Khái quát về Liên minh châu Âu (EU)
Những ý tưởng về một Châu Âu thống nhất đã được bộc lộ từ trong lịch sử Châu Âu xa xưa, kể cả ý đồ muốn thực hiện thống nhất bằng vũ lực. Hoàng đế Napoleon của nước Pháp là một minh chứng điển hình. Ông đã từng nghĩ đến một Châu Âu thống nhất ...
Những ý tưởng về một Châu Âu thống nhất đã được bộc lộ từ trong lịch sử Châu Âu xa xưa, kể cả ý đồ muốn thực hiện thống nhất bằng vũ lực. Hoàng đế Napoleon của nước Pháp là một minh chứng điển hình. Ông đã từng nghĩ đến một Châu Âu thống nhất với “một bộ luật Châu Âu một đồng tiền chung Châu Âu, các đơn vị đo lường, các qui tắc Châu Âu” và ông ta đã thất bại trong việc thực hiện mơ ước chung lành mạnh đó bằng ý đồ sử dụng vũ lực để có một Châu Âu liên kết dưới sự thống trị của người Pháp.
Cho đến sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất ngoại trưởng Pháp Aristide Briand mới đề xuất trước Đại Hội đồng Hội Quốc Liên ý tưởng cụ thể về việc thành lập một liên hiệp Châu Âu mang thể chế liên bang. Nhưng ý kiến này không gây được tiếng vang và chưa kịp có những bàn bạc cụ thể thì thế chiến lần thứ hai ập đến như là hậu quả của một ý tưởng ngông cuồng muốn thống nhất Châu Âu bằng bạo lực dưới sự cai quản của một quốc gia - dân tộc tực coi mình là thượng đẳng - Đức quốc xã.
Phải đến những năm 40 của thế kỷ XX sau khi thế chiến kết thúc, mới xuất hiện một phong trào lành mạnh ủng hộ việc tạo dựng một Châu Âu nhất thể hoá. Mặc dù vậy, chỉ sau khi vấn đề nước Đức được đặt ra sau thế chiến thứ hai cùng với nguyện vọng gìn giữ hoà bình Châu Âu và sự căng thẳng trong quan hệ Pháp - Đức về vùng Sarre gây trở ngại cho tiến trình thống nhất Châu Âu thì ý tưởng liên kết hoá Châu Âu mới được thúc đẩy để sau đó được thực hiện trong thực tế. “Cộng đồng than và thép Châu Âu” (ECSC) ra đời ngày 18 tháng 4 năm 1951 với sáu nước thành viên là Pháp, Đức, Bỉ, Hà Lan, Luxembourg, và Italia là cột mốc đầu tiên đánh dấu Châu Âu bắt đầu tập họp lại một cách lành mạnh về tổ chức. Tuy nhiên tiến trình liên kết Châu Âu chỉ thực sự bắt đầu khi đại diện sáu nước thành viên ECSC ký các hiệp định Roma chính thức thành lập “Cộng đồng kinh tế Châu Âu” (EEC) và “Cộng đồng năng lượng nguyên tử Châu Âu” (Euratom) với tư tưởng trung tâm là hình thành một thị trường rộng lớn ở Châu Âu coi như một công cụ phối hợp và hoà nhập các chính sách kinh tế của các nước thành viên. Đến cuộc họp thượng đỉnh giữa các vị nguyên thủ quốc gia các thành viên của châu Âu năm 1972 tại Paris thì lần đầu tiên thuật ngữ EU được nhắc tới. Sự ra đời các cộng đồng Châu Âu đã đáp ứng được nhu cầu tạo lập không gian không biên giới cho việc tự do lưu chuyển các nguồn lực và sản phẩm trong toàn Châu Âu.
Bước tiến quan trọng tiếp theo tạo ra sự cải biến căn bản khuôn khổ thiết chế và chính trị cho tiến trình nhất thể hoá Châu Âu là việc ký kết văn bản Định ước Châu Âu duy nhất (the Single European Act) theo đuổi mục tiêu hình thành thị trường Châu Âu đơn nhất (the Single European market) với mốc thời gian là ngày 31 tháng 12 năm 1992. Tiếp đó việc ký kết Hiệp định về Liên hiệp Châu Âu (EU) tại Maastricht tháng 10 năm 1993 là một cuộc cải cách toàn diện nhất các hiệp định Roma thúc đẩy sự liên kết Châu Âu trên cả ba trụ cột của EU là cộng đồng Châu Âu, chính sách đối ngoại và an ninh chung và hợp tác về tư pháp và nội vụ.
Liên hiệp Châu Âu đang thực hiện các chính sách tiếp tục thúc đẩy liên kết hoá trước ngưỡng cửa thế kỷ XXI nhằm làm cho EU trở nên mạnh hơn và mở rộng. Bước vào thiên niên kỷ mới Liên hiệp Châu Âu đã khẳng định:
- Các chính sách đối nội phải nhằm tới sự phát triển bền vững và việc làm, gắn kết kinh tế - xã hội và phát triển nông nghiệp.
- Tiến trình liên kết hoá Châu Âu phải làm sao nâng cao được vai trò của EU trên trường quốc tế.
- Trong quá trình thực hiện liên kết Châu Âu, EU không chỉ mạnh hơn mà còn mở rộng hơn về lãnh thổ.
Thực hiện Hiệp định Amsterdam, tiến trình đi tới liên minh kinh tế và tiền tệ (EU) như đỉnh cao mới của liên kết hoá Châu Âu đang tạo ra động lực thúc đẩy toàn bộ EU tiến lên. Mọi chuẩn bị về kỹ thuật đã được hoàn tất để ra đời đồng tiền chung Châu Âu (đồng EURO) ra đời vào ngày 1 tháng 1 năm 1999. EU và đồng EURO sẽ tạo ra cái neo giữ cho sự ổn định, hoàn thiện hiệu quả thị trường và khuyến khích đầu tư cũng như mở ra những khả năng mới cho việc quản lý vĩ mô có hiệu quả hơn ở Châu Âu.
Hiệp ước về Liên minh, hay hiệp ước Maastrich, vào năm 1993 đặt các nước thành viên vào một chương trình đầy tham vọng: liên minh tiền tệ vào năm 1999, các chính sách chung mới, quốc tịch châu Âu, một chính sách ngoại giao và an ninh nội bộ. Hiện nay, một hội nghị liên Chính phủ đang tranh luận về điều chỉnh các thể chế và các quá trình ra quyết định của EU, nhằm tạo nền móng cho việc mở rộng Cộng đồng sang các nước Trung và Đông Âu.
Tiến trình liên kết hoá Châu Âu đang được thực hiện thắng lợi, những thời cơ và thách thức đang hiện diện trước một Liên hiệp Châu Âu sẽ bước vào thế kỷ XXI trong tư cách một tổ chức mạnh hơn và mở rộng hơn. Hiệp định Amsterdam đã tăng cường một bước đáng kể về các mặt tăng cường sức mạnh, hoàn thiện khả năng trong các hoạt động đối ngoại và cải cách khuôn khổ thiết chế cho Liên hiệp Châu Âu trước khi bước vào giai đoạn mới có ý nghĩa quyết định của tiến trình liên kết.
Gần nửa thế kỷ hội nhập của châu Âu đã có một tác động sâu sắc tới sự phát triển của lục địa và cách suy nghĩ của người dân trên lục địa. Nó cũng thay đổi cán cân quyền lực. Tất cả các Chính phủ, bất kể thuộc hình thái chính trị nào, ngày nay đều nhận thức được rằng kỷ nguyên của chủ quyền quốc gia tuyệt đối đã qua đi. Chỉ có thông qua liên kết lực lượng và nỗ lực hướng tới “một căn cước chung” - trích Hiệp ước về Cộng đồng Than và Thép châu Âu - thì các quốc gia châu Âu cũ mới tiếp tục được hưởng tới sự phát triển kinh tế xã hội và duy trì được ảnh hưởng của mình trên thế giới.
EU là từ viết tắt tiếng Anh của European Union nghĩa là Liên minh châu Âu. Nó bao gồm 15 nước thành viên là: Anh, Pháp, Đức, Italia, Tây Ban Nha, Luxembourg, Hà Lan, Thụy Điển, Đan Mạch, Bỉ, Áo, Hy Lạp, Phần Lan, Ailen và Bồ Đào Nha. Cơ cấu của EU được xây dựng trên ba thành phần cơ bản chính là Cộng đồng chung châu Âu (European Community), chính sách chung về an ninh và đối ngoại (Common foreign and security policy), đồng hợp tác trong vấn đề tư pháp và nội vụ (Cooperation in justice and home affairs).
Các điều khoản chủ yếu trong hiệp ước của EU được dựa trên các nguyên tắc cơ bản sau đây:
- Lương thực chung;
- Sửa đổi Hiệp ước EEC thành EC (European Community), bao gồm liên hiệp kinh tế và tiền tệ, liên hiệp về thuế quan, thị trường đơn nhất, chính sách nông nghiệp chung, chính sách hạ tầng và vấn đề công dân của Liên hiệp.
- Chính sách về an ninh và đối ngoại (CFSP).
- Hợp tác về các vấn đề pháp luật và nội vụ;
- Tài chính chung;
- Nghị định thư, trong đó quan trọng nhất là mối liên kết quan hệ về kinh tế và xã hội và các chính sách xã hội để giải thích cho sự liên hệ tới CFSP và những văn bản của các nước thành viên của Liên hiệp Tây Âu (WEU) về vai trò của họ.
Đồng thời Liên minh châu Âu được quản lý bởi một loạt các thể chế sau chung. Các thể chế chính bao gồm:
- Một nghị viện được bầu thông qua bầu cử tự do, nó cung cấp một diễn đàn dân chủ cho việc tranh luận, mang chức năng giám hộ và giữ vai trò giám hộ trong tiến trình lập pháp;
- Hội Đồng châu Âu, bao gồm các bộ trưởng của 15 nước thành viên và là cơ quan chủ yếu ra quyết định;
- Uỷ Ban châu Âu đại diện cho quyền lợi của Cộng Đồng và là cơ quan thi hành chính sách của Cộng Đồng;
- Toà án Tư pháp được đặt tại Luxembourg và đảm bảo luật pháp của Cộng Đồng được hiểu và thực hiện theo đúng các hiệp ước;
- Toà án Kiểm toán có vai trò kiểm tra để việc thu và chi được thực hiện “theo một cách thức hợp pháp và đúng chuẩn mực” và các vấn đề tài chính của Cộng Đồng được quản lý một cách thích hợp;
- Ngân Hàng Đầu tư Châu Âu (EIB), được thành lập để giúp thực hiện các dự án đóng góp vào sự phát triển cân bằng của EU.
Tiềm năng kinh tế:
Trong suốt quá trình hình thành và phát triển của mình, châu Âu luôn là đại lục phát triển nhất về kinh tế cũng như khoa học kỹ thuật. Mặc dù bị chiến tranh tàn phá nặng nề sau thế chiến thứ 2 kéo lùi nền kinh tế đi vài chục năm, nhưng ngay sau đó châu Âu đã có những bước hồi phục thần kỳ và cho đến nay thì châu Âu luôn là một lục địa phát triển nhất trên thế giới nếu xét cả về tiềm năng kinh tế, kỹ thuật, quân sự vượt trên cả Mỹ. Liên minh châu Âu (EU) chính là đại diện tiêu biểu cho lục địa này về khả năng phát triển kinh tế, kỹ thuật. Hiện nay liên minh châu Âu là một trong ba cực về kinh tế, khoa học kỹ thuật gồm Mỹ, EU, Nhật Bản, trong số 7 nước công nghiệp phát triển hàng đầu trên thế giới thì EU đã góp mặt với 4 nước, điều này cho ta thấy được phần nào sức mạnh kinh tế của tổ chức này. Về thương mại, với chỉ vẻn vẹn có khoảng hơn 370 triệu người (6% dân số của thế giới), liên minh châu Âu đã chiếm tới một phần năm thương mại của toàn thế giới, đặc biệt khi các nước được thống nhất bởi một quyết định về thương mại thì lợi thế này chắc chắn sẽ tăng lên (xem hình minh hoạ).
Hình 1: Thị phần thương mại hàng hoá của EU trên thế giới
Ngoài ra các chỉ số phát triển khác đều rất cao, như mức sống thì quả thật EU là miền đất hứa cho nhiều người, là một mô hình mà hầu hết các nước khác trên thế giới đều hướng tới, với mức GDP/người là rất cao, có nước vượt cả Mỹ và Nhật Bản, tỷ lệ thất nghiệp cũng đã giảm dần trong những năm gần đây. Một đặc điểm nổi bật nữa ở các nước EU trong thời gian vừa qua là kinh tế của các nước của các nước đều tăng trưởng, tuy cao thấp khác nhau, nhưng ổn định. Ví dụ, Italia có mức kinh tế tăng trưởng thấp nhất trong khối, nhưng hiện nay đang đi lên rõ rệt: Nếu GDP năm 1996 tăng 0,7%, thì năm 1997 tăng gần gấp đôi (1,3%). Đạt được như vậy theo các chuyên gia kinh tế EU, là nhờ sự điều hành, phối hợp thực hiện chiến lược phát triển kinh tế xã hội chung của các quốc gia và ban lãnh đạo khối EU.
Hình 2: Tốc độ tăng trưởng của EU, so sánh với Mỹ và Nhật Bản
Để trở thành một trung tâm kinh tế vững mạnh trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội hiện nay của mình, EU đã nêu ra 3 mục tiêu cơ bản:
- Bảo đảm các điều kiện tổ chức kinh tế, tài chính, tiền tệ để phát triển nội bộ xã hội EU.
Tạo ra các tiền đề để mở rộng biên giới EU sang Trung và Đông Âu rồi tới các nước Ban Tích.
- Thông qua chính sách tài chính - tín dụng (phải đầu tư) để bắt các nền kinh tế xung quanh phải phục tùng lợi ích của các nước có nền khoa học và công nghệ kỹ thuật cao của EU. Điều này được thể hiện qua việc tăng viện trợ của EU ra nước ngoài.
Để đạt các mục tiêu ấy mọi chính sách của EU hiện nay đều nhằm tạo ra một liên minh kinh tế - tiền tệ vững mạnh cơ cấu lại các cơ sở sản xuất công nghiệp, đồng thời cải tiến mẫu mã và nâng cao chất lượng các mặt hàng do EU sản xuất, nhất là các mặt hàng đang bị hàng ngoại cạnh tranh, nhằm bảo vệ thị trường nội địa EU và đảm bảo khả năng cạnh tranh cho mặt hàng EU trên thị trường nước ngoài. Cụ thể, hiện nay ngân sách EU dành 6 khoản để cấp phát cho phát triển kinh tế - xã hội của cộng đồng, trong đó có 2 khoản dành cho phát triển công nghiệp thông qua các quĩ: Quĩ phát triển xã hội và quĩ đoàn kết. Quỹ phát triển xã hội bao gồm các khoản đầu tư phát triển khu vực nông nghiệp toàn EU. Quĩ đoàn kết nhằm tài trợ cho những nước thành viên EU có GNP/ người thấp hơn 90% mức bình quân toàn EU (Hy Lạp, Ai Len, Tây Ban Nha, và Bồ Đào Nha). Khoản “chính sách nội bộ” dùng cấp phát cho các biện pháp nâng cao khả năng cạnh tranh cho sản phẩm EU trên thị trường quốc tế, trong đó dành 50 - 70% cho nghiên cứu khoa học.
Ngày 2 - 5 - 1998 Hội nghị cấp cao EU họp tại Brucxen (Bỉ) đã chính thức thông qua danh sách 11 nước trong số 15 nước thành viên EU tham gia vào đồng tiền châu Âu đợt đầu tiên, đó là các nước: Đức, Pháp, Italia, Bỉ, Tây Ban Nha, Hà Lan, áo, Phần Lan, Ai Len, Luxembourg. Ba nước Anh, Đan Mạch, Thụy Điển vì lý do chính trị nội bộ không tham gia đợt đầu. Riêng Hy Lạp không được chấp nhận vì chưa đáp ứng được tiêu chuẩn qui định.
Sau khi đồng EURO ra đời, nó sẽ thúc đẩy sự hoàn thiện thị trường nội bộ thống nhất, thúc đẩy sự phát triển kinh tế của các nước EU, tạo điều kiện cho tổ chức này phát triển về chất, tiến tới một châu Âu thống nhất.
Lợi ích mà đồng tiền chung có thể mang lại cho 11 nước thành viên tham gia liên minh tiền tệ là giảm các khoản chi phí giao dịch tiền tệ, loại bỏ rủi ro ngoại hối (khoảng 0,33% GDP/năm, ước tính bằng 30 tỷ USD), tăng hiệu quả thương mại và đầu tư, giảm sự khác biệt về giá cả trong khối, tạo điều kiện thuận lợi cho hạch toán kinh doanh của doanh nghiệp, cho sự lựa chọn giá cả tối ưu cho người tiêu dùng, tạo ra sự cạnh tranh bình đẳng giữa các nền kinh tế trong liên minh, và đồngEURO sẽ trở thành đồng tiền quốc tế mạnh liên, sẽ trở thành một đối trọng to lớn đối với đồng USD và đồng Yên Nhật, góp phần tăng cường vai trò kinh tế của các nước EU trên thị trường tài chính - tiền tệ thế giới.
Ngoài ra đồng tiền chung EURO sẽ thúc đẩy các nước thành viên tham gia EMU phải điều chỉnh chính sách tài khoá để phù hợp với chính sách tiền tệ chung, để đáp ứng các đòi hỏi trong mục tiêu phát triển đặc thù của mình. Việc các nước không còn cơ hội sử dụng những chính sách tiền tệ riêng để đối phó với những vấn đề như chu kỳ kinh doanh và cơ cấu kinh tế, điều đó buộc từng quốc gia thành viên trong liên minh phải cải cách thị trường lao động, thị trường sản phẩm thúc đẩy quá trình cải tiến áp dụng công nghệ mới, cải cách cơ cấu kinh tế đất nước, nhanh chóng tăng cường sức mạnh cạnh tranh trong liên minh.
Mặc dù đồng EURO được xây dựng chủ yếu phục vụ liên kết kinh tế châu Âu, nhưng đồng EURO ra đời sẽ có nhiều tác động đối với nền kinh tế thế giới. Bởi vì, khi đồng EURO ra đời, nó sẽ đánh dấu một sự thống nhất chính sách tiền tệ của các nước EU và sự hội nhập toàn diện để trở thành một thị trường duy nhất về dịch vụ tài chính. Do qui mô thương mại của EU tương đối lớn nên quá trình liên kết kinh tế của khối này sẽ có nhiều tác động đến các nền kinh tế khác. Quá trình liên kết kinh tế của EU đã diễn ra từ lâu và đã tác động đến tương đối hoàn chỉnh ở nhiều lĩnh vực (thương mại, di chuyển vốn, lao động, qui chế, luật lệ) của nền kinh tế thế giới.
Một trong những đặc điểm quan trọng nhất của nền kinh tế thế giới hiện nay là quá trình khu vực hoá đang được đẩy mạnh chưa từng thấy. Trong đó, tiến trình thống nhất tiền tệ châu Âu sẽ đẩy mạnh hơn quá trình khu vực hoá trong nền kinh tế thế giới. Việc các nước EU và các nước trong Hiệp hội Mậu dịch tự do châu Âu (EFTA) ký kết thành lập “Không gian kinh tế châu Âu (EEA)” sẽ tạo ra một thị trường thống nhất giữa 15 nước EU và 4 nước thành viên khác của châu Âu với không gian trải dài từ Bắc cực đến Địa Trung Hải, từ Đại Tây Dương đến Trung Âu. EEA là liên minh kinh tế mở, cho phép các nước châu Âu khác tiếp tục tham gia. Hiện nay khối này sẽ giữ nguyên hiệu lực của 80% những điều luật đã từng chi phối hoạt động của EU và cho phép tự do buôn bán, tự do di chuyển qua biên giới của các nước thành viên các nguồn vốn hàng hoá, dịch vụ và sức lao động. Với nguồn bổ sung mới này EEA chiếm hơn 40% thương mại quốc tế - đây là bước tiến mới trong việc thống nhất châu Âu, là một nhân tố góp phần ổn định châu Âu. Chắc chắn trên thị trường tài chính - tiền tệ quốc tế sẽ có sự thay đổi ngoạn mục trong 3 cột trụ là đồng USD, EURO, và Yên, địa vị của đồng EURO sẽ dần được nâng cao, có nhiều ý kiến cho rằng nó sẽ có khả năng thay thế đồng USD trong các chức năng là đơn vị tính toán, tiền tệ dự trữ và cả chức năng can thiệp vào thị trường tài chính. Hiện nay đã có một số nước tỏ ý muốn một phần ngoại hối của mình và ngoại tệ dự trữ là đồng EURO, đặc biệt trong đó có Trung Quốc. Về vai trò là đồng tiền thanh toán quốc tế, hiện nay đồng tiền của các nước EU chiếm 35%, đồng USD chiếm 42%, đồng Yên Nhật chiếm 12% trong các giao dịch ngoại hối.
Đây quả là những thành tựu hết sức to lớn về kinh tế của liên minh Châu Âu, nhưng để duy trì giữ vững những thắng lợi này EU phải vượt qua được những trở ngại chủ quan và khách quan đang thách thức. Đó là những sự bất đồng trong khối khi tham gia các tổ chức khác như liên minh tiền tệ EMU, sự bất đồng trong hiệp định Maastricht, sự bất đồng giữa các quyết định của các thành viên với tổ chức EU, sự bất đồng giữa nước mới gia nhập EU với các nước thành viên cũ của nó. Thêm vào đó, là ngay bản thân các nước EU còn nhiều yếu kém hơn khi so sánh với Mỹ hay Nhật Bản, đặc biệt là các chỉ số thất nghiệp, lạm phát hay mức tăng trưởng GDP (xem hình 3 và 4 minh hoạ dưới đây).
Hình 3: Tỷ lệ lạm phát của EU, Mỹ và Nhật Bản
Hình 4: Tỷ lệ thất nghiệp của EU, Mỹ và Nhật Bản
Mặc dù còn nhiều chỗ bất đồng giữa các nước trong khối, nhưng với sự nỗ lực của ban lãnh đạo EU và sự hợp tác chặt chẽ của các quốc gia thành viên trong chính sách kinh tế - tài chính, phân phối lại vấn đề vốn để giúp đỡ các nước chậm phát triển trong khối EU không những đã ổn định được nhiều chỉ tiêu kinh tế - xã hội bình quân, mà còn đảm bảo sự phát triển ổn định của toàn cộng đồng. Nếu giờ đây EU khắc phục những điều bất cập nói trên, thì có thể EU trở thành trung tâm kinh tế mạnh nhất nhì thế giới.
Tiềm năng khoa học và công nghệ
Năng lực khoa học và công nghệ
Nguồn tài chính
Tổng chi phí cho nghiên cứu và phát triển (R&D) cho toàn thế giới lên tới khoảng 479 tỷ USD trong năm 1994. Phần lớn R&D được tiến hành tại Bắc Mỹ là 37,9%, Tây Âu là 28% còn Nhật Bản và các nước NICs chiếm 18,6%. Trung Quốc hiện nay chiếm khoảng 4,9% chi phí trên thế giới, Ấn Độ và các nước Trung Á 2,2%, cộng đồng các quốc gia độc lập (CIS) khoảng 2,5% và Mỹ Latinh là 1,9%.
Bảng 1: GERD, GDP và tỷ lệ giữa GERD/GDP của Châu Âu
(GERD và GDP theo khối lượng (tỷ USD) và theo tỷ lệ % so với thế giới)
Khu vực | GERD | GDP | ||
Khối lượng(tỷ USD) | % | Khối lượng(tỷ USD) | % | |
EU | 131,5 | 28,0 | 7.258 | 22,2 |
Trung và Đông Âu | 4,4 | 0,9 | 549 | 1,7 |
CIS | 11,8 | 2,5 | 1.179 | 3,6 |
Nguồn: World science Report 1998
Về tỷ lệ giữa tổng chi phí quốc nội cho R&D (GERD) với GDP, ở Bắc Mỹ là 2,5%, Nhật Bản và NICs là 2,3% là những nơi có tỷ lệ cao nhất, tiếp đó là EU là 1,8% và Châu Đại Dương là 1,5%. Các nước CIS, Trung và Đông Âu gộp lại là 1%, Ấn Độ và các nước Trung Á là 0,6% giữ vị trí trung gian, còn tỷ lệ GERD/GDP thấp nhất là 0,2 - 0,3%.
Nhân lực khoa học và công nghệ của EU
Người ta có thể định lượng “nhân lực khoa học - công nghệ” hoặc bằng số người trong độ tuổi lao động được đào tạo về các lĩnh vực khoa học công nghệ (dù được đào tạo chính thức hay không chính thức) hoặc bằng số người tham gia vào một công việc đòi hỏi phải có một bằng cấp nào đó về khoa học công nghệ dù chính thức hay không chính thức. Định nghĩa này của UNESCO và từ cuốn cẩm nang Canbera của Tổ chức Hợp tác Kinh tế và Phát triển (OECD).
Định nghĩa đầu thì rộng và bao quát một lượng lao động. Định nghĩa sau hẹp hơn nhưng nảy sinh một vấn đề khác liên quan tới quan niệm về tính toán “tham gia R&D tương đương với toàn bộ thời gian”. Định nghĩa này trên thực tế hầu như chỉ có các nước OECD dùng.
Sản phẩm và chỉ số so sánh khoa học - công nghệ trong Châu Âu:
Sản phẩm khoa học và công nghệ
Hoạt động khoa học thông thường được tính bằng việc xuất bản các ấn phẩm khoa học, như số lượng bài báo được in trong các tạp chí khoa học. Ấn phẩm thực sự là một sản phẩm cơ bản của công trình khoa học, nhưng không chỉ có ấn phẩm mà khoa học còn tạo ra những sản phẩm khác mang tính giáo dục bậc đại học hoặc giáo dục về mặt kỹ thuật. Vì vậy, chỉ số này chỉ được phản ánh được một mặt của hoạt động nghiên cứu khoa học mà thôi.
Bảng 2: Sản phẩm khoa học tính bằng ấn phẩm theo lĩnh vực chuyên ngành
(Tỷ lệ % so với thế giới)
Khu vực | Sinh học cơ bản | Nghiên cứu y học | Sinh học | Hoá học | Vật lý | KH trái đất và vũ trụ | HCN và kỹ thuật | Tất cả các lĩnh vực |
EU | 36,3 | 41,5 | 31,8 | 34,1 | 32,9 | 33,2 | 28,8 | 35,8 |
Trung và Đông Âu | 1,4 | 0,8 | 1,6 | 4,4 | 3,2 | 1,7 | 2,3 | 2,0 |
CIS | 1,9 | 0,7 | 2,1 | 8,2 | 9,5 | 4,5 | 4,2 | 4,0 |
Nguồn: World sience Report 1998
Theo nguồn số liệu trên đây, từ năm 1990 trở lại đây EU chiếm 35,8% và đang tăng tới 9% so với năm 1990, trong khi các vùng khác thuộc Châu Âu đều giảm như CIS hay Trung và Đông Âu. Điểm mạnh của EU chính là nghiên cứu về y học, nhưng thực chất lại chủ yếu về khoa học và công nghệ.
Bảng 3: Sản phẩm khoa học tính bằng ấn phẩm
(Tỷ lệ % so với thế giới)
Khu vực | 1995 (%) | 1995 (cơ sở 1990 = 100) |
EU | 35,8 | 109 |
Trung và Đông Âu | 2,0 | 83 |
CIS | 4,0 | 56 |
Nguồn số liệu của SCI và Compumath
Hoạt động công nghệ và Patăng
Theo nguyên tắc Patăng được công bố, hoạt động công nghệ có thể được biểu thị bằng số lượng Patăng do cơ quan đăng ký Patăng công bố ra. Patăng ở đây không phải là loại dụng cụ công nghiệp mà là dấu hiệu của năng lực công nghệ ở ranh giới trí thức. Trong thực tế, Patăng liên quan đến cơ quan đăng ký và do một cơ quan Patăng quốc gia công bố. Một phần của câu trả lời là chọn hai hệ thống đăng ký Patăng lớn và mang tính quốc tế nhất, đó là Mỹ và EU.
Bảng 4: Sản phẩm công nghệ tính bằng Patăng, 1990 - 1995
(Tỷ lệ % so với thế giới)
Khu vực | Patăng châu Âu | Patăng Mỹ | ||
1995 (%) | 1995 (cơ sở 1990=100) | 1995 (%) | 1995 (cơ sở 1990=100) | |
EU | 47,4 | 91 | 19,9 | 78 |
Trung và Đông Âu | 0,4 | 101 | 0,1 | 59 |
CIS | 0,4 | 113 | 0,1 | 59 |
Kết quả phân tích cho thấy sự giảm nhẹ thị phần thế giới của EU trong hệ thống Patăng Châu Âu (-0,9%) trong vòng 5 năm và tương đối rõ ở hệ thống Patăng Mỹ (-22%). Các nước CIS, Trung và Đông Âu vẫn duy trì được tỷ lệ cũ của họ trong hệ thống Châu Âu, nhưng lại giảm đáng kể trong hệ thống của Mỹ.
Chỉ số so sánh sản phẩm khoa học và công nghệ
Bảng 4: Sản phẩm R&D liên quan tới GDP, 1994
( chỉ số theo GDP2)
Khu vực | Ấn phẩm khoa học | Patăng châu Âu | Patăng Mỹ |
EU | 161 | 213 | 89 |
Trung và Đông Âu | 120 | 25 | 7 |
CIS | 112 | 10 | 3 |
Nguồn: Indication of world science today
Chỉ số sản phẩm khoa học theo GDP vừa gắn với chi phí R&D, vừa gắn với tầm quan trọng của các nhà nghiên cứu mang tính hàn lâm trong khuôn khổ hoạt động R&D quốc gia (ở bảng trên). Nhìn vào bảng trên ta thấy EU chiếm tỷ số khá cao trong các nước Châu Âu tới 121, trong khi các nước CIS là 112 hay Trung và Đông Âu là 120 đều cao hơn các nước bình quân trên thế giới. Tuy nhiên chỉ số này vẫn còn thấp hơn Bắc Mỹ là 222 hay châu Đại Dương là 161.
So sánh các chỉ số khoa học và công nghệ của EU với Mỹ và Nhật Bản:
“Hệ thống đổi mới” của mỗi thành viên trong 3 nhóm EU, Mỹ và Nhật Bản đều có đặc trưng riêng khi nói về cơ cấu cấp tài chính. Ở EU thì ngân sách nhà nước - dân dụng công cộng tương đối quan trọng, ở Mỹ thì ngân sách quân sự, ở Nhật Bản thì do ngành công nghiệp cấp chủ đạo.
Về việc tiến hành hoạt động R&D, các trường đại học và các viện nghiên cứu nhà nước trong EU chiếm tỷ lệ tương đối cao hơn; còn ở Mỹ và Nhật Bản thì công nghiệp giữ vai trò chủ đạo. Nếu so sánh với thành viên khác của “nhóm 3 đỉnh cao” thì EU có tốc độ tăng trưởng trên mức bình quân về khoa học trái đất và vũ trụ là +17% và về sinh thái học/sinh thái học ứng dụng là +12% trong vòng 5 năm đến 1995.
Điều đáng ngạc nhiên là bộ môn mạnh nhất của EU là nghiên cứu y học - chỉ tăng trưởng rất nhỏ là +5%, tiến không nhanh so với các ngành kỹ thuật vốn là lĩnh vực yếu nhất của họ là 5%. Trong khi đó thì mô thức tiến hoá của Mỹ theo hướng đi sâu vào chuyên môn, hai bộ môn tương đối yếu nhất của họ là sinh thái học/sinh thái học ứng dụng và vật lý, thực tế tăng trưởng là -9% trong khoảng 1990 - 1995 (so với việc giảm bình quân cho tất cả bộ môn là 4%). Tuy nhiên hai lĩnh vực là mạnh nhất là nghiên cứu y học và sinh học cơ bản của Mỹ thì đạt tốt hơn trên mức bình quân. Còn tại Nhật Bản, ba bộ môn yếu (nghiên cứu y học, sinh thái học/sinh thái học ứng dụng, và các khoa học về trái đất và vũ trụ) đã có độ tăng trưởng trung bình so với cả nhóm (15%, 17% và 13%); trong khi ba bộ môn yếu hơn như toán học thì vẫn còn tiếp tục giảm 12%.
Về phương diện sản phẩm công nghệ (đo bằng số lượng Patăng), tình hình của Mỹ trái ngược hẳn với EU và Nhật Bản. Giữa năm 1990 - 1995, phần Patăng tính theo hệ thống Patăng Châu Âu tăng từ 25,7% lên tới 32,1% so với thế giới và theo hệ thống của Mỹ, tăng từ 45,5% lên tới 49,2%. Trong cùng thời kỳ ấy, EU đều mất điểm trong cả hai hệ thống (5 điểm); còn Nhật Bản mất 3 điểm trong hệ thống Châu Âu nhưng vẫn còn duy trì mức cũ theo hệ thống của Mỹ (sau sự tăng trưởng ngoạn mục vào những năm 1980). Trong các lĩnh vực công nghệ tương đối yếu như điện tử/đồ điện và hoá học/dược, EU đã trở lại mức bình quân năm 1995. Còn trong lĩnh vực thứ ba yếu là thiết bị đo đạt mức dưới trung bình. Ngược lại, ba điểm này là ba điểm mạnh của Mỹ và họ đứng trên EU về cả ba. Về thiết bị đo, Mỹ chiếm tới 31% so với thế giới, còn hai lĩnh vực kia Mỹ đạt tới 21%. Nhật Bản vẫn đi vào chuyên môn hoá về hàng điện tử/điện dân dụng nhưng họ đang bị mất đi một cách nhanh chóng vị thế trong các lĩnh vực dụng cụ đo và hoá học/dược.
Trong khuôn khổ hệ thống Patăng Mỹ, hàng điện/điện tử từ lâu vẫn tụt sau các sản phẩm công nghệ của EU (chỉ đạt 11% so với thế giới) và đây chính là lĩnh vực mà EU mất nhiều vị trí nhất trong khoảng thời gian 1990 – 1995 là -34%. Về phần mình, Mỹ cũng có vị thế chủ đạo về thiết bị đo với mức tăng là 14% và về hoá học/dược với mức tăng là 6%. Còn Nhật Bản thì giữ được, thậm chí còn tăng phần trăm so với thế giới về các hàng điện/điện tử. Ngược lại, về lĩnh vực khá nhất thứ hai là dụng cụ đo thì họ lại có mức tăng âm (-9%).