Khoa học, công nghệ và đổi mới ở Slovenia?
Ảnh minh họa (Nguồn: internet) Liên minh tiền tệ châu Âu và OECD. Slovenia đứng đầu các quốc gia Trung và Đông Âu về GDP bình quân đầu người và một loạt chỉ số đổi mới sáng tạo. Năm 2010, BERD đạt 1,43%, lên mức tương đối cao. Nhìn chung, hoại dộng NC&PT của doanh nghiệp đã gia ...

Ảnh minh họa (Nguồn: internet)
Liên minh tiền tệ châu Âu và OECD. Slovenia đứng đầu các quốc gia Trung và Đông Âu về GDP bình quân đầu người và một loạt chỉ số đổi mới sáng tạo. Năm 2010, BERD đạt 1,43%, lên mức tương đối cao. Nhìn chung, hoại dộng NC&PT của doanh nghiệp đã gia tăng nhanh chóng trọng những năm gần đây, mặc dù suy thoái kinh tế và sự phục hồi chậm. Nhiều hoạt động NC&PT của Slovenia được thực hiện bởi mộl số ít các công ty: các công ty dược phẩm của nước này chiếm một phần lớn cùa BERD. Lĩnh vực dịch vụ thục hiện tương đổi ít NC&PT. Tuy nhiên, suy thoái kinh tế mạnh năm 2009 đã làm lộ rõnhững yếu kém về cơ cấu của nền kinh tế. Năng suất tụt hậu, việc thành lập doanh nghiệp và chuyển giao công nghệ chưa diễn ra mạnh, số lượng doanh nghiệp công nghệ cao là khá nhỏ. Xuất khẩu công nghệ cao và dịch vụ chiếm tỷ lệ thấp so với tổng xuất khẩu. Các đơn xin cấp bằng sáng chế ba vùng và hợp tác quốc tế trong cấp bằng sáng chế là dưới mức trung bình của OECD.
| Chỉ tiêu | Giá trị | Tăng trưởng hàng năm, % (2005-2010) |
| Năng suất lao động, GDP trên giờ làm việc tính theo USD, năm 2010 | 34,3 | +1,4 |
| Năng suất môi trường, GDP trên một đơn vị phát thải CO2 tính theo USD, năm 2009 | 3,70 | +2,1 |
| GERD, tính theo % GDP, năm 2010 | 2,11 | +9,9 |
| Tài trợ công trong GERD, tính theo % GDP, năm 2010 | 0,75 | +8,5 |
Thay đổi gần đây trong chi tiêu KHCNĐM: GERD của Slovenia đạt 211% GDP trong năm 2010. Tỷ lệ này tăng một cách ấn tượng với 9,9% mỗi năm từ 2005 đến 2010, mặc dù GDP sụt giảm do suy thoái kinh tế GERD được chính phủ tài trợ tăng 8,5% mỗi năm trong giai đoạn này. Trong năm 2010, ngành công nghiệp tài trợ 58% của GERD, chính phủ tài trợ 35% và 6% được tài trợ từ nước ngoài. Mục tiêu quốc gia là đầu tư 1,5% GDP cho NC&PT công và tham vọng đạt 3,6% GDP vào năm 2020.
Chiến lược KHCNĐM tổng thể: Chiến lược Nghiên cứu và Đổi mới sáng tạo của Slovenia 2011-2020 (RISS) và Chương trình Quốc gia Giáo dục Đại học 2011-2020 (NHEP) cung cấp những định hướng chiến lược. RISS nhằm mục đích thiết lập một hệ thống nghiên cứu và đổi mới hiện dại giúp cải thiện chất lượng cuộc sống. Ưu tiên chính của RISS là: bồi dưỡng khoa học xuất sắc, thúc đẩy hợp tác giữa các trường đại học, viện nghiên cứu và ngành công nghiệp; thúc đẩy di chuyển nhân lực quốc tế và chuyển giao công nghệ. Slovenia cũng đã có Lộ trình Cơ sở hạ tầng Nghiên cứu 2011-2020 đặt ưu tiên cho cơ sở hạ tầng nghiên cứu. Bên cạnh đó, chính phủ cùng chú ý nhiều hơn việc đánh giá các chiến lược, chính sách, chương trình và các tổ chức.
Chính sách quản trị KHCNĐM: Sau cuộc tổng tuyển cử vào tháng 12/2011, việc tổ chức quản lý khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo đã được phân bổ lại và hiện được phân chia giữa Bộ Giáo dục, Khoa học, Văn hóa và Thể thao, Bộ Phát triển Kinh tế và Công nghệ và Bộ Cơ sở hạ tầng và Quy hoạch không gian. Cục Chất lượng Giáo dục Đại học Slovenia dược thành tập vào năm 2010 để công nhận, giảm sát và đánh giá các tổ chức giáo dục đại học và các chương trình nghiên cứu.
Nền tảng khoa học: Slovenia có thế mạnh về các trường đại học và kết quả của nghiên cứu khoa học, được đo bằng số lượng tương đổi của các bài báo khoa học trên GDP. Slovenia có thế mạnh về tài năng khoa học và sáng tạo cùng với một nền văn hóa nghiên cứu. Nước này có 5 trường đại học và hơn 40 viện nghiên cứu công. Không giống như các nền kinh tế chuyển đổi khác, Slovenia đã duy trì và củng cố các viện nghiên cứu công của mình. Chi tiêu cho NC&PT của các trường đại học (HERD) đạt 0,29% GDP và chi tiêu chính phủ cho NC&PT đạt khoảng 0,38% GDP. Kết quà hoạt động khoa học của Slovenia được đánh giá là xuất sắc và có những đóng góp đáng kể vào phát triển kinh tế-xã hội của Slovenia, thông qua các hình thức hợp tác khác nhau với công nghiệp. RISS đưa ra kế hoạch tài trợ dựa trên kết quả hoạt động. Một đạo luật về NC&PT đang được soạn thảo và dự kiến sẽ cung cấp một cơ sở pháp lý mới cho tài trợ NC&PT.
NC&PT và đổi mới trong doanh nghiệp: Để thúc đẩy NC&PT của doanh nghiệp, Slovenia đã đưa ra các các biện pháp hỗ trợ bao gồm cả trợ cấp vốn, ưu đãi thuế và các công cụ như bảo lãnh vay và vốn chủ sở hữu. Quỹ Doanh nghiệp Slovenia cấp vốn khởi nghiệp cho các công ty đổi mới sáng tạo.
Dòng trí thức và thương mại hóa: Slovenia sử dụng một số cơ chế mới để thúc đẩy dòng chảy tri thức. Các trung tâm xuất sắc (CoE) nhằm tăng cường chất lượng và hợp tác, xây dựng liên kết đến các trung tâm hàng đầu ở nước ngoài thông qua quan hệ đối tác giữa các đổi tác công nghiệp và học thuật. Các trung tâm năng lực (CC) liên kết khoa học và ngành công nghiệp và cung cấp một vai trò mạnh mẽ cho các đối tác công nghiệp, cho các mạng lưới nghiên cứu ứng dụng và công nghiệp. Trong giai đoạn 2010-2014, hai nhóm trung tâm này đã được phân bổ 188 triệu USD. Chương trình các Trung tâm phát triển hỗ trợ các dự án NC&PT và đầu tư vào cơ sở hạ tầng liên quan để thúc đẩy phát triển công nghệ thông qua các liên minh.
Toàn cầu hóa: Khả năng hấp thụ cao và hội nhập vào mạng lưới nghiên cứu và đổi mới quốc tế rất quan trọng cho thành công của một quốc gia nhỏ bé trong đổi mới sáng tạo. Trong khi hệ thống đối mới của Slovenia được quốc tế hóa cao trong một số khía cạnh (ví dụ như sự tham gia mạnh mẽ vào các chương trình NC&PT của châu Âu), nhưng trong những khía cạnh khác vẫn còn thấp (thu hút các nhà nghiên cứu và sinh viên nước ngoài, thu hút FDI, bao gồm cả thu hút NC&PT). Ví dụ, trong năm 2008/09, chỉ có 1,7% học sinh là người nước ngoài. Một số biện pháp đã được thực hiện nhằm mục đích làm cho Slovenia hấp dẫn hơn đối với quốc tế, chẳng hạn như các chương trình đại học bằng tiếng nước ngoài các quỹ cho nhà nghiên cứu nước ngoài và mở các chương trình nghiên cứu với sự tham gia của nước ngoài, ví dụ như Chương trình cho các nhà nghiên cứu trẻ.
Nguồn nhân lực: Slovenia được coi là tương đối mạnh về nguồn nhân lực trong các ngành nghề KH&CN. Nguồn nhân lực tạo thành một trụ cột quan trọng cùa hệ thống đổi mới của Slovenia. Trong 5 năm qua, số lượng các nhà nghiên cứu và nhân viên làm việc liên quan đến NC&PT đã tăng lên đều đặn. Tuy nhiên, tỷ lệ hoàn thành giáo dục đại học còn thấp so với mức trung bình của OECD và EU.
Các công nghệ mới nổi: Các lĩnh vực nghiên cứu và công nghệ mới nổi của Slovenia được thể hiện trong các ưu tiên của các trung tâm xuất sắc và các trung tâm năng lực, bao gồm các lĩnh vực công nghệ thông tin, công nghệ nano, khoa học sự sống, công nghệ xử lý và sử dụng hiệu quả năng lượng.
Đổi mới xanh: Một kế hoạch hành động để thực hiện các nguyên tắc “tái tạo” được dựa trên các khái niệm về hiệu quả sinh thái và nền kinh tế tái chế.
Khoa học và Công nghệ Thế giới 2013
Cục Thông tin khoa học và công nghệ Quốc Gia - Bộ KH&CN
Nguồn tin: Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật