Khoa học, công nghệ và đổi mới ở nước Braxin?
Ảnh minh họa (Nguồn: internet) Braxin có một số trường đại học thực hiện nghiên cứu chất lượng cao. Tuy nhiên thành tích này không lan tỏa sang toàn bộ nền kinh tế rất đa dạng của Braxin. Đặc biệt, nhiều doanh nghiệp nhỏ đồi mới rất ít. Các điều kiện khung thách thức và những thách ...

Ảnh minh họa (Nguồn: internet)
Braxin có một số trường đại học thực hiện nghiên cứu chất lượng cao. Tuy nhiên thành tích này không lan tỏa sang toàn bộ nền kinh tế rất đa dạng của Braxin. Đặc biệt, nhiều doanh nghiệp nhỏ đồi mới rất ít. Các điều kiện khung thách thức và những thách thức xã hội đáng kể, như nghèo đói, đã giải thích việc thực hiện KHCNĐM ở nước này nhìn chung còn yếu kém. Các kết quả nghiên cứu rất thấp so với các nước OECD về cả số bài báo xuất bản trong các tạp chí khoa học hàng đầu và kết quả bằng sáng chế và nhãn hiệu hàng hoá. Trong giai đoạn 2005-2009, con số tương đối về bằng sáng chế được đăng ký bởi các trường đại học và các viện nghiên cứu công trên GDP thấp hơn nhiều mức trung bình của OECD. Các điều kiện ở đây gây khó khăn cho các doanh nghiệp tư nhân; chỉ số thuận lợi kinh doanh ở mức thấp nhưng vẫn trên một số nước OECD.
| Chỉ tiêu | Giá trị | Tăng trưởng hàng năm, % (2005-2010) |
| Năng suất lao động, GDP trên giờ làm việc tinh theo USD, năm 2010 | - | - |
| Năng suất môi trường, GDP trên một đơn vị phát thải CO2 tính theo USD, năm 2009 | 5,95 | +3,6 |
| GERD, tính theo % GDP, năm 2009 | 1,08 | +8,9 |
| Tài trợ công trong GERD, tính theo % GDP, năm 2010 | - | - |
Về các liên kết quốc lế liên quan đến đổi mới, 27% trong tồng số bài báo khoa học là của các đồng tác giả quốc tế và 17% đơn đăng ký sáng chế theo hiệp định PCT là đồng sáng chế quốc tế. Một trong những lý do khiến những con số tương đối thấp này là quy mô lớn của nền kinh tế Braxin. Trở ngại chính trong hệ thống đổi mới chính là nguồn nhân lực của Braxin. Năm 2009, chỉ có 11% dân số trưởng thành có trình độ đại học. Các điểm khoa học PISA của học sinh 15 tuổi cũng rất thấp.
Những thay đổi gần đây trong chi tiêu cho KHCNĐhđ: Năm 2008, GERD của Braxin ở mức 1,08% GDP, dưới mức trung bình của OECD, nhưng cao hơn các nền kinh tế Mỹ Latinh lớn khác như Achentina, Chile và Mexico.
Chiến lược KHCNĐM tổng thể: Kế hoạch Lớn của Braxin (Greater Braxin Plan) 2011-2014, được thông qua vào năm 2011, đem lại cho đổi mới vai trò trung tâm và bao gồm các đề xuất cho những thay đổi quan trọng trong các khung pháp lý. Hơn nữa, Chiến lược Khoa học, công nghệ và đổi mới quốc gia (ENCTI) được thiết lập để: i) thu hẹp khoảng cách công nghệ với các nền kinh tế phát triển, ii) hỗ trợ sự lãnh đạo của Braxin trong nền kinh tế tri thức liên quan đến tự nhiên (bao gồm đổi mới xanh, doanh nghiệp nông nghiệp và các hoạt động dựa vào nguồn tài nguyên thiên nhiên); iii) tăng cường quốc tế hóa hệ thống nghiên cứu quốc gia; iv) thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế xanh; và v) giải quyết các bất bình đẳng xã hội và khu vực.
Chính sách quản trị KHCNĐM: Quản trị KHCNĐM của Braxin gần đây không có những thay đổi lớn. Tuy nhiên, một số biện pháp đã được đưa ra nhằm tăng cường sự phối hợp giữa các tổ chức ở cấp liên bang và giữa các cơ quan liên bang và tiểu bang. Hội đồng Phát triển công nghiệp quốc gia được thiết lập lại vào tháng 8 năm 2011, bao gồm các bộ, Chủ tịch Ngân hàng Phát triển kinh tế và xã hội quốc gia (BNDES), các doanh nghiệp tư nhân, và đại diện ngành công nghiệp và công đoàn, trong số các thành viên khác. Hội đồng được thiết lập nhằm mục đích phối hợp tốt hơn và tham gia nhiều hơn của các bên liên quan.
Đổi mới và NC&PT của doanh nghiệp: Chính sách đổi mới của Braxin đã chuyển từ tập trung chủ yếu vào cơ sở khoa học sang hỗ trợ mạnh hơn cho NC&PT của doanh nghiệp. Một số thay đổi trong khuôn pháp luật cho phép tăng ưu đãi: Luật đổi mới (2004) cho phép tài trợ trực tiếp cho doanh nghiệp thông qua các khoản tài trợ cạnh tranh với ngân sách hàng năm khoảng 348 triệu USD. Luật lợi thế thương mại (Goodwill Law (2005) đã đưa ra một loạt các ưu đãi tài chính. Ngoài ra, các quy định miến thuế cho doanh nghiệp đã được sửa đổi vào năm 2007 để gắn kết doanh nghiệp với việc sử dụng quyền sở hữu trí tuệ. Kế hoạch Lớn bao gồm các đề xuất vào những thay đổi pháp luật hơn nữa, như tài trợ cho các viện nghiên cứu phi lợi nhuận tư nhân và các ưu đãi tài chính mới cho các nhà đầu tư. Hơn nữa, các cơ quan tài trợ cung cấp sự hỗ trợ cho phát triển các ứng dụng dễ sử dụng và chi phi thấp để giải quyết những thách thức xã hội. Ví dụ, HABITARE, một sáng kiến với kinh phí 14 triệu USD, hỗ trợ những đổi mới công nghệ nhà ở, bao gồm cả nhá ở xã hội.
Tinh thần doanh nghiệp: Một số sáng kiến hỗ trợ các doanh nghiệp mới khởi nghiệp bao gồm: Hỗ trợ tài chính thông qua các khoản tài trợ (Chưong trình Programa Primeira Empresa Inovadora, PRIME, đã tài trợ cho tổng cộng 1.381 doanh nghiệp với khoảng 98 triệu USD), đầu tư vốn mạo hiểm (INOVAR), hoặc các chương trình cho vay được giảm lãi suất (Chương trình Juro Zero). Ngoài ra, Chương trình Pro-lnnova được đưa ra trong năm 2008 khuyến khích kinh doanh bằng cách truyền bá thông tin về các công cụ pháp lý, cơ sở vật chất và các cơ chế sẵn có để hỗ trợ các sáng kiến.
Dòng tri thức và toàn cầu hóa: Việc hỗ trợ cho các doanh nghiệp tư nhân và phát triển thương mại những đổi mới công nghệ gần đây được chú trọng nhiều hơn. Luật đổi mới (2004) giúp thiết lập các doanh nghiệp đổi mới bằng cách cung cấp các dịch vụ ươm tại các tổ chức KH&CN công và các điều kiện thuận lợi cho các nhà nghiên cứu công tham gia vào các dự án hợp tác nghiên cứu và thành lập các doanh nghiệp mới khởi nghiệp. Ngoài các chương trình hỗ trợ tài chính cho các dự án hợp tác nghiên cứu (ví dụ SIBRATEC, với khoản đầu tư 204 triệu USD từ năm 2007), Braxin có một số chương trình khuyến khích lưu động các nhà nghiên cứu theo ngành (ví dụ Pappe, Chương trình Hỗ trợ nghiên cứu trong các doanh nghiệp, với ngân sách 146 triệu USD giai đoạn 2007-2010, và SEBRAE, Chương trình Dịch vụ hỗ trợ cho doanh nghiệp nhỏ của Braxin). Những chương trình này tìm cách khuyến khích dòng tri thức giữa các trường đại học và các viện nghiên cứu công với khu vực kinh doanh.
Toàn cầu hóa: Các chương trình gần đây được đưa ra nhóm mục đích thúc đẩy quốc tế hóa hệ thông nghiên cứu quốc gia. Tháng 12 năm 2010, một ủy ban liên bộ đã được thành lập để hoạt động theo cơ chế một cửa cho các nhà đầu tư nước ngoài tiềm năng và để cung cấp thông tin về khung pháp lý và các công cụ hỗ trợ đổi mới sẵn có. Ngoài ra, Ciencia sem Fronieiras, một chương trình được đưa ra năm 2011, đã hỗ trợ sự lưu động của sinh viên trong nước và tìm cách thu hút các nhà nghiên cứu trẻ được quốc tế công nhận bằng cách cung cấp tài trợ để họ tham gia vào các dự án nghiên cứu ở nước ngoài và thu hút các nhà nghiên cứu nước ngoài.
Nguồn nhân lực: Các nỗ lực đã được thực hiện để nâng cao chất lượng giáo dục ở tất cả các cấp, bao gồm việc áp dụng các kỳ thi tuyển đầu vào đối với giáo viên. Để có tỷ lệ nhập học cao hơn, tài trợ cho giáo dục cơ bản và chuyên nghiệp đã tăng lên và các điều kiện cho sinh viên vay vốn được nới lỏng. Ngoài ra, Cuộc thi Olympic Toán học cho các trường công lập của Braxin (OBMEP) tìm cách kích thích và thúc đẩy nghiên cứu toán học của học sinh các trường công lập. Bằng cách trao giải thưởng cho học sinh đoạt giải cao và các trường học của họ, chương trình này cung khuyến khích việc cải tiến giảng dạy.
Đổi mới xanh: Phát triển và thúc đẩy một nền kinh tế xanh là các mục tiêu của chiến lược KHCNĐM của Braxin. Các chương trình hỗ trợ bao gồm các quỹ ngành (CT-Energy, CT-Petro). Về môi trường, Chính sách Quốc gia về công nghiệp, công nghệ và thương mại có các chương trình thành lập một trung tâm công nghệ sinh học và trung lâm nghiên cứu nhiên liệu sinh học. Tháng 2 năm 2012, Quỹ Khí hậu mới trực thuộc BNDES được thành lập với mục đích tài trợ cho các dự án để giảm phát thải khí nhà kính.
Khoa học và Công nghệ Thế giới 2013
Cục Thông tin khoa học và công nghệ Quốc Gia - Bộ KH&CN
Nguồn tin: Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật