng đây là nguồn vốn an toàn, rẻ nhất mà các ngân hàng muốn tập chung huy động.

+ Nguồn huy động lấy từ nguồn huy động ngắn hạn chuyển sang theo một tỷ lệ nhất định, ngân hàng xác định tỷ lệ phần trăm tùy thuộc vào sự biến động của lượng tiền gửi và rút ra của khách hàng để tạo ra một nguồn ổn định để cho vay trung, dài hạn. Nguồn trích này thường nhỏ và thường có rủi ro cao.

+ Đi vay NHNN: ngân hàng thường chỉ sử dụng nguồn này khi thấy thực sự khó khăn bởi còn phụ thuộc vào chính sách tiền tệ, điều kiện vay và các ràng buộc khác với NHNN thường gây nhiều khó khăn cho các NHTM.

+ Vay nợ nước ngoài: Đây là nguồn vốn huy động được với khối lượng lớn, lãi suất vừa phải nhưng lại phải chịu những điều kiện vay vốn đôi khi còn liên quan tới vấn đề chính trị nên nguồn này rất hạn chế.

+ Nguồn tài trợ uỷ thác: Nguồn này do ngân hàng được các tổ chức quốc tế chuyển một khoản vốn uỷ thác cho ngân hàng cho vay theo thoả thuận ký kết giữa hai bên. Ngân hàng thực hiện cho vay hay đầu tư theo chỉ định của nước ngoài và được hưởng một tỷ lệ phần trăm và chênh lệch lãi suất cho vay. Nguồn này có xu hướng ngày càng tăng do chính sách thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào trong nước.

Trong giai đoạn kinh tế thị trường hiện nay, cạnh tranh ngày càng trở nên gay gắt và quyết liệt hơn. Các doanh nghiệp muốn đứng vững và khẳng định mình trong thương trường thì phải luôn đổi mới, nhanh nhạy bắt kịp thị hiếu người tiêu dùng. Doanh nghiệp rất cần đến vốn trung dài hạn để đầu tư vào mua sắm trang thiết bị, xây dựng, cải tiến kỹ thuật, mua công nghệ…Do đó nhu cầu vốn trung dài hạn sẽ có xu hướng ngày càng tăng cao.

Tín dụng trung dài hạn được chia ra một số hình thức sau:

- Cho vay theo dự án:

Ngân hàng cho khách hàng vay vốn để thực hiện các dự án đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh, dịch vụ phục vụ đời sống

Đây là hình thức cấp tín dụng dựa trên cơ sở dự án sau khi đã xem xét và khẳng định tính hiệu quả, khả thi của nó. Như vậy cho vay của ngân hàng không chỉ đơn thuần là cho vay mà còn phải thẩm định các vấn đề như: phương án sản xuất kinh doanh có hiệu quả không, tư cách khách hàng, khả năng tài chính của khách hàng, tài sản đảm bảo .... Việc cấp một khoản tín dụng sẽ ràng buộc ngân hàng với người vay trong một khoảng thời gian dài về quyền lợi và trách nhiệm nên cần phải nghiên cứu hết sức kĩ càng, cẩn thận.

- Tín dụng hợp vốn (tín dụng đồng tài trợ):

Việc đồng tài trợ của các tổ chức tín dụng là quá trình cho vay - bảo lãnh của một nhóm tổ chức tín dụng (từ 2 trở lên) cho một dự án, do một tổ chức tín dụng làm đầu mối phối hợp các bên tài trợ để thực hiện, nhằm nâng cao năng lực và hiệu quả trong hoạt động sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp và của các tổ chức tín dụng. Phương thức này được sử dụng cho nhu cầu vay vốn hoặc bảo lãnh để thực hiện dự án vượt giới hạn tối đa cho phép cho vay hoặc được phép bảo lãnh của một tổ chức tín dụng; cho nhu cầu phân tán rủi ro của các tổ chức tín dụng hoặc khả năng nguồn vốn của một tổ chức tín dụng không đáp ứng được nhu cầu vốn của dự án.

- Tín dụng tuần hoàn (cho vay theo hạn mức tín dụng):

Hình thức cho vay này được ngân hàng căn cứ vào phương án, kế hoạch sản xuất, kinh doanh, nhu cầu vay vốn của khách hàng, tỷ lệ vay vốn tối đa so với giá trị tài sản bảo đảm tiền vay, khả năng nguồn vốn của ngân hàng để thoả thuận với khách hàng một hạn mức tín dụng duy trì trong một thời hạn nhất định hoặc theo chu kỳ sản xuất kinh doanh. Trong thời hạn duy trì hạn mức tín dụng, khách hàng được rút vốn phù hợp với tiến độ và yêu cầu sử dụng vốn thực tế nhưng phải bảo đảm không vượt quá hạn mức tín dụng đã ký kết. Trong thời hạn duy trì hạn mức tín dụng, khách hàng có nhu cầu điều chỉnh tăng hạn mức tín dụng để đáp ứng nhu cầu sản xuất kinh doanh, nếu thấy hợp lý thì ngân hàng nâng hạn mức tín dụng cho khách hàng.

- Tín dụng thuê mua:

Loại hình tín dụng này được thực hiện bởi một công ty con của ngân hàng mẹ chuyên thực hiện cho vay thuê mua là công ty cho thuê tài chính. Doanh nghiệp ký một hợp đồng thuê tài sản của bên cho thuê trong một thời gian nhất định, khi hết thời hạn hợp đồng thì tài sản đó được chuyển cho bên thuê. Thực chất của hoạt động cho thuê tài chính là hoạt động cho vay trung và dài hạn, hợp đồng thuê thường phải đảm bảo yêu cầu khách hàng phải trả tới hơn giá trị của tài sản cho thuê. Khi hết thời hạn cho thuê tức là các bên đã hoàn thành trách nhiệm của mình tại hợp đồng cho thuê tài chính, đương nhiên tài sản thuê phải được chuyển sang cho bên cho thuê, đây không phải là hiện tượng mua bán hàng hoá.

- Cho vay trả góp:

Cho vay trả góp là hình thức tín dụng, theo đó ngân hàng cho phép khách hàng trả gốc làm nhiều lần trong thời hạn tín dụng đã thoả thuận. Cho vay trả góp thường được áp dụng đối với các khoản vay trung và dài hạn, tài trợ cho các tài sản cố định hoặc lâu bền. Số tiền trả mỗi lần được tính toán sao cho phù hợp với khả năng trả nợ của khách hàng (với dự án thì số tiền trả thường là từ khấu hao và lợi nhuận sau thuế, với cho vay tiêu dùng thì là từ thu nhập hàng tháng của người tiêu dùng)

Hình thức cho vay này được áp dụng nhiều nhất trong cho vay tiêu dùng. Cho vay trả góp thường gặp rủi ro cao do khách hàng thường thế chấp bằng hàng hoá mua trả góp. Khả năng trả nợ phụ thuộc vào thu nhập đều đặn của người vay. Nếu người vay mất việc hay ốm đau, thu nhập giảm sút thì khả năng thu nợ của ngân hàng cũng bị ảnh hưởng. Chính vì rủi ro cao nên lãi suất cho vay trả góp thường cao nhất trong khung lãi suất cho vay của ngân hàng.

Trong nền kinh tế thị trường, tín dụng là một nghiệp vụ mang lại phần lớn doanh lợi cho ngân hàng nhưng cũng là nghiệp vụ mang nhiều rủi ro nhất. Ngay cả với một khoản vay có tài sản cầm cố, thế chấp thì khả năng xảy ra rủi ro vẫn rất cao. Mục đích cuối cùng của hoạt động kinh doanh ngân hàng chính là lợi nhuận, do đó ngân hàng nào cũng muốn đạt hiệu quả hoạt động kinh doanh tốt nhất. Trong điều kiện cạnh tranh ngày càng gay gắt hiện nay, các ngân hàng không hoạt động theo chức năng riêng của mình nữa mà hoạt động của các ngân hàng thương mại nào cũng có hầu hết các loại hình nghiệp vụ là như nhau. Chỉ có khác nhau là mỗi ngân hàng đều có thế mạnh riêng nhất định trong các nghiệp vụ của mình mà thôi. Ví dụ như ngân hàng Nông Nghiệp & Phát triển nông thôn thì tập chung ở cho vay nông nghiệp nhưng hiện nay họ đã vươn ra tất cả các loại hình nghiệp vụ khác, là đối thủ cạnh tranh lớn đối với Ngân hàng công thương và các ngân hàng khác. Các ngân hàng muốn nâng cao hiệu quả hoạt động, muốn tăng lợi nhuận của mình thì đòi hỏi ngân hàng phải nâng cao chất lượng tín dụng của mình.

Vậy nên hiểu khái niệm chất lượng tín dụng là như thế nào?.

Chất lượng tín dụng được hiểu theo đúng nghĩa là vốn vay ngân hàng đáp ứng đầy đủ kịp thời cho doanh nghiệp và được doanh nghiệp đưa vào quá trình sản xuất kinh doanh một cách có hiệu quả nhất nhằm tạo ta một lượng tiền lớn hơn để trang trải đủ chi phí, có lợi nhuận và hoàn trả cho nợ ngân hàng đầy đủ, đúng hạn cả gốc lẫn lãi.

Tín dụng trung, dài hạn là một phần trong nghiệp vụ tín dụng của ngân hàng. Chất lượng tín dụng trung, dài hạn là sự thoả mãn yêu cầu hợp lý của khách hàng có lựa chọn.

Việc đáp ứng kịp thời yêu cầu hợp lý của doanh nghiệp phải đầy đủ các phương diện: lãi suất hợp lý, thủ tục đơn giản, không gây phiền hà, thu hút được khách hàng mà vẫn đảm bảo đúng nguyên tắc và quy chế tín dụng; phù hợp với tốc độ tăng trưởng nền kinh tế xã hội đảm bảo sự tồn tại và phát triển ngân hàng và góp phần lành mạnh hoá tài chính doanh nghiệp.

Với ngân hàng, chất lượng tín dụng là việc đáp ứng nhu cầu vốn tín dụng phải phù hợp với khả năng theo hướng tích cực của bản thân ngân hàng mà bảo đảm được: yếu tố cạnh tranh trên thị trường, nguyên tắc hoàn trả đầy đủ cả gốc và lãi đúng hạn, hạn chế thấp nhất khả năng rủi ro có thể xảy ra. Đạt chỉ tiêu lợi nhuận cao và dư nợ ngày một tăng trưởng mà vẫn đảm bảo an toàn: tỷ lệ nợ quá hạn thấp và hợp lý, cân đối trong cơ cấu nguồn vốn giữa ngắn, trung và dài hạn của ngân hàng.

Chất lượng tín dụng cao là việc đáp ứng tốt nhất nhu cầu hợp lý của khách hàng, tuy vậy nâng cao chất lượng tín dụng cũng đi kèm với vấn đề tăng khả năng rủi ro đối với ngân hàng và giảm thấp thu nhập ngân hàng. Ngân hàng sẽ không theo đuổi mục đích nâng cao chất lượng tín dụng nếu không đảm bảo an toàn và có hiệu quả tín dụng.

0