Juan Ramón Jiménez (1881-1958), nhà thơ Tây Ban Nha, giải Nobel Văn học năm 1956. Ông sinh ngày 24-12—1881 ở Moguer, tỉnh Huelva, học xong cao đẳng Jimenez vào Đại học Sevelle nhưng bỏ dở chừng để đi làm báo. Năm 1900, xuất bản tập thơ đầu tiên Hồn hoa tím và tiếp theo đó gần như mỗi năm một tập thơ ra đời. Từ những năm 1920, J. Jimenez được tôn vinh như một bậc thầy của thế hệ các nhà thơ mới; trong sáng tác, ông từ bỏ cách viết cũ, hướng thơ ca đến sự cởi mở, trong sáng mang tính nghệ thuật thuần tuý.
Thời kỳ nội chiến Tây Ban Nha, ông được cử làm Tuỳ viên văn hoá danh dự ở Mỹ, nhiều lần đến đọc bài giảng ở các trường đại học Mỹ, Puerto Rico và Cuba. Năm 1939 Franko lên nắm quyền ở Tây Ban Nha, ông và vợ quyết định không quay trở về tổ quốc. Năm 1956 ông được trao giải Nobel "vì những tác phẩm thơ trữ tình, mẫu mực của tinh thần cao cả và sự tinh khiết nghệ thuật trong thơ Tây Ban Nha". Juan Jimenez là một tấm gương suốt đời tận tuỵ, trung thành với nghệ thuật thơ ca. Đối với ông, nghệ thuật là tôn giáo, trong đó thơ là nghi lễ duy nhất, sáng tạo là hình thức tín ngưỡng độc tôn. Thơ của Jimenez được dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế giới, trong đó có tiếng Việt. Juan Ramon Jimenez mất tại Puerto Rico năm 1958 hưởng thọ 76 tuổi.
Tác phẩm:
- Hồn hoa tím (Almas de violeta, 1900), thơ
- Những bông huệ nước (Ninfeas, 1900), thơ.
- Vần điệu (Rimas, 1902), thơ.
- Những khúc ca buồn (Arias tristes, 1903), thơ.
- Những khu vườn xa (Jardines lejianos, 1904), thơ.
- Những bài thơ đồng quê (Pastorales, 1905), thơ.
- Những khúc bi ca (Elejias puras, 1908), thơ
- Những khúc ca xuân (Baladas de primavera, 1910), thơ
- Sự cô đơn âm vang (La soledad sonora, 1911), thơ
- Những bài thơ huyền ảo đau buồn (Poemas májicos y dolietes, 1911), thơ
- Mê cung (Laberinto, 1913), thơ.
- Mùa hè (Estio, 1915), thơ
- Những bài sonet trí tuệ (Sonetos espirituales, 1917), thơ.
- Nhật kí nhà thơ mới cưới vợ (Diario de un poeta recién casado, 1917), thơ
- Vĩnh cửu (Eternidades, 1918), tập thơ
- Đá và bầu trời (Piedra y cielo, 1919), thơ
- Thơ ca (Piedra, 1923), thơ
- Vẻ đẹp (Belleza, 1923), thơ
- Con thú từ độ sâu tâm hồn (Animal de fondo, 1949), thơ.
- Platêrô và tôi (Platero y yo, 1914)
Tác phẩm đã dịch sang tiếng Việt:
- Con lừa và tôi (Platero y yo), Bửu Ý dịch, NXB An Tiêm, 1974
- Con lừa và tôi (Platero y yo), Bửu Ý dịch, NXB Văn Nghệ TP Hồ Chí Minh, 1995
- Platêrô và tôi (Platero y yo), Nguyễn Văn Quảng dịch, NXB Quân đội nhân dân, 2000
Juan Ramón Jiménez (1881-1958), nhà thơ Tây Ban Nha, giải Nobel Văn học năm 1956. Ông sinh ngày 24-12—1881 ở Moguer, tỉnh Huelva, học xong cao đẳng Jimenez vào Đại học Sevelle nhưng bỏ dở chừng để đi làm báo. Năm 1900, xuất bản tập thơ đầu tiên Hồn hoa tím và tiếp theo đó gần như mỗi năm một tập thơ ra đời. Từ những năm 1920, J. Jimenez được tôn vinh như một bậc thầy của thế hệ các nhà thơ mới; trong sáng tác, ông từ bỏ cách viết cũ, hướng thơ ca đến sự cởi mở, trong sáng mang tính nghệ thuật thuần tuý.
Thời kỳ nội chiến Tây Ban Nha, ông được cử làm Tuỳ viên văn hoá danh dự ở Mỹ, nhiều lần đến đọc bài giảng ở các trường đại học Mỹ, Puerto Rico và Cuba. Năm 1939 Franko lên nắm quyền ở Tây Ban Nha, ông và vợ quyết định không quay trở về tổ quốc. Năm 1956 ông được trao giải Nobel "vì những…