Khoa học, công nghệ và đổi mới ở Ấn Độ?
Ảnh minh họa (Nguồn: internet) Ấn Độ có một thị trường nội địa lớn và lực lượng lao động trẻ, dồi dào. Một tầng lớp trung lưu đang nổi đảm bảo nhu cầu mạnh về hàng tiêu dùng. Các ngành công nghiệp chế tạo địa phương (ví dụ thiết bị điện tử) bổ sung cho các ngành công nghiệp truyền ...

Ảnh minh họa (Nguồn: internet)
Ấn Độ có một thị trường nội địa lớn và lực lượng lao động trẻ, dồi dào. Một tầng lớp trung lưu đang nổi đảm bảo nhu cầu mạnh về hàng tiêu dùng. Các ngành công nghiệp chế tạo địa phương (ví dụ thiết bị điện tử) bổ sung cho các ngành công nghiệp truyền thống hàm lượng lao động cao (ví dụ dệt may). Số lượng lớp nhân công giá rẻ, tay nghề cao, và nói tiếng Anh thành thạo đã thu hút dòng vốn lớn FDI. Việc thuê ngoài các hoạt động có hàm lượng tri thức cao tại Ấn Độ đã góp phần làm cho lĩnh vực dịch vụ đóng góp nhiều nhất vào GDP (55%) và sự có mặt các trung tâm NC&PT của các công ty đa quốc gia đã thúc đẩy nhanh sự hội nhập của Ấn Độ và hệ thống nghiên cứu toàn cầu. Ấn Độ là điểm đến của nhiều nhà đầu tư NC&PT doanh nghiệp hàng đầu về chế tạo ô tô, máy công nghiệp và ngành CNTT. Sự đóng góp của các công ty Ấn Độ cho NC&PT nhỏ nhưng đang phát triển nhanh: chiếm 34% GERD năm 2007 và 0,26% GDP (tăng từ 19% và 0,14% năm năm trước đó). Kết quả nghiên cứu (bằng sánh chế) và đổi mới sáng tạo phi công nghệ (bao gồm cả nhãn hiệu hàng hóa) vẫn còn hạn chế. Ưu thế công nghệ hiện hữu của Ấn Độ trong lĩnh vực công nghệ sinh học có lợi thế hơn so với các quốc gia BRIICS khác. Các điều kiện khung về tinh thần kinh doanh yếu. Các hạn chế thương mại và FDI, cùng với tệ quan liêu hành chính gây cản trở đầu tư. Lĩnh vực tài chính không đủ phát triển để đáp ứng nhu cầu về vốn. Cở sở hạ tầng CNTT-TT còn hạn chế. Tỷ lệ tốt nghiệp thấp và chất lượng giáo dục kém ảnh hưởng đển sự phát triển nguồn nhân lực cho đổi mới sáng tạo. Nhân lực KH&CN chỉ chiếm 7% số việc làm và số nhà nghiên cứu tương đối ít (chưa đến 1 nghiên cứu viên trên 1000 lao động làm trong năm 2005).
| Chỉ tiêu | Giá trị | Tăng trưởng hàng năm, % (2005-2010) |
| Năng suất lao động, GDP trên giờ làm việc tính theo USD, năm 2010 | - | - |
| Năng suất môi trường, GDP trên một đơn vị phát thải CO2 tính theo USD, năm 2009 | 2,29 | +0,0 |
| GERD, tính theo % GDP, năm 2009 | 0,76 | +8,0 |
| Tài trợ công trong GERD, tính theo % GDP, năm 2010 | - | - |
Những thay đổi gần đây trong chi tiêu KHCNĐM: GERD của Ấn Độ là 0,76% GDP năm 2007, về cơ bản không thay đổi kể từ năm 2000. Nhưng chi tiêu NC&PT tăng 8% một năm theo giá cố định, tăng từ 13,8 tỷ USD lên 22,9 tỷ USD, mức tăng tương đương so với của Hà Lan và Thụy Điển. Với tỷ lệ chiếm 66%, chính phủ vẫn là nhà tài trợ NC&PT chính mặc dù phần đóng góp công đã giảm tương đối từ 82% năm 2000. Dự báo tăng trưởng kinh tế cho rằng phát triển hơn nữa về KH&CN là điều có thể kỳ vọng.
Chiến lược KHCNĐM tổng thể: Ấn Độ đã thông qua mô hình phát triển trong nước có đặc trưng “tăng trưởng toàn diện” và đổi mới tiết kiệm chi phí. Chính phủ đã công bố Thập kỷ đổi mới sáng tạo 2010-2020 và cam kết đẩy mạnh năng lực KH&CN, với GERD đạt 2% GDP và đóng góp của doanh nghiệp tăng gấp đôi. Các lĩnh vực ưu tiên gồm hàng không vũ trụ, hạt nhân và quốc phòng, phần mềm CNTT, công nghệ sinh học và dược phẩm.
Chính sách quản trị KHCNĐM: Hội đồng Đổi mới Quốc gia đã được thành lập vào năm 2010 để xác định một lộ trình mới cho nghiên cứu và đổi mới sáng tạo. Các hội đồng đổi mới bang và vùng đã được thiết lập. Năng lực của ủy ban nghiên cứu Khoa học và Kỹ thuật, một cơ quan tài trợ mới được thành lập đã dược tăng cường.
Nền tảng khoa học: Các trường đại học và viện nghiên cứu công chiếm vị trí nổi trội trong Hệ thống đổi mới sáng tạo của Ấn Độ. Chi tiêu công cho NC&PT chiếm 0,47% GDP vào năm 2007. Ấn Độ có một trường đại học đáng cấp thế giới và thành tích yếu kém về công bố trên các tạp chí khoa học hàng đầu, mặc dù số lượng công bố khoa học đã tăng gấp đôi trong 5 năm qua. Có khoảng 73% nghiên cứu công được tài trợ trọn gói, phân bổ dựa trên cơ sở ưu tiên nghiên cứu quốc gia.
NC&PT và đổi mới trong doanh nghiệp: Với 95% hoạt động NC&PT doanh nghiệp do các công ty tài trợ, hỗ trợ tài chính công cho NC&PT trong doanh nghiệp là không đáng kể.
Tinh thần doanh nghiệp: Chính phủ có kế hoạch thúc đẩy tiềm năng KH&CN của các DNVVN và doanh nghiệp cực nhỏ ở các vùng bán đô thị và nông thôn. Các giải thưởng và nhiều biện pháp khuyến khích đã được Bộ các ngành công nghiệp quy mô nhỏ và Hội đồng nghiên cứu Khoa học và Công nghiệp áp dụng nhằm khuyến khích tinh thần kinh doanh và NC&PT doanh nghiệp hoặc để hỗ trợ các nhóm mục tiêu (ví dụ Giải thưởng quốc gia về hiệu suất). Bộ Tài chính sẽ thành lập Quỹ đổi mới sáng tạo toàn diện Ấn Độ trong năm 2012-2013 chú trọng vào nhu cầu của tầng lớp thấp trong xã hội Chương trình Công viên doanh nhân KH&CN kích thích liên kết mạng.
Cơ sở hạ tầng khoa học và CNTT-TT: Chương trình Thúc đẩy sự xuất sắc khoa học và trường đại học, Hợp nhất sự xuất sắc và đổi mới sáng tạo nghiên cứu đại học đối với phụ nữ trong các trường đại học, và Quỹ nâng cao cơ sở hạ tầng KH&CN trong các Tổ chức giáo dục đại học, tất cả đều nhằm mục đích phát triển cơ sở hạ tầng KH&CN. Năm 2011, chính phủ đã phê chuẩn kế hoạch băng thông rộng ở nông thôn và dự án kết nối các vùng tự trị thông qua hệ thống cáp quang.
Các chính sách cụm và khu vực: Hội đồng đổi mới quốc gia thúc đẩy phát triển cụm trong cả nước thông qua các trung tâm đổi mới sáng tạo cụm. Mạng lưới các doanh nhân và doanh nghiệp CNTT cung cấp hướng dẫn và tư vấn. Một số vườm ươm doanh nghiệp công nghệ, các công viên công nghệ sinh học và công nghệ phần mềm, và một công viên sinh – tin học đã được đưa vào hoạt động.
Dòng tri thức và thương mại hóa: Kế hoạch 5 năm lần thứ 12 gần đây nhất khôi phục sự chú trọng vào hợp tác công - tư. Liên minh công nghệ và đổi mới toàn cầu và Sáng kiến nghiên cứu và đổi mới doanh nghiệp nhỏ hỗ trợ thương mại hóa thông qua các dự án hợp tác chiến lược và công-tư. Quỹ đổi mới sáng tạo quốc gia (một sáng kiến phi lợi nhuận tư nhân) thúc đẩy việc thương mại hóa các đổi mới sáng tạo cấp cơ sở. Luật Sở hữu và sử dụng tài sản trí tuệ do nhà nước tài trợ năm 2008 quy định về SHTT.
Toàn cầu hóa: Ấn Độ đang ngày càng hòa nhập vào dòng chảy tri thức toàn cầu. Họ đã tham gia một số hiệp định NC&PT song phương, ví dụ như với Hoa Kỳ (nghiên cứu năng lượng sạch), Vương quốc Anh (viễn thông thế hệ tiếp theo), EU (nước và năng lượng), và Ôxtrâylia (nghiên cứu chiến lược).
Nguồn nhân lực: Kế hoạch lần thứ 11 (2007-2012) đã dành ưu tiên hàng đầu cho giáo dục tiểu học, trường sở và giáo dục đại học bằng cách tăng đáng kể ngân sách giáo dục. Luật giáo dục đại học và nghiên cứu 2011 đã đề xuất thành lập một ủy ban quốc gia nhằm cải tiến các quy định về giáo dục đại học và đào tạo hướng nghiệp và kỹ thuật. Chương trình Đổi mới sáng tạo trong mưu cầu khoa học truyền cảm hứng nghiên cứu (INSPIRE) nhằm vào thúc đẩy khoa học, trong khi chương trình Đảm bảo cơ hội cho sự nghiệp nghiên cứu hỗ trợ các nhà nghiên cứu. Học bổng đại học nhằm khuyến khích học sinh theo học các ngành khoa học trong nhóm tuổi 17-22. Đề án Fast Track dành cho các nhà khoa học trẻ kích thích xuất sắc trong khoa học.
Đổi mới xanh: Tăng trưởng dân số và kinh tế của Ấn Độ, lối sống hiện đại và giá điện tăng cao hơn (tỷ lệ điện khí hóa cao hơn) đã đặt an ninh cung ứng năng lượng vào tình trạng nguy hiểm do Ấn Độ phụ thuộc mạnh vào than nhập khẩu để đáp ứng nhu cầu trong nước. Các xu hướng hiện nay làm tăng nhập khẩu nhiên liệu hóa thạch, ô nhiễm cục bộ và phát thải khí nhà kính. Hạn hán thường xuyên gây tác động nghiêm trọng đến an ninh lương thực và định cư dân số. Năm 2008, Ấn Độ đã phát triển Kế hoạch quốc gia về biến đổi khí hậu nhằm vào năng lượng mặt trời, hiệu suất năng lượng, nước và tri thức chiến lược về biến đối khí hậu. Chương trình Năng lượng tái tạo phục vụ ứng dụng thương mại và công nghiệp đô thị mới nhấn mạnh đổi mới sáng tạo xanh. Chương trình thu hút mở rộng và phục hồi nhằm mục đích giải quyết vấn đề về nước của Ấn Độ thông qua các giải pháp NC&PT.
Khoa học và Công nghệ Thế giới 2013
Cục Thông tin khoa học và công nghệ Quốc Gia - Bộ KH&CN
Nguồn tin: Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật