Huyền Quang thiền sư 玄光禪師

Huyền Quang thiền sư 玄光禪師 (hay Huyền Quang tôn giả, 1254-1334) tên thật là Lý Ðạo Tái 李道載 (có sách chép Trần Ðạo Tái, Lý Tái Ðạo). Ông người hương Vạn Tải, châu Nam Sách, lộ Lạng Giang, sinh năm Giáp Dần (1254), mất ngày 23 tháng Giêng năm Giáp Tuất (1334). Theo Tổ gia thực lục trong Tam tổ thực lục thì từ nhỏ ông đã có khiếu văn chương, năm hai mươi tuổi đỗ khoa thi hương và năm sau lại đỗ đầu khoa thi hội. Được bổ dụng vào Viện nội hàn, từng tiếp sứ Bắc, rất nổi tiếng về thơ văn. Nhưng không bao lâu ông một mực xin từ chức đi tu. Được người đứng đầu dòng Thiền Trúc lâm lúc bấy giờ là Trần Nhân Tông rất quý mến, giao cho Pháp Loa hướng dẫn. Về sau ông trở thành vị tổ thứ ba của dòng thiền này. Huyền Quang là một nhà sư đồng thời là một thi sĩ có tiếng đời Trần. Thơ ông rất đậm chất trữ tình. Các nhà phê bình đời trước như Lê Quý Đôn, Phan Huy Chú đều khen thơ ông "ý tinh tế, cao siêu", "lời bay bướm, phóng khoáng". Có lẽ con người thi nhân trong ông rõ nét hơn con người tôn giáo. Xung quanh thân thế ông có nhiều giai thoại khá hấp dẫn, đã trở thành những câu chuyện dân gian được lưu truyền rộng rãi, và cũng đã từng được nhà văn đương thời ghi lại dưới hình thức một truyện truyền kỳ, lý thú, đi vào kho sách vở nhà Phật từ nhiều thế kỷ nay. Tác phẩm hiện còn 24 bài thơ, trong số đó có bài Xuân nhật tức sự gần đây được xác minh là thơ thiền đời Tống, một bài phú Nôm, sách vở cũ cho biết ông còn có các tác phẩm Chư phẩm kính , Công văn tập , thư từ tiếp sứ và tập thơ Ngọc tiên tập nhưng nay đều đã thất lạc. Một số sách còn chép ông chính là tác giả câu thơ nôm cảm khái về nhân tình thái thế khá chua chát sau đây: Khó khăn thì chẳng ai nhìn, Đến khi đỗ trạng, tám nghìn nhân duyên. Huyền Quang thiền sư 玄光禪師 (hay Huyền Quang tôn giả, 1254-1334) tên thật là Lý Ðạo Tái 李道載 (có sách chép Trần Ðạo Tái, Lý Tái Ðạo). Ông người hương Vạn Tải, châu Nam Sách, lộ Lạng Giang, sinh năm Giáp Dần (1254), mất ngày 23 tháng Giêng năm Giáp Tuất (1334). Theo Tổ gia thực lục trong Tam tổ thực lục thì từ nhỏ ông đã có khiếu văn chương, năm hai mươi tuổi đỗ khoa thi hương và năm sau lại đỗ đầu khoa thi hội. Được bổ dụng vào Viện nội hàn, từng tiếp sứ Bắc, rất nổi tiếng về thơ văn. Nhưng không bao lâu ông một mực xin từ chức đi tu. Được người đứng đầu dòng Thiền Trúc lâm lúc bấy giờ là Trần Nhân Tông rất quý mến, giao cho Pháp Loa hướng dẫn. Về sau ông trở thành vị tổ thứ ba của dòng thiền này. Huyền Quang là một nhà sư đồng thời là một thi sĩ có tiếng đời Trần. Thơ ông… Góp một số suy nghĩ về thiền sư, thi sĩ Huyền Quang - Phần I Đăng bởi Bùi Thuỵ Đào Nguyên vào 02/05/2007 22:24 Tác giả: Bùi Thụy Đào Nguyên Mấy năm liền...vì việc riêng, tôi tạm trú ở chùa. May sao nơi đấy có kha khá kinh sách, nhờ vậy tâm trí tôi tạm khuây khoả. Và trong số tàng thư ấy, quyển Vũ Trung Tuỳ Bút (Phạm Đình Hổ) có chứa mẩu chuyện Lý Đạo Tái đã gợi tôi nhiều cảm hứng để tìm hiểu vị thiền sư đời Trần này. Sách Vũ Trung Tuỳ Bút chép: Huyền Quang (H.Q) tên Lý Đạo Tái, là bậc khoa bảng mà bỏ đi tu...Gần đây, ông Nguyễn Hoàn, người cổ đô có soạn bài Huyền Quang hành bằng quốc ngữ, trong đó có nói chuyên nàng Bích. Nhưng chuyện ấy không thấy chép trong sử, ta thường lấy làm ngờ. Còn nhớ, khi mới lên bảy tám tuổi, thường theo bà tiên cung nhân ta sang hầu bà cô họ ngoại...Khi các bà ngồi rỗi nói chuyện, có nói đến nàng Bích, ta mới biết qủa có người ấy thật...Sau ông Nhữ Công Chân có câu thơ rằng: Giai nhân lạc địa uỷ kim điền (Giai nhân đày đoạ rụng bông vàng) Lại có câu: Tằng hướng tiêu phòng khoa yểu điệu Khước lai sơn tự bạng không thiền (Phòng tiêu thuở trước từng khoe đẹp Chùa núi sau này tựa cảnh không) Thật lòng,đọc mấy câu thơ trên khiến tôi nhiều băn khoăn...Nhưng tôi sẽ trở lại vấn đề này, sau khi nêu vắn tắt tiểu sử người họ Lý: 1.Thiền sư Huyền Quang (Giáp dần 1254-Giáp tuất 1334) tên Lý Đạo Tái, người hương Vạn Tải, châu Nam Sách, lộ Lạng Giang (nay thuộc huyện Gia Lương, tỉnh Hà Bắc). Theo sách Tổ gia thực lục, cha của ông tên Tuệ Tổ, có công đánh Chiêm Thành nhưng không chịu làm quan, sớm tối chỉ vui thú với sách vở và việc đồng áng. Mẹ ông là Lê thị (?), người hiền lành. Tương truyền, dung mạo ông xấu xí lại thêm cảnh nghèo khó, nên ông thường bị người đời hất hủi,cả việc đi hỏi vợ nhiều nơi vẫn không thành. Nhờ tư chất thông minh, hiếu học; năm 20 tuổi, ông đỗ thi hương rồi năm sau đỗ đầu thi hội (theo Đăng khoa lục, H.Q đỗ tiến sĩ năm Bảo Phù thứ hai, 1274). Đến lúc ấy, nhiều gia đình mới lân la để gả con, nhưng ông đều từ chối. Ông chua chát viết: Khó khăn thì chẳng ai nhìn Đến khi đỗ trạng, trăm nghìn nhân duyên Kể từ đó, trên dưới 30 năm, ông làm quan tận tuỵ nơi viện nội Hàn. Từng phụng mệnh tiếp sứ giả phương Bắc, bởi ông thông thạo thư tịch, giỏi đối đáp, ứng xử...Một lần, ông theo vua Trần Anh Tông đến chùa Vĩnh Nghiêm huyện Phụng Nhãn dự buổi thuyết pháp. Nghe xong, ông chạnh lòng than: ...Phú qúi vinh hoa thích thú Đáng lo như lá vàng mùa thu, mây trắng ngày hè Sao ta có thể lưu luyến lâu dài được ?... Nhờ nhà Trần rất sùng tín đạo Phật, nên sau vài lần dâng biểu xin từ quan để đi tu, ông được vua chấp thuận. Buổi đầu xuất gia khi đã 51 tuổi (1305), ông đến học đạo với thiền sư Bảo Phác nơi chùa Lễ Vĩnh. Sau ông theo Sơ Tổ Thiền phái Trúc Lâm là Điều Ngự giác hoàng Trần Nhân Tông khoảng 2 năm để giúp việc biên soạn kinh sách, được ngài hài lòng khen: "Phàm sách đã qua tay HQ biên soạn, khảo đính thì không thể thêm bớt được một chữ nào nữa". Khi Trúc Lâm viên tịch, ông theo Pháp Loa (PL) làm đồ đệ người thầy,cũng là Tổ thứ hai thiền phái, trẻ hơn mình đến 30 tuổi (PL sinh năm 1284, mất năm1330). Sau đó ông được cho về trụ trì chùa Vân Yên trên đỉnh núi Yên Tử, nơi phát tích dòng thiền Trúc Lâm.Hằng ngày ông giảng đạo, biên tập kinh...và gần như không còn liên hệ với chốn quan trường. Nhưng chỉ được một thời gian, ông xin về chùa Thanh Mai rồi chùa Tư phúc ở Côn Sơn. Năm 1330, Pháp Loa viên tịch, ông được trao truyền làm Tổ thứ ba dòng thiền này, sau Trúc Lâm, Pháp Loa. Ông từ giã cõi trần tại Côn Sơn vào ngày 23 th. Giêng năm Giáp tuất (1334) thọ 81 tuổi, được vua Trần Minh Tông ban thuỵ hiệu: Trúc Lâm đệ tam đại,Tự pháp Huyền Quang tôn giả. 2. Câu chuyện Huyền Quang với Điểm Bích: Theo sách Tổ gia thực lục (TGTL), sự việc này xảy ra thời vua Trần Anh Tông. Một hôm vua hỏi các quan hầu cùng đạo tăng: "HQ lão sư sống như tấm gương trong không mờ bụi, thế là dồn lấp tình dục hay không có dục tình ?".Nho thần Mạc Đỉnh Chi tâu: "Vẽ hổ chỉ vẽ ngoài da, khó vẽ trong xương, xin hãy cho thử mới biết...". Vua nghe theo,liền ngầm cho cho vời cung nhân Điểm Bích (ĐB), đẹp người lại thông kinh sử đến dặn dò: "Vị tăng kia vốn giới hạnh cao nghiêm, ngươi hãy đến Yên Tử tìm hiểu cho trẫm. Nếu quả vị tăng ấy còn quyến luyến dục tình thì ngươi hãy tìm cách xin Kim tử bằng vàng, đem về cho ta...". Sau một thời gian xin theo học đạo, ĐB thấy ông giữ giới hạnh khó dùng sắc đẹp quyến dụ, nàng nảy sinh ra một kế:giả vờ than khóc nói là con nhà khoa bảng, cha làm quan thu thuế bị cướp sạch bạc tiền. Nếu không hoàn trả, cả nhà sẽ bị tội nặng. Giàu lòng từ bi, ông lấy Kim tử do vua ban tặng, trao cho nàng...Lập tức, ĐB trốn về cung tâu dối với vua, nào là nhà sư ngâm thơ, nào là sư giữ nàng qua đêm như thế nào (1)...Nghe hết lời kể, vua than: "Việc này nếu quả có thực thì chính ta là kẻ thả lưới bắt chim, còn nếu không thì cũng không khỏi gieo sự nghi hoặc...". Sau đó không lâu, vua cho mở đại hội Vô già, thỉnh HQ đến chủ lễ. Đoán biết vua và triều thần đang nghi ngờ sự trong sạch của mình, ông liền lên đàn ngửa mặt rồi niệm chú. Bỗng dưng gió thổi mạnh, mây kéo đến đầy trời...một hồi các tạp vật trên pháp điện đều bị gió cuốn sạch.... Thấy pháp hạnh HQ thấu cả thiên địa, ai nấy đều thất sắc. Nhà vua lạy tạ lỗi với sư và còn bắt phạt ĐB phải làm kẻ hầu hạ nơi chùa Cảnh Linh trong cung. Từ đó, ông càng được vua kính trọng, gọi tôn là Tự Pháp (Nối Đạo). Theo ý riêng, câu chuyện khá phổ biến này có vài điểm cần lưu ý. Trước hết tôi xin nói qua về sách TGTL, đây là tác phẩm khuyết danh, bị lưu lạc qua nhiều thời gian, nhiều địa điểm: sáng tác vào thời nhà Trần, đến thời nhà Hồ bị giặc Minh cướp mang về TQ; nửa đầu thế kỷ XV, Lê Quang Bí (Hoàng giáp năm 1526, nhà Hậu Lê) đi sứ mới tìm lại được, bèn gửi về cho Nguyễn Bỉnh Khiêm xem.Sau có người đem ghép chung với truyện Trần Nhân Tông và Pháp Loa, làm ra sách Tam Tổ thực lục. Nhận xét, so với 2 phần mà TGTL ghép chung, giá trị lịch sử của nó kém hơn. Do người viết chỉ trú trọng đến mặt thần bí mà không để ý tới khía cạnh tư tưởng, yếu lý của HQ. Điều này phản ảnh tình trạng suy thoái của Phật Giáo vào cuối thế kỷ XIV, phật tử chỉ biết thờ cúng cầu nguyện, tin bùa chú..., do chịu ảnh hưởng Mật tông khá nặng. Và chuyện ĐB, lần đầu tiên được chép trong sách ấy;có lẽ đó chỉ là điều đơm đặt của giới nho sĩ nhằm hạ uy tín HQ, gián tiếp đã kích Phật giáo. Có thể có nhiều lý do, nhưng một phần cũng bởi ông bỏ Nho theo Phật. Và tôi cũng không loại trừ do lòng đố kỵ của những người khác phe phái ngay trong thiền môn, bởi ông được các vua Trần tỏ ra ưu ái, tin cậy; phong làm trụ trì, làm Tổ... Vì thế, người soạn thực lục không biết dựa vào tư liệu nào hay chỉ nghe kể, nhưng chắc chắn phải từ những tấm lòng mộ đạo, kính trọng HQ, họ mới tô đậm việc "giải oan"mang màu sắc hết sức thần quyền.Mặt khác, nếu cho việc này là có, sao không thấy sử sách chép và chính Phạm Đình Hổ cũng đã thú nhận "thường lấy làm ngờ".Thêm nữa, theo nhiều nguồn, các chùa chiền thời Trần thường nhiều của cải.Và "kim tử" là tín vật của vua ban cho, không thể nào HQ khinh suất, tự ý giao cho người khác...(2) 3.Huyền Quang với sự suy thoái của Phật giáo Trúc Lâm (PGTL): PGTL là trang sử sáng chói trong lịch sử Phật giáo Việt Nam. Do các người sáng lập đã cố gắng Việt hoá các yếu lý của thiền tông từ nhiều nơi khác đến. Không những PGTL không còn những tư tưởng rối rắm, bi quan, thần bí...mà phái này còn làm được vai trò đoàn kết dân tộc trong 2 cuộc kháng chiến chống xâm lược Nguyên –Mông. Và TL cũng đã có tác động không nhỏ cho sự phát triển nhiều mặt, trong đó có nền văn hoá Phật giáo:thơ ca, kiến trúc, đúc tượng, in ấn, hội hoạ vv... Nhưng đáng tiếc, mọi chuyện không suôn sẻ mãi. Vào giữa thế kỷ XIV, bấy giờ tầng lớp ủng hộ PGTL là quí tộc nhà Trần đã mất dần uy lục chính trị và kinh tế. Họ lại thường lợi dụng danh nghĩa tôn giáo để quyên góp, vơ vét, bắt dân làm nô dịch..Một phần họ làm của riêng; một phần dùng để xây chùa, đúc tượng và lập vô số điền trang rộng lớn cho chùa. Đâu chỉ có vậy, số tăng lữ mỗi ngày một đông mà người thực tu thì quá ít, dẫn đến việc biếng nhác, bè phái, sử dụng bùa chú...hòng mua danh,trục lợi... Tất cả đã làm ảnh hưởng đến vai trò, uy tín của đạo; đến sự phát triển chung của đất nước vừa mới yên bình. Bên cạnh đó, các quan lại xuất thân từ Nho học, đại diện cho tầng lớp cấp thấp, bắt đầu nắm giữ các vị trí quan trọng trong bộ máy nhà nước. Từ thực trạng vừa nêu sơ lược, nhiều nhà nho như Mạc Đỉnh Chi, Trương Hán Siêu,Lê Quát...bắt đầu lớn tiếng công kích Phật giáo... Gánh nặng đó, Pháp Loa đã trao lại cho HQ, một ông già 77 tuổi, tuy có học thức, tài hoa, thông kinh kệ... nhưng không phải là người thích hợp cho công việc lãnh đạo giáo hội.Vả lại, thời gian ông cầm đầu chỉ 4 năm ngắn ngủi (1330-1334), nên sự suy thoái của PGTL không hẳn hoàn toàn do lỗi của ông...(3). (Kỳ sau: Phần IV. Tư tưởng & tâm trạng của HQ, xét qua hành trạng và thơ của ông...) Bùi Thuỵ Đào nguyên Chú thích: (1)Bái thơ nôm như sau: Vằng vặc trăng mai ánh nước Hiu hiu gió trúc ngâm sênh Người hoà tươi tốt cảnh hoà lạ, Màu Thích ca nào thử hữu tình So với các bài thơ của HQ, tôi sẽ trích dẫn ở kỳ sau;bài này ý tứ, ngôn từ kém hẳn. Có thể do người đơm đặt nguỵ tạo. (2)Trong sách Sơn Cư tạp thuật do Đan Sơn viết vào những năm Nguyễn Huệ ra Bắc Hà diệt Trịnh (1786-1789), có nhắc lại chuyện nàng Bích này. Nhưng khác với Tổ Gia thực lục, người viết kết tội HQ say đắm sắc dục, làm hỏng đạo: "Sắc dục nơi đâu ngùn ngụt cháy, rừng thiền một khắc hoá ra tro!", đủ biết sau hơn 450 năm, chuyện ấy vẫn còn được người đời bàn tán... (3) Trong thời kì Pháp Loa (PL) đứng đầu giáo hội, nơi đâu cũng có nhiều chùa tháp được trùng tu, xây dựng mới. Và cứ 3 năm lại có một đợt độ tăng nhân, mỗi lần không dưới một nghìn người. Chỉ tính riêng PL, tính đến năm 1332, ông đã độ được 10500 tăng ni! ☆ ☆ ☆ ☆ ☆ Chưa có đánh giá nào Chia sẻ trên Facebook Góp một số suy nghĩ về thiền sư, thi sĩ Huyền Quang - Phần II Đăng bởi Bùi Thuỵ Đào Nguyên vào 02/05/2007 22:26 Tác giả: Bùi Thụy Đào Nguyên Tư tưởng & tâm trạng của Huyền Quang (HQ): Thật lòng khi viết phần này, tôi băn khoăn rất lâu. Bởi trước tác của ông còn lưu lại quá ít (1), bởi không ít ý kiến cho rằng HQ là người:Tâm không còn phân biệt Ma- Phật, Mê-Ngộ, Thị phi vv...Nghĩa là lòng đã an tịnh, đã có cái nhìn "vong nhị kiến"... Nhận xét như thế không phải không có lý, bởi HQ đã từng bộc lộ qua bài: Chùa Diên Hựu ....Thành ngăn tục luỵ trần không vướng Cửa mở vô ưu mắt rộng tầm Thấy được thị phi cùng một tướng Ma cung, Phật quốc cũng ngồi chung (Nguyễn Lang dịch) Và từ câu chuyện HQ thăm bệnh Pháp Loa (PL): "Ngày 3/3/1330, PL lại phát bệnh nặng. Nửa đêm trở lại thăm thầy, HQ nói: - Xưa nay các bậc đạt ngộ khi giờ phút đến, muốn ở lại thì ở, muốn đi cứ ra đi...(cờ gì cứ trăn trở khi viên tịch ?) PL nói: -Đi hay ở cũng đều không can hệ gì tớ ai. HQ:- Vậy thì sao ? PL: - Thì...tuỳ xứ tát-bà –ha!(2) Câu trả lời làm HQ hả dạ..." vv... Nhưng theo tôi, những tư tưởng nêu trên chỉ cho thấy được một khía cạnh HQ: có học thức và am tường kinh sách. Vì những lời lẽ ấy chỉ là những yếu lý cơ bản của triết học thiền tông mà tu sĩ thường thuộc nằm lòng; chỉ là xu hướng chung của dòng thơ thiền thời Lý Trần; mà cụ thể là ở những người đi trước như Tuệ Trung, Trần Thái Tông, Trần Nhân Tông...Thí dụ: Thân từ vô tướng vốn là không Huyễn hoá phân ra thành nhị kiến Không tâm, không thị cũng không phi Không kiến, chẳng tà cũng chẳng chánh... (Tuệ Trung) Sinh già bệnh chết Là lẽ đương nhiên Muốn khỏi bốn bệnh Bỏ hết tham luyến... (trích Khoá hư lục –Trần Thái Tông) Có có không không Nhìn trái nhìn phải Tra tra xét xét, Phố chợ ồn ào... Có có không không Đau buồn thương xót Cắt đứt sắn bìm, Đó đây khoái hoạt... (Hữu cú hữu vô – Trần Nhân Tông) vv... Trở lại vấn đề HQ, như tôi đã nói, thơ của ông còn lưu lại quá ít cộng thêm ý tứ tinh tế, thầm kín (thơ thiền thường khó lý giải rốt ráo.)Và trừ một vài bài ta định được mốc thời gian ông viết, số nhiều còn lại thì không. Thôi thì, tôi tạm dựa vào cái biết được để so sánh, với lòng mong mỏi được góp chút gì về ông chăng ?... Nhìn lại, suốt những năm tháng của tuổi trẻ, HQ phải sống cảnh nghèo khó, thường bị miệt khinh. Đến khi đỗ đạt(Trạng nguyên thứ 6 /47 vị của nước ta) rồi ra làm quan,chắc gì nơi quan trường nhiều bon chen danh lợi đó, không làm cho trái tim ông ít nhiều vết xướt. Mặt khác, biết đâu nhờ "con đường mới"(Phật giáo), HQ có thể lý giải những gì trăn trở, day dứt...nơi lòng mà ông đã không thể tìm được ở Nho giáo. Có lẽ vì thế khi tuổi đã 51, ông từ quan để tìm đến cửa thiền với tâm trạng khá hăm hở. Xin trích một đoạn bài phú nôm ông làm khi mới lên chùa Hoa Yên: Buông niềm trần tục Náu tới Hoa Yên Chim thuỵ dõi tiếng ca chim thuỵ Gió tiên đưa đòi bước thần tiên Bầu đủng đỉnh giang hoà thế giới Giày thong thả dạo khắp sơn xuyên... Niết được tính ta nên Bụt thật Ngại chi non nước cảnh đường xa (Phú vịnh chùa Hoa yên – Nguyễn Lang dịch) Đề Đạm Thuỷ tự (Đề chùa Đạm Thuỷ) Bên đình Đạm Thuỷ nhiều cỏ nội Núi quang, mây tạnh,bóng xế tà Nhân qua con đường vua đi mà vào thiền thất Giúp nhà chùa đánh chuông và nhặt hoa rơi Đề động hiên đàn việt giả sơn (Đề núi non bộ của người đàn việt) Hoa cây vấn vít nhau trên bộ Khói lồng trăng, hoa dầm sương lạnh Từ đây sự lo nghĩ sẽ thanh tao hết trần tục Do tìm được chỗ gió mát trong sạch gối đầu nghỉ yên (Nguyễn Đăng Thục dịch) Vâng. "Giúp nhà chù đánh chuông & nhặt hoa rơi", "Tìm được chỗ trong sạch để nghĩ yên". Những việc làm ấy thật đẹp, thật giản dị. Và có lẽ chính từ tâm trạng vui thích do không còn bị trói buộc, được sống thật với chính mình; HQ đã có cái nhìn rất thiền, rất thi sĩ đối với thiên nhiên, tạo vật: Tảo Thu (Thu sớm) Hơi mát thâu đêm lọt tới mành Cây sân xào xạc báo thu thanh Bên lều quên bẵng hương vừa tắt, Lưới bủa vầng trăng mấy khóm cành (Nguyễn Đổng Chi dịch) Hay là: Chu Trung (Đi thuyền) Mênh nông theo gió con thuyền nhỏ Thu sáng ngời xanh bóng nước, cây Tiếng sáo thôn chài, lau lách vọng Trăng lặn lòng sông, móc trăng đầy Và: Ngọ thuỵ (Ngủ trưa) Mưa tạnh, khe núi tĩnh Ngủ mát dưới rừng phong Nhìn lại cõi nhân thế Mắt mở vẫn say nồng (Nguyễn Bang dịch) Bên trong con người yêu mến thiên nhiên, khao khát thanh tịnh ấy, vẫn không sao che giấu được một trái tim giàu cảm xúc, nặng tình người: Ai phù lỗ (Thương tên giặc bị bắt) Lấy máu đề thư, muốn gửi nhau Cô đơn chiếc nhạn vút mây sầu Bao nhà ngóng nguyệt đêm nay nhỉ, Hai chốn cách vời một nỗi đau (Lịch sử PGVN, Viện triết học) Có lẽ vì vậy trái tim ông rất dễ tổn thương khi bị người đơm đặt, gièm pha (chuyện nàng Bích là một ví dụ): Cúc hoa (bài 2) Ruột héo mong gì nước rửa tươi Vịnh mai trăm mục cũng nhường thôi Buồn thu, già yếu còn ngâm hão Vì cúc, tình thơ luống rối bời... Do muộn phiền quá đỗi bởi những gì đa đoan cứ bám đuổi,dù ông đã vào chốn thiền môn, cộng thêm ước muốn được tĩnh lặng thường thấy ở tuổi già. Từ Hoa Yên ông lui về Thanh Mai rồi Tư Phúc ở Côn Sơn hẻo lánh, để thổn thức với trời cao và vui buồn cùng mai, cúc: Mai hoa (Hoa mai) Muốn hỏi trời xanh: Hoa tự đâu Một mình gội tuyết chốn non sâu Bẻ về, không để chưng vừa mắt, Chỉ mượn xuân này đỡ lão đau... (Cảm nhận đạo Phật. Phạm Kế) Cúc Hoa (bài 5) Người ở trên lầu, hoa dưới sân Vô ưu ngồi ngắm khói trầm xông Hồn nhiên người với hoa vô biệt, Một đoá hoa vừa mới nở tung (nguyễn Lang dịch) Năm 1330, Pháp Loa mất.Ở tuổi 77, ông phải đến nhận danh vị Tổ kế nghiệp. Tự biết sức mình khó đảm đương trọng trách lớn; ông giao việc điều hành giáo hội cho Quốc sư An Tâm, rồi một mình quày quả rời nơi đô hội về lại Côn Sơn, làm nhà ẩn cư cho đến hết đời...HQ thổ lộ: Thạch thất (Nhà đá) Nửa gian nhà đá, bạn cùng mây Tấm áo lông thô, lạnh tháng ngày Sư khểnh giường thiền, kinh trước án Lò tàn, than lụi, sáng nào hay (Huệ Chi dịch) Và: Nhân sự đề Cứu Lan tự (Nhân có việc, đề ở chùa Cứu Lan) Đức bạc thẹn mình nối tổ đăng Học theo Hàn, Thập dứt đa đoan Hãy đi với bạn về non vắng, Rừng núi bao la mấy vạn từng -Hàn Sơn & Thập Đắc là 2 cao tăng ẩn sĩ đời Đường (Lược sử PGVN-T.T Thích Minh Tuệ) Nói là "học dứt đa đoan" hay cũng như bài thơ dưới đây, HQ nói "quên tất cả": Cúc hoa (bài 3) Quên thân, quên thế, thảy đều quên Thiền toạ ngồi lâu lạnh thắm giường Trong núi năm tàn không có lịch Thấy hoa cúc nở biết Trùng dương Ta vẫn thấy ở ông một thân phận bị xô đẩy, bị sắp đặt nhầm chổ: Cúc hoa (bài 4) Thu về, móc nhẹ, cúc đơm bông Gió mát trăng thanh dịu nỗi lòng Vẻ đẹp tinh khôi người chẳng hiểu Bẻ về cài tóc, đáng cười không ? (Băng Thanh dịch) Vâng.Việc đời hay chuyện lòng, đâu phải lúc nào chúng cũng thuận theo ý muốn; dẫu ông là Trạng nguyên hay vị Tổ, cũng vậy thôi. Vì lẽ đó, đọc thơ HQ ta nên chia sẻ cái khao khát, hụt hẫng rồi ngậm ngùi...của một đời thường luôn mong muốn sống tốt đẹp cho đạo và cho mình; hơn là vịn vào vai trò, cách hành xử không thể không làm, rồi nhạo báng hay trách cứ ông... Trước khi tạm kết bài, xin mời đọc thêm: Địa lô tức sự (Trước bếp lò tức cảnh) Củi hết lò còn vương khói nhẹ Sơn đồng hỏi nghĩa một chương kinh Tay cầm dùi mõ, tay nâng sáo Thiên hạ cười ta cứ mặc tình... (Nguyễn Lang dịch) Và: Thôi đã theo thiền lòng lặng tắt Nỉ non tiếng dế vẫn vì ai ?... (Sơn vũ. Huệ Chi dịch) Theo tôi, Chỉ ngần ấy câu cũng đủ nói lên quan niệm sống của ông. Đó tâm trạng của một người luôn mong muốn được sống hồn nhiên, hoà mình cùng tạo vật.Của một con người muốn thay đổi số phận nhưng lại gặp một số phận khác cũng không kém não nề..Có thể vì vậy phần lớn thơ ông, ta dễ dàng bắt gặp nỗi khát khao, sầu tư thầm kín. Càng lạ hơn là ta chỉ thấy cái "tinh tế, phóng khoáng"của một Lão Trang mà không hề thấy cái triết lý khá rối rắm,mơ hồ của nhà Phật mà ông đang là người đứng đầu. Càng không thấy cái thôi thúc muốn bỏ hết tham luyến, muốn "chặt hết sắn bìm" để dứt niệm, kiến tánh, thành Phật vv...như các thiền sư khác cùng tác phẩm của họ vào thời Lý Trần... Và không hiểu sao từ câu "củi hết lò còn vương khói nhẹ...", khiến tôi chạnh nhớ lại câu thơ đã dẫn ở phần I: "Phòng tiêu thưở trước từng khoe đẹp.Chùa núi sau này tựa cảnh không" mà thương ông, thương cả nàng Bích, bởi vì đâu ?...rồi bất giác bồi hồi... (1). Tác phẩm của HQ gồm: Chư phẩm kinh, Công văn tập, Phổ tuệ ngữ lục và tập thơ Ngọc liên tập.Nhưng tất cả đều không còn. Hiện nay chỉ còn 23 bài thơ chữ Hán & 1 bài phú nôm vịnh chùa Hoa yên (Yên Tử), được ghi trong Việt Âm thi tập, Trích Diễm thi tập.Tuy Ông là nhà sư, nhưng cũng là người được Lê Qúi Đôn & Phan Huy Chú khen là "Ý tinh tế cao siêu", "Lời bay bướm phóng khoáng." (2). "Tuỳ xứ tát- bà- ha": 2 từ đầu xin tạm hiểu là tuỳ duyên đi đến nơi nào đó; tát –bà-ha: phiên âm từ tiếng Phạn, nó thường đặt ở câu cuối niệm và có nghĩa khéo nói như thế Vài lời với người đọc: Do khuôn khổ bài viết, nên tôi không thể trích dẫn cả phần thơ chữ Hán (Xin xem nơi trang Web http://annoymous.online.fr/Thivien/). Và vì người viết sinh sống ở tỉnh nên thiếu thầy, thiếu sách tra cứu. Vì vậy, nội dung bài soạn có gì chưa đúng hoặc sai trái, mong người đọc lượng thứ, góp ý..để tôi được học hỏi thêm.Trân trọng.BTĐN ☆ ☆ ☆ ☆ ☆ Chưa có đánh giá nào Chia sẻ trên Facebook

Huyền Quang thiền sư 玄光禪師 (hay Huyền Quang tôn giả, 1254-1334) tên thật là Lý Ðạo Tái 李道載 (có sách chép Trần Ðạo Tái, Lý Tái Ðạo). Ông người hương Vạn Tải, châu Nam Sách, lộ Lạng Giang, sinh năm Giáp Dần (1254), mất ngày 23 tháng Giêng năm Giáp Tuất (1334).

Theo Tổ gia thực lục trong Tam tổ thực lục thì từ nhỏ ông đã có khiếu văn chương, năm hai mươi tuổi đỗ khoa thi hương và năm sau lại đỗ đầu khoa thi hội. Được bổ dụng vào Viện nội hàn, từng tiếp sứ Bắc, rất nổi tiếng về thơ văn. Nhưng không bao lâu ông một mực xin từ chức đi tu. Được người đứng đầu dòng Thiền Trúc lâm lúc bấy giờ là Trần Nhân Tông rất quý mến, giao cho Pháp Loa hướng dẫn. Về sau ông trở thành vị tổ thứ ba của dòng thiền này.

Huyền Quang là một nhà sư đồng thời là một thi sĩ có tiếng đời Trần. Thơ ông rất đậm chất trữ tình. Các nhà phê bình đời trước như Lê Quý Đôn, Phan Huy Chú đều khen thơ ông "ý tinh tế, cao siêu", "lời bay bướm, phóng khoáng". Có lẽ con người thi nhân trong ông rõ nét hơn con người tôn giáo. Xung quanh thân thế ông có nhiều giai thoại khá hấp dẫn, đã trở thành những câu chuyện dân gian được lưu truyền rộng rãi, và cũng đã từng được nhà văn đương thời ghi lại dưới hình thức một truyện truyền kỳ, lý thú, đi vào kho sách vở nhà Phật từ nhiều thế kỷ nay.

Tác phẩm hiện còn 24 bài thơ, trong số đó có bài Xuân nhật tức sự gần đây được xác minh là thơ thiền đời Tống, một bài phú Nôm, sách vở cũ cho biết ông còn có các tác phẩm Chư phẩm kính, Công văn tập, thư từ tiếp sứ và tập thơ Ngọc tiên tập nhưng nay đều đã thất lạc.

Một số sách còn chép ông chính là tác giả câu thơ nôm cảm khái về nhân tình thái thế khá chua chát sau đây:
Khó khăn thì chẳng ai nhìn,
Đến khi đỗ trạng, tám nghìn nhân duyên.
Huyền Quang thiền sư 玄光禪師 (hay Huyền Quang tôn giả, 1254-1334) tên thật là Lý Ðạo Tái 李道載 (có sách chép Trần Ðạo Tái, Lý Tái Ðạo). Ông người hương Vạn Tải, châu Nam Sách, lộ Lạng Giang, sinh năm Giáp Dần (1254), mất ngày 23 tháng Giêng năm Giáp Tuất (1334).

Theo Tổ gia thực lục trong Tam tổ thực lục thì từ nhỏ ông đã có khiếu văn chương, năm hai mươi tuổi đỗ khoa thi hương và năm sau lại đỗ đầu khoa thi hội. Được bổ dụng vào Viện nội hàn, từng tiếp sứ Bắc, rất nổi tiếng về thơ văn. Nhưng không bao lâu ông một mực xin từ chức đi tu. Được người đứng đầu dòng Thiền Trúc lâm lúc bấy giờ là Trần Nhân Tông rất quý mến, giao cho Pháp Loa hướng dẫn. Về sau ông trở thành vị tổ thứ ba của dòng thiền này.

Huyền Quang là một nhà sư đồng thời là một thi sĩ có tiếng đời Trần. Thơ ông…

 

Ảnh đại diện

Góp một số suy nghĩ về thiền sư, thi sĩ Huyền Quang - Phần I

Tác giả: Bùi Thụy Đào Nguyên


Mấy năm liền...vì việc riêng, tôi tạm trú ở chùa. May sao nơi đấy có kha khá kinh sách, nhờ vậy tâm trí tôi tạm khuây khoả. Và trong số tàng thư ấy, quyển Vũ Trung Tuỳ Bút (Phạm Đình Hổ) có chứa mẩu chuyện Lý Đạo Tái đã gợi tôi nhiều cảm hứng để tìm hiểu vị thiền sư đời Trần này.

Sách Vũ Trung Tuỳ Bút chép: Huyền Quang (H.Q) tên Lý Đạo Tái, là bậc khoa bảng mà bỏ đi tu...Gần đây, ông Nguyễn Hoàn, người cổ đô có soạn bài Huyền Quang hành bằng quốc ngữ, trong đó có nói chuyên nàng Bích. Nhưng chuyện ấy không thấy chép trong sử, ta thường lấy làm ngờ. Còn nhớ, khi mới lên bảy tám tuổi, thường theo bà tiên cung nhân ta sang hầu bà cô họ ngoại...Khi các bà ngồi rỗi nói chuyện, có nói đến nàng Bích, ta mới biết qủa có người ấy thật...Sau ông Nhữ Công Chân có câu thơ rằng:

Giai nhân lạc địa uỷ kim điền (Giai nhân đày đoạ rụng bông vàng)

Lại có câu:
Tằng hướng tiêu phòng khoa yểu điệu
Khước lai sơn tự bạng không thiền
(Phòng tiêu thuở trước từng khoe đẹp
Chùa núi sau này tựa cảnh không)

Thật lòng,đọc mấy câu thơ trên khiến tôi nhiều băn khoăn...Nhưng tôi sẽ trở lại vấn đề này, sau khi nêu vắn tắt tiểu sử người họ Lý:


1.Thiền sư Huyền Quang (Giáp dần 1254-Giáp tuất 1334) tên Lý Đạo Tái, người hương Vạn Tải, châu Nam Sách, lộ Lạng Giang (nay thuộc huyện Gia Lương, tỉnh Hà Bắc). Theo sách Tổ gia thực lục, cha của ông tên Tuệ Tổ, có công đánh Chiêm Thành nhưng không chịu làm quan, sớm tối chỉ vui thú với sách vở và việc đồng áng. Mẹ ông là Lê thị (?), người hiền lành. Tương truyền, dung mạo ông xấu xí lại thêm cảnh nghèo khó, nên ông thường bị người đời hất hủi,cả việc đi hỏi vợ nhiều nơi vẫn không thành. Nhờ tư chất thông minh, hiếu học; năm 20 tuổi, ông đỗ thi hương rồi năm sau đỗ đầu thi hội (theo Đăng khoa lục, H.Q đỗ tiến sĩ năm Bảo Phù thứ hai, 1274). Đến lúc ấy, nhiều gia đình mới lân la để gả con, nhưng ông đều từ chối. Ông chua chát viết:

Khó khăn thì chẳng ai nhìn
Đến khi đỗ trạng, trăm nghìn nhân duyên


Kể từ đó, trên dưới 30 năm, ông làm quan tận tuỵ nơi viện nội Hàn. Từng phụng mệnh tiếp sứ giả phương Bắc, bởi ông thông thạo thư tịch, giỏi đối đáp, ứng xử...Một lần, ông theo vua Trần Anh Tông đến chùa Vĩnh Nghiêm huyện Phụng Nhãn  dự buổi thuyết pháp. Nghe xong, ông chạnh lòng than:


...Phú qúi vinh hoa thích thú
Đáng lo như lá vàng mùa thu, mây trắng ngày hè
Sao ta có thể lưu luyến lâu dài được ?...

Nhờ nhà Trần rất sùng tín đạo Phật, nên sau vài lần dâng biểu xin từ quan để đi tu, ông được vua chấp thuận. Buổi đầu xuất gia khi đã 51 tuổi (1305), ông đến học đạo với thiền sư Bảo Phác nơi chùa Lễ Vĩnh. Sau ông theo Sơ Tổ Thiền phái Trúc Lâm là Điều Ngự giác hoàng  Trần Nhân Tông khoảng 2 năm để giúp việc biên soạn kinh sách, được ngài hài lòng khen: "Phàm sách đã qua tay HQ biên soạn, khảo đính thì không thể thêm bớt được một chữ nào nữa".

Khi Trúc Lâm viên tịch, ông theo Pháp Loa (PL) làm đồ đệ người thầy,cũng là Tổ thứ hai thiền phái, trẻ hơn mình đến 30 tuổi (PL sinh năm 1284, mất năm1330). Sau đó ông được cho về trụ trì chùa Vân Yên trên đỉnh núi Yên Tử, nơi phát tích dòng thiền Trúc Lâm.Hằng ngày ông giảng đạo, biên tập kinh...và gần như không còn liên hệ với chốn quan trường. Nhưng chỉ được một thời gian, ông xin về chùa Thanh Mai rồi chùa Tư phúc ở Côn Sơn. Năm 1330, Pháp Loa viên tịch, ông được trao truyền làm Tổ thứ ba dòng thiền này, sau Trúc Lâm, Pháp Loa. Ông từ giã cõi trần tại Côn Sơn vào ngày 23 th. Giêng năm Giáp tuất (1334) thọ 81 tuổi, được vua Trần Minh Tông ban thuỵ hiệu: Trúc Lâm đệ tam đại,Tự pháp Huyền Quang tôn giả.

2. Câu chuyện Huyền Quang với Điểm Bích:

Theo sách Tổ gia thực lục (TGTL), sự việc này xảy ra thời vua Trần Anh Tông. Một hôm vua hỏi các quan hầu cùng đạo tăng: "HQ lão sư sống như tấm gương trong không mờ bụi, thế là dồn lấp tình dục hay không có dục tình ?".Nho thần Mạc Đỉnh Chi tâu: "Vẽ hổ chỉ vẽ ngoài da, khó vẽ trong xương, xin hãy cho thử mới biết...". Vua nghe theo,liền ngầm cho cho vời cung nhân Điểm Bích (ĐB), đẹp người lại thông kinh sử đến dặn dò: "Vị tăng kia vốn giới hạnh cao nghiêm, ngươi hãy đến Yên Tử tìm hiểu cho trẫm. Nếu quả vị tăng ấy còn quyến luyến dục tình thì ngươi hãy tìm cách xin Kim tử bằng vàng, đem về cho ta...".

Sau một thời gian xin theo học đạo, ĐB thấy ông giữ giới hạnh khó dùng sắc đẹp quyến dụ, nàng nảy sinh ra một kế:giả vờ than khóc nói là con nhà khoa bảng, cha làm quan thu thuế bị cướp sạch bạc tiền. Nếu không hoàn trả, cả nhà sẽ bị tội nặng. Giàu lòng từ bi, ông lấy Kim tử do vua ban tặng, trao cho nàng...Lập tức, ĐB trốn về cung tâu dối với vua, nào là nhà sư ngâm thơ, nào là sư giữ nàng qua đêm như thế nào (1)...Nghe hết lời kể, vua than: "Việc này nếu quả có thực thì chính ta là kẻ thả lưới bắt chim, còn nếu không thì cũng không khỏi gieo sự nghi hoặc...". Sau đó không lâu, vua cho mở đại hội Vô già, thỉnh HQ đến chủ lễ. Đoán biết vua và triều thần đang nghi ngờ sự trong sạch của mình, ông liền lên đàn ngửa mặt rồi niệm chú. Bỗng dưng gió thổi mạnh, mây kéo đến đầy trời...một hồi các tạp vật trên pháp điện đều bị gió cuốn sạch.... Thấy pháp hạnh HQ thấu cả thiên địa, ai nấy đều thất sắc. Nhà vua lạy tạ lỗi với sư và còn bắt phạt ĐB phải làm kẻ hầu hạ nơi chùa Cảnh Linh  trong cung. Từ đó, ông càng được vua kính trọng, gọi tôn là Tự Pháp (Nối Đạo).

Theo ý riêng, câu chuyện khá phổ biến này có vài điểm cần lưu ý. Trước hết tôi xin nói qua về sách TGTL, đây là tác phẩm khuyết danh, bị lưu lạc qua nhiều thời gian, nhiều địa điểm: sáng tác vào thời nhà  Trần, đến thời nhà Hồ bị giặc Minh cướp mang về TQ; nửa đầu thế kỷ XV, Lê Quang Bí (Hoàng giáp năm 1526, nhà Hậu Lê) đi sứ mới tìm lại được, bèn gửi về cho Nguyễn Bỉnh Khiêm xem.Sau có người đem ghép chung với truyện Trần Nhân Tông và Pháp Loa, làm ra sách Tam Tổ thực lục.

Nhận xét, so với 2 phần mà TGTL ghép chung, giá trị lịch sử của nó kém hơn. Do người viết chỉ trú trọng đến mặt thần bí mà không để ý tới khía cạnh tư tưởng, yếu lý của HQ. Điều này phản ảnh tình trạng suy thoái của Phật Giáo vào cuối thế kỷ XIV, phật tử chỉ biết thờ cúng cầu nguyện, tin bùa chú..., do chịu ảnh hưởng Mật tông  khá nặng.

Và chuyện ĐB, lần đầu tiên được chép trong sách ấy;có lẽ đó chỉ là điều đơm đặt của giới nho sĩ nhằm hạ uy tín HQ, gián tiếp đã kích Phật giáo. Có thể có nhiều lý do, nhưng một phần cũng bởi ông bỏ Nho theo Phật. Và tôi cũng không loại trừ do lòng đố kỵ của những người khác phe phái ngay trong thiền môn, bởi ông được các vua Trần tỏ ra ưu ái, tin cậy; phong làm trụ trì, làm Tổ...

Vì thế, người soạn thực lục không biết dựa vào tư liệu nào hay chỉ nghe kể, nhưng chắc chắn phải từ những tấm lòng mộ đạo, kính trọng HQ, họ mới tô đậm việc "giải oan"mang màu sắc hết sức thần quyền.Mặt khác, nếu cho việc này là có, sao không thấy sử sách chép và chính Phạm Đình Hổ cũng đã thú nhận "thường lấy làm ngờ".Thêm nữa, theo nhiều nguồn, các chùa chiền thời Trần thường  nhiều của cải.Và "kim tử" là tín vật của vua ban cho, không thể nào HQ khinh suất, tự ý giao cho người khác...(2)

3.Huyền Quang với sự suy thoái của Phật giáo Trúc Lâm (PGTL):

PGTL là trang sử sáng chói trong lịch sử Phật giáo Việt Nam. Do các người sáng lập đã cố gắng Việt hoá các yếu lý của thiền tông từ nhiều nơi khác đến. Không những PGTL không còn những tư tưởng rối rắm, bi quan, thần bí...mà phái này còn làm được vai trò đoàn kết dân tộc trong 2 cuộc kháng chiến chống xâm lược Nguyên –Mông. Và TL cũng đã có tác động không nhỏ cho sự phát triển nhiều mặt, trong đó  có nền văn hoá Phật giáo:thơ ca, kiến trúc, đúc tượng, in ấn, hội hoạ  vv...

Nhưng đáng tiếc, mọi chuyện không suôn sẻ mãi. Vào giữa thế kỷ XIV, bấy giờ tầng lớp ủng hộ PGTL là quí tộc nhà Trần đã mất dần uy lục chính trị và kinh tế. Họ lại thường lợi dụng danh nghĩa tôn giáo để quyên góp, vơ vét, bắt dân làm nô dịch..Một phần họ làm của riêng; một phần dùng để xây chùa, đúc tượng và lập vô số điền trang rộng lớn cho chùa. Đâu chỉ có vậy, số tăng lữ mỗi ngày một đông mà người thực tu thì quá ít, dẫn đến việc biếng nhác, bè phái, sử dụng bùa chú...hòng mua danh,trục lợi...

Tất cả đã làm ảnh hưởng đến vai trò, uy tín của đạo; đến sự phát triển chung của đất nước vừa mới yên bình. Bên cạnh đó, các quan lại xuất thân từ Nho học, đại diện cho tầng lớp cấp thấp, bắt đầu nắm giữ các vị trí quan trọng trong bộ máy nhà nước. Từ thực trạng vừa nêu sơ lược, nhiều nhà nho như Mạc Đỉnh Chi, Trương Hán Siêu,Lê Quát...bắt đầu lớn tiếng công kích Phật giáo...

Gánh nặng đó, Pháp Loa đã trao lại cho HQ, một ông già 77 tuổi, tuy có học thức, tài hoa, thông kinh kệ... nhưng không phải là người thích hợp cho công việc lãnh đạo giáo hội.Vả lại, thời gian ông cầm đầu chỉ 4 năm ngắn ngủi (1330-1334), nên sự suy thoái của PGTL không hẳn hoàn toàn do lỗi của ông...(3).


(Kỳ sau: Phần IV. Tư tưởng & tâm trạng của HQ, xét qua hành trạng và thơ của ông...)

Bùi Thuỵ Đào nguyên

Chú thích:
(1)Bái thơ nôm như sau:

Vằng vặc trăng mai ánh nước
Hiu hiu gió trúc ngâm sênh
Người hoà tươi tốt cảnh hoà lạ,
Màu Thích ca nào thử hữu tình

So với các bài thơ của HQ, tôi sẽ trích dẫn ở kỳ sau;bài này ý tứ, ngôn từ kém hẳn. Có thể do người đơm đặt nguỵ tạo.

(2)Trong sách Sơn Cư tạp thuật do Đan Sơn viết vào những năm Nguyễn Huệ ra Bắc Hà diệt Trịnh (1786-1789), có nhắc lại chuyện nàng Bích này. Nhưng khác với Tổ Gia thực lục, người viết kết tội HQ say đắm sắc dục, làm hỏng đạo: "Sắc dục nơi đâu ngùn ngụt cháy, rừng thiền một khắc hoá ra tro!", đủ biết sau hơn 450 năm, chuyện ấy vẫn còn được người đời bàn tán...

(3) Trong thời kì  Pháp Loa (PL) đứng đầu giáo hội, nơi đâu cũng có  nhiều chùa tháp được trùng tu, xây dựng mới. Và cứ 3 năm lại có một đợt độ tăng nhân, mỗi lần không dưới một nghìn người. Chỉ tính riêng PL, tính đến năm 1332, ông đã độ được 10500 tăng ni!

Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Góp một số suy nghĩ về thiền sư, thi sĩ Huyền Quang - Phần II

Tác giả: Bùi Thụy Đào Nguyên


Tư tưởng & tâm trạng của Huyền Quang (HQ):

Thật lòng khi viết phần này, tôi băn khoăn rất lâu. Bởi trước tác của ông còn lưu lại quá ít (1), bởi không ít ý kiến cho rằng HQ là người:Tâm không còn phân biệt Ma- Phật, Mê-Ngộ, Thị phi vv...Nghĩa là lòng đã an tịnh, đã có cái nhìn "vong nhị kiến"...

Nhận xét như thế không phải không có lý, bởi HQ đã từng bộc lộ qua bài:

Chùa Diên Hựu

....Thành ngăn tục luỵ trần không vướng
Cửa mở vô ưu mắt rộng tầm
Thấy được thị phi cùng một tướng
Ma cung, Phật quốc cũng ngồi chung
(Nguyễn Lang dịch)

Và từ câu chuyện HQ thăm bệnh Pháp Loa (PL):

"Ngày 3/3/1330, PL lại phát bệnh nặng. Nửa  đêm trở lại thăm thầy, HQ nói: - Xưa nay các bậc đạt ngộ khi giờ phút đến, muốn ở lại thì ở, muốn đi cứ ra đi...(cờ gì cứ trăn trở khi viên tịch ?)
PL nói: -Đi hay ở cũng đều không can hệ gì tớ ai.
HQ:- Vậy thì sao ?
PL: - Thì...tuỳ xứ tát-bà –ha!(2)
Câu trả lời làm HQ hả dạ..." vv...

Nhưng theo tôi, những tư tưởng nêu trên chỉ cho thấy được một khía cạnh HQ: có học thức và am tường kinh sách. Vì những lời lẽ ấy chỉ là những yếu lý cơ bản của triết học thiền tông mà tu sĩ thường thuộc nằm lòng; chỉ là xu hướng chung của dòng thơ thiền thời Lý Trần; mà cụ thể là ở những người đi trước như Tuệ Trung, Trần Thái Tông, Trần Nhân Tông...Thí dụ:

Thân từ vô tướng vốn là không
Huyễn hoá phân ra thành nhị kiến
Không tâm, không thị cũng không phi
Không kiến, chẳng tà cũng chẳng chánh...
(Tuệ Trung)

Sinh già bệnh chết
Là lẽ đương nhiên
Muốn khỏi bốn bệnh
Bỏ hết tham luyến...
(trích Khoá hư lục –Trần Thái Tông)

Có có không không
Nhìn trái nhìn phải
Tra tra xét xét,
Phố chợ ồn ào...
Có có không không
Đau buồn thương xót
Cắt đứt sắn  bìm,
Đó đây khoái hoạt...
(Hữu cú hữu vô – Trần Nhân Tông) vv...

Trở lại vấn đề HQ, như tôi đã nói, thơ của ông còn lưu lại quá ít cộng thêm ý tứ tinh tế, thầm kín (thơ thiền thường khó lý giải rốt ráo.)Và trừ một vài bài ta định được mốc thời gian ông viết, số nhiều còn lại thì không. Thôi thì, tôi tạm dựa vào cái biết được  để so sánh, với lòng mong mỏi được góp chút gì về ông chăng ?...

Nhìn lại, suốt những năm tháng của tuổi trẻ, HQ phải sống cảnh nghèo khó, thường bị miệt khinh. Đến khi đỗ đạt(Trạng nguyên thứ 6 /47 vị của nước ta) rồi ra làm quan,chắc gì nơi quan trường nhiều bon chen danh lợi đó, không làm cho trái tim ông ít nhiều vết xướt. Mặt khác, biết đâu nhờ "con đường mới"(Phật giáo), HQ có thể lý giải những gì trăn trở, day dứt...nơi lòng mà ông đã không thể tìm được ở Nho giáo. Có lẽ vì thế khi tuổi đã 51, ông từ quan để tìm đến cửa thiền với tâm trạng khá hăm hở. Xin trích một đoạn bài phú nôm ông làm khi mới lên chùa Hoa Yên:

Buông niềm trần tục
Náu tới Hoa Yên
Chim thuỵ dõi tiếng ca chim thuỵ
Gió tiên đưa đòi bước thần tiên
Bầu đủng đỉnh giang hoà thế giới
Giày thong thả dạo khắp sơn xuyên...
Niết được tính ta nên Bụt thật
Ngại chi non nước cảnh đường xa
(Phú vịnh chùa Hoa yên – Nguyễn Lang  dịch)


Đề Đạm Thuỷ tự
(Đề chùa Đạm Thuỷ)

Bên đình Đạm Thuỷ nhiều cỏ nội
Núi quang, mây tạnh,bóng xế tà
Nhân qua con đường vua đi mà vào thiền thất
Giúp nhà chùa đánh chuông và nhặt hoa rơi

Đề  động hiên đàn việt giả sơn
(Đề núi non bộ của người đàn việt)

Hoa cây vấn vít nhau trên bộ
Khói lồng trăng, hoa dầm sương lạnh
Từ đây sự lo nghĩ sẽ thanh tao hết trần tục
Do tìm được chỗ gió mát trong sạch gối đầu nghỉ yên
(Nguyễn Đăng Thục dịch)

Vâng. "Giúp nhà chù đánh chuông & nhặt hoa rơi", "Tìm được chỗ trong sạch để nghĩ yên". Những việc làm ấy thật đẹp, thật giản dị. Và có lẽ chính từ tâm trạng vui thích do không còn bị trói buộc, được sống thật với chính mình; HQ đã có cái nhìn rất thiền, rất thi sĩ đối với thiên nhiên, tạo vật:

Tảo Thu (Thu sớm)

Hơi mát thâu đêm lọt tới mành
Cây sân xào xạc báo thu thanh
Bên lều quên bẵng hương vừa tắt,
Lưới bủa vầng trăng mấy khóm cành
(Nguyễn Đổng Chi dịch)

Hay là:

Chu Trung (Đi thuyền)

Mênh nông theo gió con thuyền nhỏ
Thu sáng ngời xanh bóng nước, cây
Tiếng sáo thôn chài, lau lách vọng
Trăng lặn lòng sông, móc trăng đầy
Và:
Ngọ thuỵ (Ngủ trưa)

Mưa tạnh, khe núi tĩnh
Ngủ mát dưới rừng phong
Nhìn lại cõi nhân thế
Mắt mở vẫn say nồng
(Nguyễn Bang dịch)

Bên trong con người yêu mến thiên nhiên, khao khát thanh tịnh ấy, vẫn không sao che giấu được một trái tim giàu cảm xúc, nặng tình người:
Ai phù lỗ
(Thương tên giặc bị bắt)
Lấy máu đề thư, muốn gửi nhau
Cô đơn chiếc nhạn vút mây sầu
Bao nhà ngóng nguyệt đêm nay nhỉ,
Hai chốn cách vời một nỗi đau

(Lịch sử PGVN, Viện triết học)

Có lẽ vì vậy trái tim ông rất dễ tổn thương khi bị người đơm đặt, gièm pha (chuyện nàng Bích là một ví dụ):
Cúc hoa (bài 2)

Ruột héo mong gì nước rửa tươi
Vịnh mai trăm mục cũng nhường thôi
Buồn thu, già yếu còn ngâm hão
Vì cúc, tình thơ luống rối bời...

Do muộn phiền quá đỗi bởi những gì đa đoan cứ bám đuổi,dù ông đã vào chốn thiền môn, cộng thêm ước muốn được tĩnh lặng thường thấy ở tuổi già. Từ Hoa Yên ông lui về Thanh Mai rồi Tư Phúc ở Côn Sơn hẻo lánh, để thổn thức với trời cao và vui buồn cùng  mai, cúc:

Mai hoa (Hoa mai)

Muốn hỏi trời xanh: Hoa tự đâu
Một mình gội tuyết chốn non sâu
Bẻ về, không để chưng vừa mắt,
Chỉ mượn xuân này đỡ lão đau...

(Cảm nhận đạo Phật. Phạm Kế)
Cúc Hoa (bài 5)
Người ở trên lầu, hoa dưới sân
Vô ưu ngồi ngắm khói trầm xông
Hồn nhiên người với hoa vô biệt,
Một đoá hoa vừa mới nở tung
(nguyễn Lang  dịch)

Năm 1330, Pháp Loa mất.Ở tuổi 77, ông phải đến nhận danh vị Tổ kế nghiệp. Tự biết sức mình khó đảm đương trọng trách lớn; ông giao việc  điều hành giáo hội cho Quốc sư An Tâm, rồi một mình quày quả rời nơi đô hội về lại Côn Sơn, làm nhà ẩn cư cho đến hết đời...HQ thổ lộ:

Thạch thất (Nhà đá)

Nửa gian nhà đá, bạn cùng mây
Tấm áo lông thô, lạnh tháng ngày
Sư khểnh giường thiền, kinh trước án
Lò tàn, than lụi, sáng nào hay
(Huệ Chi dịch)
Và:

Nhân sự đề Cứu Lan tự
(Nhân có việc, đề ở chùa Cứu Lan)

Đức bạc thẹn mình nối tổ đăng
Học theo Hàn, Thập dứt đa đoan
Hãy đi với bạn về non vắng,
Rừng núi bao la mấy vạn từng

-Hàn Sơn & Thập Đắc là 2 cao tăng ẩn sĩ đời Đường
(Lược sử PGVN-T.T Thích Minh Tuệ)

Nói là "học dứt đa đoan" hay cũng như bài thơ dưới đây, HQ nói "quên tất cả":

Cúc hoa (bài 3)

Quên thân, quên thế, thảy đều quên
Thiền toạ ngồi lâu lạnh thắm giường
Trong núi năm tàn không có lịch
Thấy hoa cúc nở biết Trùng dương

Ta vẫn thấy ở ông một thân phận bị xô đẩy, bị sắp đặt nhầm chổ:


Cúc hoa (bài 4)

Thu về, móc nhẹ, cúc đơm bông
Gió mát trăng thanh dịu nỗi lòng
Vẻ đẹp tinh khôi người chẳng hiểu
Bẻ về cài tóc, đáng cười không ?
(Băng Thanh dịch)

Vâng.Việc đời hay chuyện lòng, đâu phải lúc nào chúng  cũng thuận theo ý muốn; dẫu ông là  Trạng nguyên hay  vị Tổ, cũng vậy thôi. Vì lẽ đó, đọc thơ HQ ta nên chia sẻ cái khao khát, hụt hẫng  rồi ngậm ngùi...của một đời thường luôn mong muốn sống tốt đẹp cho đạo và cho mình; hơn là vịn vào vai trò, cách hành xử không thể không làm, rồi nhạo báng hay trách cứ ông...

Trước khi tạm kết bài, xin mời đọc thêm:

Địa lô tức sự
(Trước bếp lò tức cảnh)

Củi hết lò còn vương khói nhẹ
Sơn đồng hỏi nghĩa một chương kinh
Tay cầm dùi mõ, tay nâng sáo
Thiên hạ cười ta cứ mặc tình...
(Nguyễn Lang  dịch)

Và:

Thôi đã theo thiền lòng lặng tắt
Nỉ non tiếng dế vẫn vì ai ?...
(Sơn vũ. Huệ Chi dịch)

Theo tôi, Chỉ ngần ấy câu cũng đủ nói lên quan niệm sống của ông. Đó tâm trạng của một người luôn mong muốn được sống hồn nhiên, hoà mình cùng tạo vật.Của một con người muốn thay đổi số phận nhưng lại gặp một số phận khác cũng  không kém não nề..Có thể vì vậy phần lớn thơ ông, ta dễ dàng bắt gặp nỗi khát khao, sầu tư thầm kín. Càng lạ hơn là ta chỉ thấy cái "tinh tế, phóng khoáng"của một Lão Trang mà không hề thấy cái triết lý khá rối rắm,mơ hồ của nhà Phật mà ông đang là người đứng đầu. Càng không thấy cái thôi thúc muốn bỏ hết tham luyến, muốn "chặt hết sắn bìm" để dứt niệm, kiến tánh, thành Phật vv...như các thiền sư khác cùng tác phẩm của họ vào thời Lý Trần...

Và không hiểu sao từ câu "củi hết lò còn vương khói nhẹ...", khiến tôi chạnh nhớ lại câu thơ đã dẫn ở phần I: "Phòng tiêu thưở trước từng khoe đẹp.Chùa núi sau này tựa cảnh không" mà thương ông, thương cả nàng Bích, bởi vì đâu ?...rồi bất giác bồi hồi...

(1). Tác phẩm của HQ gồm: Chư phẩm kinh, Công văn tập, Phổ tuệ ngữ lục và tập thơ Ngọc liên tập.Nhưng tất cả đều không còn. Hiện nay chỉ còn 23 bài thơ chữ Hán & 1 bài phú nôm vịnh chùa Hoa yên (Yên Tử), được ghi trong Việt Âm thi tập, Trích Diễm thi tập.Tuy Ông là nhà sư, nhưng cũng là người được Lê Qúi Đôn & Phan Huy Chú khen là "Ý tinh tế cao siêu", "Lời bay bướm phóng khoáng."
(2). "Tuỳ xứ tát- bà- ha": 2 từ đầu xin tạm hiểu là tuỳ duyên đi đến nơi nào đó; tát –bà-ha: phiên âm từ tiếng Phạn, nó thường đặt ở câu cuối niệm và có nghĩa khéo nói như thế

Vài lời với người đọc: Do khuôn khổ bài viết, nên tôi không thể trích dẫn cả phần thơ chữ Hán (Xin xem nơi trang Web http://annoymous.online.fr/Thivien/). Và vì người viết sinh sống ở tỉnh nên thiếu thầy, thiếu sách tra cứu. Vì vậy, nội dung bài soạn có gì chưa đúng hoặc sai trái, mong người đọc lượng thứ, góp ý..để tôi được học hỏi thêm.Trân trọng.BTĐN
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook

Bài liên quan

Hải Như Vũ Như Hải

Nhà thơ Hải Như tên thật là Vũ Như Hải, sinh năm 1923 tại Nam Ninh, Nam Định. Tác phẩm: - Trái đất mai này còn lại tình yêu, NXB Văn học, 1985 - Nỗi buồn hoa bất tử, NXB Lao động, 1994 - Thơ viết về Người, NXB Nghệ An, 2004 Nỗi buồn hoa bất tử (1994) Trái Đất mai này còn lại tình yêu (1985)

Hoàng Ngũ Phúc 黃五福

Hoàng Ngũ Phúc 黃五福 (1713-1776) là danh tướng thời Lê Trung Hưng, quê ở xã Phụng Công, huyện Yên Dũng (nay là thôn Tân Phượng, xã Tân Mỹ, huyện Yên Dũng, Bắc Giang). Ông có công lớn trong việc đánh dẹp các cuộc khởi nghĩa nông dân Đàng Ngoài và là tổng chỉ huy cuộc nam tiến đánh Đàng Trong, mở mang ...

Hoàng Văn Hoè 黃文槐

Hoàng Văn Hoè 黃文槐 (1848-?) hiệu Cổ Lâm, biệt hiệu Hạc Nhân, người làng Phù Lưu huyện Từ Sơn (Bắc Ninh) đỗ tiến sĩ năm Tự đức thứ 33 (1880) làm tri phủ Kiến Xương (Thái Bình). Thơ hiện còn hơn 300 bài được tập hợp trong trước tác "Hạc nhân tùng ngôn". Thơ Hoàng Văn Hoè lần đầu tiên được trích tuyển ...

Hoàng Hùng Hà

Hoàng Hùng Hà sinh năm 1984, tốt nghiệp lớp XH 6B, đại học Công đoàn Hà Nội. Hiện làm báo tại Hà Nội. Đã đăng thơ, tạp bút, tản văn trên một số báo như Tuổi trẻ, Áo trắng, Thể thao văn hoá...

Hồng Nguyên Nguyễn Văn Vượng

Nhà thơ Hồng Nguyên tên khai sinh là Nguyễn Văn Vượng, sinh năm 1924 tại xã Đông Thọ, huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hoá. Ông tham gia Hội Văn hoá Cứu quốc từ trước Cách mạng Tháng Tám, là Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, uỷ viên Ban Chấp hành Hội Văn hoá Cứu quốc Liên khu IV, từng viết bài cho các báo ...

Nguyễn Cẩn 阮謹

Nguyễn Cẩn 阮謹 người huyện Tế Giang, có làm quan vào cuối đời Trần, chưa rõ sinh và mất năm nào. Vào năm Hưng Khánh thứ nhất (1407) đời Trần Giản Định Đế, Nguyễn Cẩn đã ra hàng quân Minh rồi làm quan với chúng. Tác phẩm hiện còn 1 bài thơ.

Học Lạc

Học Lạc (1842–1915) tên thật là Nguyễn Văn Lạc, hiệu là Sầm Giang, người làng Mỹ Chánh, thuộc tỉnh Mỹ Tho, nay là tỉnh Tiền Giang. Trong khuynh hướng thi văn, nhiều nhà nghiên cứu văn học xếp Học Lạc vào các nhà thơ có khuynh hướng trào phúng và châm biếm.

Lê Xuân Đố

Lê Xuân Đố sinh ngày 8 tháng 11 năm 1944, quê tại Quảng Bình, hiện thường trú tại 64 Bến Chương Dương, quận 1, thành phố Hồ Chí Minh. Tham gia hội Nhà văn năm 2000. Tốt nghiệp Đại học Tổng hợp khoa Văn (Hà Nội, 1965-1969). Biên tập thơ, văn Đài Tiếng nói Việt Nam (1969-1976). Biên tập thơ và sân ...

Lê Thị Kim Lê Thị Ngà

Lê Thị Kim tên thật là Lê Thị Ngà, sinh ngày 31-3-1950, quê thị xã Cửa Tiền, tỉnh Thanh Hoá, lớn lên trong một gia đình gia giáo, coi trọng học hành. Tố chất nghệ sĩ của người cha đã ảnh hưởng rất nhiều đến chị trong những sáng tác thi ca lẫn hội hoạ. Học sinh Trường PTTH Gia Long ở Sài Gòn, tốt ...

Hoàng Trọng Mậu Nguyễn Đức Công

Hoàng Trọng Mậu (1874-1916) tên thật là Nguyễn Đức Công, tự Báu Thụ, nhà chí sĩ Việt Nam, quê xã Nghi Trung, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An. Tham gia phong trào Đông Du. Năm 1902, học trường Đồng Văn Thư Viện (Nhật Bản), sau bị Nhật trục xuất và sang Trung Quốc hoạt động. Năm 1912, tham gia Việt Nam ...

Mới nhất

THPT Đinh Tiên Hoàng

THPT Đinh Tiên Hoàng đang không ngừng nỗ lực phát triển trở thành một ngôi trường với chất lượng giảng dạy tốt nhất, tạo ra những thế hệ học sinh chất lượng

THPT Thực nghiệm

Trường THPT Thực Nghiệm trực thuộc Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam. Trường là cơ sở giáo dục đào tạo công lập trong hệ thống giáo dục quốc dân và trong hệ thống các trường phổ thông của thành phố Hà Nội. Trường dạy học theo chương trình giáo dục Trung học phổ thông của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Tiếp ...

THPT Đông Kinh

Khẩu hiệu hành động: “ Hãy đặt mình vào vị trí cha mẹ học sinh để giảng giải giáo dục và xử lý công việc ” “ Tất cả vì học sinh thân yêu ”

THPT Hà Nội Academy

Những rào cản còn tồn tại kể trên sẽ được vượt qua bởi những công dân toàn cầu tích cực với nhiệm vụ chung tay xây dựng một thế giới tốt đẹp hơn thông qua việc nghiên cứu và tìm kiếm giải pháp cho những vấn đề toàn cầu bao gồm, nhưng không giới hạn ở nhân quyền, đói nghèo và công bằng xã hội. Nhận ...

http://thptkimlien-hanoi.edu.vn/

Qua 40 năm nỗ lực phấn đấu trong các hoạt động giáo dục, vượt khó khăn, thiếu thốn về cơ sở vật chất, trường THPT Kim Liên đã tạo dựn được uy tín vững chắc, là 1 trong 5 trường THPT hàng đầu của Thủ đô có chất lượng giáo dục toàn diện không ngừng nâng cao và trở thành địa chỉ tin cậy của các bậc ...

THPT Tô Hiến Thành

Trường THPT Tô Hiến Thành được thành lập từ năm học 1995-1996, theo quyết định của Ủy Ban nhân dân tỉnh Thanh Hóa. Đến tháng 6/2010, trường chuyển đổi loại hình sang công lập. Suốt 20 năm phát triển, thầy, cô giáo, thế hệ học sinh đã phấn đấu vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, từng bước phát triển ...

THPT Mai Hắc Đế

Trường THPT Mai Hắc Đế được thành lập năm 2009, sau gần 10 năm xây dựng và phát triển, Trường đã trở thành một địa chỉ tin cậy trong đào tạo bậc THPT trên địa bàn Hà Nội.

Trường Trung học phổ thông Nguyễn Gia Thiều

Nhìn lại chặng đường gần 60 năm xây dựng và trưởng thành , các thế hệ giáo viên và học sinh trường Nguyễn Gia Thiều có thể tự hào về truyền thống vẻ vang của trường ; tự hào vì trường đã đóng góp cho đất nước những Anh hùng , liệt sĩ , những người chiến sĩ , nhà khoa học , trí thức , những cán bộ ...

Trường Trung học phổ thông MV.Lô-mô-nô-xốp

Sứ mệnh Xây dựng Hệ thống giáo dục Lômônôxốp có môi trường học tập nền nếp, kỉ cương, chất lượng giáo dục cao; học sinh được giáo dục toàn diện, có cơ hội, điều kiện phát triển phẩm chất, năng lực và tư duy sáng tạo, tự tin hội nhập.

Trường Trung học phổ thông Quốc tế Việt Úc Hà Nội

Trường thực hiện việc giảng dạy và học tập theo chương trình do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành, thực hiện thời gian học tập theo biên chế năm học do Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định. Song song với chương trình này là chương trình học bằng tiếng Anh được giảng dạy bởi đội ngũ giáo viên bản ngữ giàu ...