25/05/2018, 12:23

Họ Nhạn rừng (Artamidae)

Họ này được chia ra làm 2 phân họ là: Artaminae, các loài nhạn rừng là các loài chim có bộ lông mềm, màu xám xịt, với phần chóp lưỡi hình bàn chải nhưng hiếm khi sử dụng nó để hút mật. Thay vì thế, chúng bắt sâu bọ khi đang bay. Chúng là các loài chim bay ...

Họ này được chia ra làm 2 phân họ là: Artaminae, các loài nhạn rừng là các loài chim có bộ lông mềm, màu xám xịt, với phần chóp lưỡi hình bàn chải nhưng hiếm khi sử dụng nó để hút mật. Thay vì thế, chúng bắt sâu bọ khi đang bay. Chúng là các loài chim bay hoạt bát với các cánh nhọn đầu và lớn, thuộc số ít các loài chim trong bộ Sẻ có thể bay liệng. Ngoại trừ một loài không di trú, tất cả các loài còn lại là di trú, chúng đi theo các điều kiện tốt nhất để săn bắt các con côn trùng biết bay, và thường đậu thành đàn lớn. Tổ của nhạn rừng làm từ các cành củi nhỏ kết cấu lỏng lẻo và cả chim bố lẫn chim mẹ đều chăm sóc chim con.

Chim đồ tể xám (Cracticus torquatus)

Theo dòng lịch sử, các loài chim dạng chim đồ tể như currawong, ác là Australia và chim đồ tể - được ghi nhận như là một họ riêng với danh pháp Cracticidae. Với nghiên cứu ADN năm 1985, Sibley và Ahlquist đã công nhận mối quan hệ gần gũi giữa nhạn rừng và chim đồ tể vào năm 1985, và đặt chúng như là tông Cracticini của họ Artamidae theo như định nghĩa hiện nay.

Các loài chim đồ tể có mỏ thẳng và lớn, với bộ lông chủ yếu là màu đen, trắng hay xám. Tất cả đều là ăn tạp ở các mức độ khác nhau: chim đồ tể chủ yếu ăn thịt, ác là Australia thường sục sạo trong các đám cỏ ngắn để tìm kiếm sâu bọ và các sinh vật nhỏ khác, currawong là ăn tạp thực sự, chúng ăn quả, hạt, thịt, côn trùng, trứng và chim non. Chim mái làm các tổ to lớn từ các que củi nhưng cả chim bố lẫn chim mẹ đều ấp trứng và chăm sóc chim con.

Các loài chim dạng chim đồ tể, mặc cho bề ngoài đơn giản, là nhưnmgx loài chim có trí thông minh cao và có giọng hót có độ tinh tế cao kỳ lạ. Đáng chú ý là chim đồ tể khoang, currawong khoang và ác là Australia.

* Phân họ Artaminae

  • Nhạn rừng hay nhạn rừng tro, Artamus fuscus
  • Nhạn rừng Fiji, Artamus mentalis
  • Nhạn rừng lưng trắng, Artamus monachus
  • Nhạn rừng lớn, Artamus maximus
  • Nhạn rừng ngực trắng, Artamus leucorynchus
  • Nhạn rừng Bismarck, Artamus insignis
  • Nhạn rừng mặt lạ, Artamus personatus
  • Nhạn rừng mày trắng, Artamus superciliosus
  • Nhạn rừng mặt đen, Artamus cinereus
  • Nhạn rừng tối màu, Artamus cyanopterus
  • Nhạn rừng nhỏ, Artamus minor

* Phân họ Cracticinae:

  • Peltops núi, Peltops montanus
  • Peltops đồng bằng, Peltops blainvillii
  • Chim đồ tể đen, Cracticus quoyi
  • Chim đồ tể xám, Cracticus torquatus
  • Chim đồ tể đội mũ, Cracticus cassicus
  • Chim đồ tể Tagula, Cracticus louisiadensis
  • Chim đồ tể lưng đen, Cracticus mentalis
  • Chim dồ tể khoang, Cracticus nigrogularis
  • Currawong khoang, Strepera graculina
  • Currawong đen, Strepera fuliginosa
  • Currawong xám, Strepera versicolor
  • Ác là Australia, Gymnorhina tibicen

Một hóa thạch xương vai phải (MNZ S41061) tìm thấy tại sông Manuherikia ở Otago, New Zealand có niên đại từ Tiền tới Trung Miocen (tầng Awamoa tới tầng Lillburnia, 19-16 triệu năm trước) đại diện cho thành viên của phân họ Cracticinae.

0