Hãy phân tích đoạn thơ trên để làm nổi rõ sức gợi cảm phong phú, ít nhiều có sự mới mẻ của hình tượng “sóng” trong sự liên hệ với nhân vật trữ tình “em”.
Tình yêu là một mô típ muôn thuở trong thi ca. Từ xưa đến nay, từ Đông sang Tây, mô-típ này đã làm hao tốn giấy mực của biết bao thi nhân như Nguyễn Du, Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Huy Cận, Hàn Mặc Tử, Nguyễn Bính, Nguyễn Đình Thi, Victo Huygo, M. Gorki, T. More, Tagore, Puskin,... Với nữ sĩ Xuân ...
Tình yêu là một mô típ muôn thuở trong thi ca. Từ xưa đến nay, từ Đông sang Tây, mô-típ này đã làm hao tốn giấy mực của biết bao thi nhân như Nguyễn Du, Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Huy Cận, Hàn Mặc Tử, Nguyễn Bính, Nguyễn Đình Thi, Victo Huygo, M. Gorki, T. More, Tagore, Puskin,... Với nữ sĩ Xuân Quỳnh, mô-típ tình yêu cũng mang đến cho ngòi bút tài hoa của chị nguồn thi hứng nồng nàn như lớp thi nhân trước chị. Một lần, đứng ở biển Diêm Điềm (29-12-1967), nhìn những con sóng “dữ dội và ...
Ôi con sóng ngày xưa
Và ngày sau vẫn thế
Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức.
Trước hết là sức gợi cảm phong phú của hình tượng “sóng” trong sự liên hệ, đối sánh với nhân vật trữ tình “em”: sóng là một hiện tượng vĩnh cửu (sóng ngày xưa và ngày sau vẫn thế) thì khát vọng tình yêu của “em” cũng sẽ “bồi hồi” trong ngực “trẻ” của mọi thời đại. Tình yêu là một đề tài vĩnh cửu:
Ôi con sóng ngày xưa
Và ngày sau vẫn thế
Nỗi khát vọng tình yêu
Bồi hồi trong ngực trẻ.
Vả lại, sóng bắt nguồn từ đâu cũng như “em” không biết tình ta bắt đầu từ thời điểm nào:
Trước muôn trùng sóng bể
Em nghĩ về anh, em
Em nghĩ về biển lớn
Từ nơi nào sóng lên?
Sóng bất đầu từ gió
Gió bắt đầu từ đâu?
Em cũng không biết nữa
“Khi nào ta yêu nhau”? Đây là câu hỏi muôn đời của những cặp tình nhân, một câu hỏi rất khó trả lời cho chính xác, mà thực sự cũng không có câu trả lời. Nhà thơ Nguyễn Đình Thi đã có lần viết:
Tôi yêu là bởi tôi yêu
Cầm tay cô hỏi, hỏi nhiều làm chi?
Khi yêu thương đắn đo gì
Phân phô chừ biết nói gì cớ sao
Huống hồ yêu tự khi nào
Hôm qua lòng thấy ngọt ngào mới hay...
Hơn nữa, sóng luôn thao thức vì “nhớ bờ” cũng như “em” luôn thao thức vì “nhớ đến anh”:
Con sóng dưới lòng sâu
Con sóng trên mặt nước
Ôi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được
Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức
Sóng nhớ bờ có con sóng chìm và con sóng nổi, cũng như lòng em nhớ anh cả trong ý thức và trong tiềm thức (cả trong mơ còn thức).
Ngoài ra, sự liên hệ, so sánh giữa “sóng “và “em” cũng tạo nên những liên tưởng, cảm xúc ít nhiều mới mẻ: “sóng” và “em” cùng gợi nên một ý niệm về muôn thuở, muôn đời, cùng gợi một nỗi thao thức khôn nguôi, cùng gợi những băn khoăn tìm kiếm đến ngọn nguồn, sóng là sự sống của biển thì nỗi nhớ cũng là bạn đồng hành của tình yêu của “em”. Những liên hệ so sánh của nữ sĩ Xuân Quỳnh như vậy có ít nhiều sự mới mẻ. Mặt khác, trong sự khác nhau giữa “sóng” và “em” cũng có ít nhiều mới mẻ. Sóng nhớ bờ thao thức cả ngày lẫn đêm, nhưng đó vẫn là nỗi nhớ trong thời gian hiện thực, còn “em” nhớ anh, thao thức từ cõi “thực” cho đến cõi “mơ” (“cả trong mơ còn thức”). Thêm vào đó, việc Xuân Quỳnh dùng sóng trong trạng thái động để gợi tả tình yêu của người phụ nữ tuy không phải là liên tưởng, cảm xúc bất ngờ nhưng vẫn rất lạ. Vì ở một số trường hợp đôi khi chỉ nhìn tình yêu của giới nữ ở trạng thái tĩnh, thụ động.
Tóm lại, đây là một đoạn thơ đặc sắc, thể hiện rất rõ phong cách thơ trữ tình của nữ sĩ Xuân Quỳnh. Với cách xây dựng hình tượng bằng nghệ thuật ẩn dụ, có sức gợi cảm phong phú, với cách cấu tứ độc đáo, với giọng thơ sôi nổi, ngọt ngào, tha thiết, sâu lắng, nữ sĩ Xuân Quỳnh đã mang đến cho những độc giả yêu thơ, say thơ niềm yêu thương, xúc động dâng tràn.