Họ Cỏ cào cào (Burmanniaceae)
Thông thường chúng rất dễ nhận ra do phần lớn các loài thường có màu đỏ nhiều hơn là màu xanh lục và không có nhiều lá. Họ này phân bổ khắp vùng nhiệt đới, chủ yếu ở châu Mỹ. Cỏ cào cào (Burmannia disticha) ...
Thông thường chúng rất dễ nhận ra do phần lớn các loài thường có màu đỏ nhiều hơn là màu xanh lục và không có nhiều lá. Họ này phân bổ khắp vùng nhiệt đới, chủ yếu ở châu Mỹ.
Cỏ cào cào (Burmannia disticha) Bản đồ phân bố họ BurmanniaceaeHệ thống APG II năm 2003 đặt họ này trong bộ Củ nâu (Dioscoreales) của nhánh monocots. Định nghĩa của họ này trong APG II là rộng hơn so với trong hệ thống APG năm 1998, do bao gồm cả các loài của họ Thismiaceae trong APG.
Nhóm thân cây của họ Burmanniaceae có lẽ đã xuất hiện khoảng 116 triệu năm trước (Ma), còn nhóm chỏm cây thì khoảng 93 Ma.
Các loài trong họ Burmanniaceae chủ yếu là cây thân thảo nhỏ không có diệp lục. Chúng hoặc là tự dưỡng hoặc là dị dưỡng (hoại sinh). Các hoa lưỡng tính (hoặc đơn tính cùng gốc) đối xứng tâm có màu xanh lam, bầu nhụy hạ có cánh. Các lá đài ngoài lớn hơn các lá đài trong và chỉ có 3 nhị, mọc đối diện với các lá đài trong. Quả nang nứt ra khi chín, chứa 15-100 hạt.
Trụ giữa của rễ là 2- tới 5 vòng và có thể không có lõi xốp, và mặc dù rễ của các loài trong họ thường được miêu tả như là thiếu các lông rễ, do nó hợp với mối quan hệ gần gũi của chúng với nấm, nhưng trên thực tế ở chi Burmannia thì có lông rễ. Ở các nhóm không chứa diệp lục thì các mao mạch chỉ có ở rễ, nhưng ở các nhóm khác thì có các mao mạch trong lá.
Cây phát sinh chủng loài dưới đây lấy theo APG II.
* Apteria
* Burmannia: Cỏ cào cào, thủy ngọc trâm
* Campylosiphon (bao gồm cả Dipterosiphon)
* Cymbocarpa
* Dictyostega
* Gymnosiphon (bao gồm cả Ptychomeria): Hủ thảo
* Hexapterella
* Marthella
* Miersiella