25/05/2017, 09:47

Kể về một người đáng kính, đáng yêu mà em biết – Văn mẫu lớp 9

Kể về một người đáng kính, đáng yêu mà em biết – Văn mẫu lớp 9 4.8 (96%) 380 votes Kể về một người đáng kính, đáng yêu mà em biết – Bài làm 1 của một bạn học sinh giỏi Văn tỉnh Thái Nguyên Hai năm về trước vào một buổi chiều thứ bảy, em đi học về, thấy trong nhà có khách lạ. Đó là một ...

Kể về một người đáng kính, đáng yêu mà em biết – Văn mẫu lớp 9 4.8 (96%) 380 votes Kể về một người đáng kính, đáng yêu mà em biết – Bài làm 1 của một bạn học sinh giỏi Văn tỉnh Thái Nguyên Hai năm về trước vào một buổi chiều thứ bảy, em đi học về, thấy trong nhà có khách lạ. Đó là một cụ già ngoài 70 tuổi lần đầu tiên mới đến nhà em chơi. Em cất mũ, ...

Kể về một người đáng kính, đáng yêu mà em biết – Bài làm 1 của một bạn học sinh giỏi Văn tỉnh Thái Nguyên

Hai năm về trước vào một buổi chiều thứ bảy, em đi học về, thấy trong nhà có khách lạ. Đó là một cụ già ngoài 70 tuổi lần đầu tiên mới đến nhà em chơi. Em cất mũ, khoanh tay chào cụ và chào bố rồi xin phép đi vào nhà đặt cặp sách lên bàn học và đi rửa mặt mũi chân tay.

Cụ già và bố em vẫn ngồi nói chuyện ở bộ xa lông nơi phòng khách. Tiếng “thưa Thầy" của bố em nói, em nghe rất rõ. Tiếng cụ nói nhỏ nhẹ ấm áp. Một lát sau, mẹ em ở cơ quan và chị Hoa đi học cùng về. Lúc bấy giờ, bố em mới gọi 3 mẹ con lại và giới thiệu:

Cụ là thầy giáo thời kháng chiến chống Pháp ở Thanh Hóa. Nửa thế kỉ sau thầy trò mới gặp lại nhau. Nghĩa tình thủy chung là vậy. Thầy đã đào tạo được nhiều lớp học sinh tài giỏi.

Bố em lần lượt giới thiệu với thầy về mẹ, về chị Hoa và em. Bố báo tin cho thầy biết là ông bà nội của em, người mà thầy từng quen biết, đã mất cách đây hơn mười năm.

Bố mẹ mời thầy ở lại chơi, nhưng thầy bảo phải về vì tối nay đã hẹn bạn già cùng gặp mặt. Bố mẹ em và hai chị em tiễn thầy ra tận xe tác xi. Cụ xoa đầu em và nhắc bố em chủ nhật tới đưa vợ con lên chơi nhà thầy.

Buổi tối hôm ấy, vừa ăn cơm bố em vừa kể chuyện về những ngày tản cư vào Thanh Hóa. Đó là năm 1947. Các thầy học cũ nay đã mất gần hết. Thầy Trung dạy lớp Nhất. Thầy dạy giỏi và rất thương học trò. Khi nhận lời vào lớp, thầy nói với ông nội các con: "Chẳng cần giấy tờ gì. Thời buổi chiến tranh mà. Chỉ cần cháu có sức học và quyết tàm học tập là được…"

Thầy Trung đậu Tú tài thời Pháp thuộc. Vì thế, những năm học cấp 2 và cấp 3, bố em là học sinh của thầy, do thầy làm chủ nhiệm. Thầy rất thương các học sinh tản cư về học ở trường, lớp thầy. Bố nhắc lại bao kỉ niệm sâu sắc về thầy và gia đình thầy. Thầy tổ chức cho học sinh đi thăm núi Nga, đập Bái Thượng, đi tắm mát ở Sầm Sơn ngắm hòn Trống, Mái. Mấy lần thầy giữ lại ăn cơm. Có lần, bố em gặp vợ thầy đi chợ về bố em đã xách hộ cụ một bị cói dựng đầy gạo và mấy quá dứa. v.v..

Cụ có 3 người con: hai trai, một gái và 8 đứa cháu nội ngoại. Cụ bà đã mất vào năm 1980. Hiện nay, cụ ở với người con trai út trong khu tập thể Quân đội tại phố Lý Nam Đế. Mấy lần em được theo bố mẹ mang hoa lên tặng cụ nhân ngày Nhà giáo Việt Nam. Cụ đón tiếp niềm nở, thân tình; cụ coi bố mẹ em và hai chị em em như con cháu trong gia đình. Cụ hỏi rất kĩ về việc học ở trường, ở lớp, việc tự học củạ hai chị em. Cụ thích đọc báo, trong đó, có một số tờ báo tiếng Pháp. Nhiều học trò cũ vẫn đến thăm thầy. Ấn tượng sâu sắc nhất đối với em về người thầy của bố là hình ảnh mội cụ già tóc bạc trắng, vầng trán cao, đôi mắt hiền từ, dáng người thanh tú. Lời nói, nụ cười, cử chỉ toát lên một sự ấm áp, tao nhã, chứa chan tình thương mến bao la. Mội trí thức, một ông thầy cao nhã.

Lần nào cũng vậy, khi bố mẹ em bày hoa quả lên bàn thờ, thắp hương khấn rồi mới xin phép thầy về . Cụ tiễn ra tận ngoài cổng xa xa mới quay trở lại.

Đầu năm học mới 2004-2005, cụ gửi tặng chị Hoa một chiếc túi xinh xắn, tặng em một chiếc cặp rất đẹp, món quà cụ đi tham quan Trung Quốc mua về.

Cụ Trung, người thầy học cũ của bố em là hình ảnh tuyệt đẹp về nhà giáo Việt Nam: thông minh, nhân ái, thanh bạch và sang trọng. Mồi lần được theo bố mẹ đến thăm cụ, lúc nào em cũng suy nghĩ mãi về truyền thống tôn sư trọng đạo của nhân dân ta. "Phải có chí hướng trong học lập cháu ạ …" – câu nói ấy của cụ nhắc chị Hoa, nhắc em. Em nhớ mãi.

Kể về một người đáng kính, đáng yêu mà em biết – Bài làm 2

Năm học lớp Hai, lần đầu được đọc “Đất rừng phươngNam”của nhà văn Đoàn Giỏi, tối tưởng như mình được cùng bé An đến thăm đất Mũi Cà Mau, đi chợ Năm Căn, đi thuyền dọc theo sông Tiền, sông Hậu, đi chơi vườn chim, xem bắt cá sấu, ngắm cảnh các sóc người Miên,… Tôi tùng mơ ước được “bay” theo câu hò của chú Tư, câu hát cải lương của dì Sáu, những cảnh vật và con người nơi đất rừng phương Nam vẫn vời vợi trong tâm hồn tuổi thơ. Những mùa thi vần kéo dài mãi. Hè 2008 đến với tôi như một cơn mơ: tôi đã được đến thăm miền Tây Nam Bộ.

Ngoại tôi bảo: “Cháu đi cho biết đó biết đây…”, nhưng chỉ có hai tuần lễ! Tôi đã đi chơi núi Bà Đen, xem bến cá Rạch Giá, đến “cõithơ”Hà Tiên, đi Cà Mau, Bạc Liêu, nghe hát cải lương, đi chợ nổi Cái Răng, ăn bánh xèo bông điên điển,… Hành trang tuổi thơ đầy ắp bao kỉ niệm được tôi mang về Bắc.

Tôi muốn ghi lại đây một vài điều tôi hnớ khi đi thuyền từ Châu Đốc đến Hà Tiên. Bác Sáu Chì, người thân quen của ngoại tôi, chở hàng từ ChâuĐốc đến Hà Tiên đã vui vẻ cho tôi “đi chơi một chuyến”kẻo ởnhà mãi lại lầm tưởng “nhất mẹ nhì con”.        

Ngày đầu xuôi trên đoạn đầu kênh Vĩnh Tế. Tôi đã được đi theo dì út vàchú Ba Kê đến thắp hương ở lăng Thoại Ngọc Hầu chân núi Vĩnh Tế Sơn,nay gọi là núi Sam để tưởng nhớ công đức người xưa

Tháng chạp năm Kỉ Mão (1819), vua Gia Long xuống chỉ dụ đào con kênh này để “mở thuỷ lộ thông với Hà Tiên”, đê “nông thương đều lợi”:về san dân tụđông, đất mở rộng sẽ thành một trấn to". Năm 1921,vua Minh Mạng lại nói rõ thêm: “Vùng địa đầu quan yếu, ta xuống chiếu chỉ chiêu tập dân buôn, cho vay tiền, gạođể lập ấp, khẩn điền, quây quần sinh nhai. Đó là ý của ta trong đại sự củng cố biên cương”

Hàng ngàn, hàng vạn dân binh đào kênh được trưng dụng từ Hà Tiên, Vĩnh Long, Châu Đốc,… kể cả binh lính đồn trú ở biên cương. Cứ ba tháng mỗi phiên, lớp trước về thì toán sau đến, thay nhau đào, có lúc trên công trường số dân binh lên đến gần 10 vạn người. Họ đào ngày, đào đêm trong ánh đuốc, trong ánh nắng lửa mưa chan. Dân phu đào kênh không lo đói vì dược Triều đinh trả tiền gạo, ốm đau được chăm sóc cơm cháo thuốc men. Nhưng công việc đào kênh trải qua nhiều năm tháng, vô cùng vất vả, nguy hiểm. Gần hết chiều dài dòng kênh đều qua vùng rừng thiêng nước độc. Hổ, cá sấu ngày đêm đe doạ. Rắn, rết, muỗi mòng như rơm, như trấu. Có đoạn lòng đất toàn đá. Dân binh đào kênh với công cụ thô sơ, phải dùng đục với chày vồ nạy từng tảng đá. Có nhiều người đã ra đi mãi không trởvề.

Thoại Ngọc Hầu cùng tuỳ tùnglúc nào cũngcó mặt trên công trường, bất kể nắng mưa, đêm ngày. Phu nhân của Ngài là Vĩnh Tế, một phụ nữ đức độ, đảm đang. Bà thay mặt chồng lo việc ăn, nước uống cho hàng vạn người đào kênh, săn sóc thuốc men cho người bị ốm đau, tổ chức tang ma chu đáo cho những người chết. Vợ chồng Thoại Ngọc Hầu bán hết gia sản, góp một phần kinh phí với Triều đình để đào kênh. Hàng triệu người đã hết lời ngợi ca công đức của Thoại Ngọc Hầu và bà Vĩnh Tế.

Đến tháng 10 năm 1824, sau gần 5 nãm, đại công trình mới hoàn thành. Con kênh dài gần 100km, rộng 40 mét, sâu 4 mét, nối liền Châu Đốc – Hà Tiên. Nó xứng đáng là công trình thủy lợi lớn nhất từ xưa đến nay. Nó còn là hào luỹ kiên cố nơi bờ cõi phía Nam Tổ quốc. Nó đã góp phần quan trọng làm thay đổi miền Tây Nam Bộ bao la. Hai thế kỉ đã trôi qua, đất thơm cò đậu, vùng tứ giác Long Xuyên đã trở thành vựa lúa của nước ta, nơi cư ngụ của hơn mười triệu người, sản xuất nhiều triệu tấn gạo, hàng vạn tấn thuỷ sản xuất khẩu hàng năm.

Dọc theo chiều dài dòng kênh, có hàng trăm thôn ấp trù phú, vườn trái sum sê đều mang cái tên cóchữ "Vĩnh" dứng đầu: Vĩnh Tế, Vĩnh Gia, Vĩnh Lạc, Vĩnh Hà, Vĩnh Hồng, Vĩnh Điền, Vĩnh Bào, v.v…

Để tônvinh và ghi nhớ công đức của ông bà Thoại Ngọc Hầu, vua Minh Mạng và Triều đình đã lấy tên bà phu nhân Vĩnh Tế đặt tên cho dòng kênh. Và trên Cao Đỉnh trong Cửu Đỉnh đặt trang trọng uy nghiêm nơi sân Thế Miếu cố đô Huế, vua Minh Mạng cho khắc 3 chữ "Vĩnh Tế Hà" với hình dòng sông uốn lượn dưới dải núi non, cây cỏ, để nhắc nhở người đời sau “Uống nước nhớ nguồn” về công cuộc thuỷ lợi này.

Bác Sáu Chì, chú Ba Kê và dì út đã kể cho tỏi nghe bao câu chuyện về con kênh Vĩnh Tế. Sáng sớm, chiều tà, giữa đêm khuya vàng vặc trăng sao, tôi ra ngồi ở mũi thuyền ngắm cảnh đôi bờ kênh Vĩnh Tế. Thuyền bè tấp nập ngược xuôi, chở đầy ắp hàng hoá nông, thủy sản. Khắp bốn phía con kênh là một màu xanh bao la mênh mông biển lúa. Sân chim nào cũng rợp trời hàng ngàn, hàng vạn cánh cò, cánh vạc, bồ nông… bay lượn, cất tiếng kêu náo động cả chiều quê. Trong cơn mơ, tôi nhìn thấy bà phu nhân xắn quần cao, lội bùn đi thăm dân phu kênh bị ốm… Tôi nhẩm theo câu hò văng vẳng đâu đây:

"Kênh Vĩnh Tế, biển Hà Tiên,

Ghe thuyền tấp nập bán buân dập dìu "…

Bác Sáu Chì đã cho tôi bao nhiêu quà quý mang về Bắc. Ba bốn lần bác nhắc đi nhắc lại: “Về ngoài nớ nhớ học giỏi học chăm. Hè sang năm vào thăm ngoại, bác sẽ đưa cháu đi chơi…”. Tôi lại“ nhẩm thầm mấy câu trong bài “Tế cô hồn kênh Vĩnh Tế” mà dì út đã đọc cho tôi nghe hôm đi thăm lăng Thoại Ngọc Hầu dưới chân núi Sam:

“Đào kênh trước mấy kì khó nhớ,

Khoác nhung y chống đỡ biên cương.

Xông pha máu nhuộm chiến trường

Bọc thây da ngựa, gửi xương chốn này… ” .

Kể về một người đáng kính, đáng yêu mà em biết – Bài làm 4

Nhà bà ngoại em ở làng hoa Ngọc Hà thuộc thành phố Hà Nội. Hè nào mẹ em cũng đưa 3 con từ Ninh Bình lên thăm bà và ở chơi với bà một hai tuần lề.

Bà ngoại năm nay tròn 70 tuổi. Bà là con gái làng hoa nên có nước da rất đẹp: trắng trẻo, hồng hào. Gương mặt hiền từ, phúc hậu. Tiếng nói của bà nhẹ nhàng, tình cảm. Mái tóc của bà nay đã bạc, nhưng vẫn mượt mà, bà búi gọn trông rất ưa nhìn. Bà nói thời con gái tóc bà xanh mượt, dài chấm gót. Mắt bà vẫn tinh anh, chỉ khi nào đọc báo thì bà mới đeo kính lão.

Bà có đôi bàn tay khéo léo. Hái hoa, tỉa cành, bắt sâu cho hoa, đôi bàn tay bà làm nhanh thoăn thoắt. Bà bảo: "Chăm hoa như chăm con trẻ, phải nâng như nâng trứng, hứng như hứng hoa chứ… ” Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, bà đã mấy lần đi Đà Lạt tìm mua giống hoa quý. Vườn hoa của bà có rất nhiều loài hoa, đẹp nhất, thích nhất là những luống hoa hồng, hoa cúc,… đúng là muôn hồng nghìn tía. Bà thuộc tính nết từnng loài hoa. Nghệ thuật "hãm” hoa nở đúng kì, đúng dịp lễ tết của bà cả làng hoa Ngọc Hà ai cũng phục và nể.

Tính bà cần cù, thức khuya dậy sớm đã thành thói quen. Con trai, con gái, dâu, rể trong gia đình, ai cũng kính yêu, quý trọng bà. Bà có 12 đứa cháu nội, ngoại. Đứa nào bà cũng cho 20 triệu đồng để mua xe máy đi làm, hoặc làm quỹ học tập. Mẹ em là con út, lấy chồng xa, nên bà rất thương. Đôi hoa tai và dây chuyền vàng của bà , bà đã cho mẹ em. Mẹ em vẫn cất giữ nâng niu.

Hè nào lên Hà Nội thăm bà. Bà cũng hỏi về chuyện học hành. Cả ba chị em đều đạt học sinh giỏi. Bà khen, bà cười, nước mắt bà chảy ra.

Thương bà và nhớ bà lắm. Chỉ mong được nghi hè lên Hà Nội ở chơi với bà. và nghe bà đọc bài ca dao:

"Giếng Ngọc Hà vừa trong vừa mát,

Vườn Ngọc Hà thơm ngát gần xa,

Hỏi người xách nước tưới hoa,

Có cho ai được vào ra chốn này? ”

Khi ấy, thấy bà vui và như trẻ lại. Em chỉ cầu mong bà ngoại em được vui khoẻ và sống lâu cùng con cháu.

Bài viết liên quan

0