25/05/2018, 09:10

Hải dương

Hải Dương là một tỉnh nằm ở vùng đồng bằng sông Hồng, Việt Nam. Trung tâm hành chính của tỉnh là thành phố Hải Dương nằm cách thủ đô Hà Nội 57 km về phía đông, cách thành phố Hải Phòng 45 km về phía tây. Phía tây bắc giáp tỉnh Bắc Ninh, phía bắc giáp tỉnh ...

Hải Dương là một tỉnh nằm ở vùng đồng bằng sông Hồng, Việt Nam. Trung tâm hành chính của tỉnh là thành phố Hải Dương nằm cách thủ đô Hà Nội 57 km về phía đông, cách thành phố Hải Phòng 45 km về phía tây. Phía tây bắc giáp tỉnh Bắc Ninh, phía bắc giáp tỉnh Bắc Giang, phía đông bắc giáp tỉnh Quảng Ninh, phía đông giáp thành phố Hải Phòng, phía nam giáp tỉnh Thái Bình và phía tây giáp tỉnh Hưng Yên.

Theo quy hoạch năm 2007, Hải Dương sẽ nằm trong Vùng thủ đô với vai trò là một trung tâm công nghiệp

Hải Dương bao gồm 01 thành phố trực thuộc, 01 thị xã và 10 huyện:

* Thành phố Hải Dương (15 phường và 6 xã)

* Thị xã Chí Linh (8 phường và 12 xã)

* Huyện Bình Giang (1 Thị trấn và 17 xã)

* Huyện Cẩm Giàng (2 Thị trấn và 17 xã)

* Huyện Gia Lộc (1 Thị trấn và 22 xã)

* Huyện Kim Thành (1 Thị trấn và 20 xã)

* Huyện Kinh Môn (3 Thị trấn và 22 xã)

* Huyện Nam Sách (1 Thị trấn và 18 xã)

* Huyện Ninh Giang (1 Thị trấn và 27 xã)

* Huyện Thanh Hà (1 Thị trấn và 24 xã)

* Huyện Thanh Miện (1 Thị trấn và 18 xã)

* Huyện Tứ Kỳ (1 Thị trấn và 25 xã)

* Thành phố Hải Dương 15 phường, 6 xã: Phường Cẩm Thượng, Phường Bình Hàn, Phường Ngọc Châu, Phường Quang Trung, Phường Nguyễn Trãi, Phường Phạm Ngũ Lão, Phường Trần Hưng Đạo, Phường Trần Phú,Phường Tân Bình , Phường Thanh Bình, Phường Lê Thanh Nghị, Phường Hải Tân, phường Tứ Minh, phường Việt Hòa, phường Nhị Châu, phường Tân Bình, xã Nam Đồng, xã Ái Quốc, xã An Châu, xã Tân Hưng, xã Thạch Khôi, xã Thượng Đạt.

* Thị xã Chí Linh 8 phường, 12 xã: phường Phả Lại, phường Sao Đỏ, phường Bến Tắm, phường Thái Học, phường Văn An, phường Chí Minh, phường Hoàng Tân, phường Cộng Hòa, Xã Hoàng Hoa Thám, Xã Bắc An, Xã Hưng Đạo, Xã Lê Lợi, Xã Hoàng Tiến, Xã Cổ Thành, Xã Văn Đức, Xã Nhân Huệ, Xã An Lạc, Xã Kênh Giang, Xã Đồng Lạc, Xã Tân Dân.

* Huyện Nam Sách 1 thị trấn, 18 xã: Thị trấn Nam Sách, Xã Nam Hưng, Xã Nam Tân, Xã Hợp Tiến, Xã Hiệp Cát, Xã Thanh Quang, Xã Quốc Tuấn, Xã Nam Chính, Xã An Bình, Xã Nam Trung, Xã An Sơn, Xã Cộng Hòa, Xã Thái Tân, Xã An Lâm, Xã Phú Điền, Xã Hồng Phong, Xã Đồng Lạc, Xã An Châu, Xã Minh Tân.

* Huyện Kinh Môn 3 thị trấn, 22 xã: Thị trấn Kinh Môn (An Lưu cũ ), thị trấn Phú Thứ, thị trấn Minh Tân, Xã Bạch Đằng, Xã Thất Hùng, Xã Lê Ninh, Xã Hoành Sơn, Xã Phúc Thành B, Xã Thái Sơn, Xã Duy Tân, Xã Tân Dân, Xã Quang Trung, Xã Hiệp Hòa, Xã Phạm Mệnh, Xã Thăng Long, Xã Lạc Long, Xã An Sinh, Xã Hiệp Sơn, Xã Thượng Quận, Xã An Phụ, Xã Hiệp An, Xã Long Xuyên, Xã Thái Thịnh, Xã Hiến Thành, Xã Minh Hòa.

* Huyện Kim Thành 1 thị trấn, 20 xã: Thị trấn Phú Thái, Xã Lai Vu, Xã Cộng Hòa, Xã Thượng Vũ, Xã Cổ Dũng, Xã Việt Hưng, Xã Tuấn Hưng, Xã Kim Xuyên, Xã Phúc Thành A, Xã Ngũ Phúc, Xã Kim Anh, Xã Kim Lương, Xã Kim Tân, Xã Kim Khê, Xã Kim Đính, Xã Cẩm La, Xã Bình Dân, Xã Tam Kỳ, Xã Đồng Gia, Xã Liên Hòa, Xã Đại Đức.

* Huyện Thanh Hà 1 thị trấn, 24 xã: Thị trấn Thanh Hà, Xã Hồng Lạc, Xã Việt Hồng, Xã Quyết Thắng, Xã Tân Việt, Xã Cẩm Chế, Xã Thanh An, Xã Thanh Lang, Xã Tiền Tiến, Xã Tân An, Xã Liên Mạc, Xã Thanh Hải, Xã Thanh Khê, Xã Thanh Xá, Xã Thanh Xuân, Xã An Lương, Xã Thanh Thủy, Xã Phượng Hoàng, Xã Thanh Sơn, Xã Hợp Đức, Xã Trường Thành, Xã Thanh Bính, Xã Thanh Hồng, Xã Thanh Cường, Xã Vĩnh Lập.

* Huyện Cẩm Giàng 2 thị trấn, 17 xã: Thị trấn Cẩm Giàng, Thị trấn Lai Cách, Xã Cẩm Hưng, Xã Cẩm Hoàng, Xã Cẩm Văn, Xã Ngọc Liên, Xã Thạch Lỗi, Xã Cẩm Vũ, Xã Đức Chính, Xã Cẩm Sơn, Xã Cẩm Định, Xã Kim Giang, Xã Lương Điền, Xã Cao An, Xã Tân Trường, Xã Cẩm Phúc, Xã Cẩm Điền, Xã Cẩm Đông, Xã Cẩm Đoài.

* Huyện Bình Giang 1 thị trấn, 17 xã: Thị trấn Kẻ Sặt, Xã Hưng Thịnh, Xã Vĩnh Tuy, Xã Hùng Thắng, Xã Tráng Liệt, Xã Vĩnh Hồng, Xã Long Xuyên, Xã Tân Việt, Xã Thúc Kháng, Xã Tân Hồng, Xã Bình Minh, Xã Hồng Khê, Xã Thái Học, Xã Cổ Bi, Xã Nhân Quyền, Xã Thái Dương, Xã Thái Hòa, Xã Bình Xuyên.

* Huyện Gia Lộc 1 thị trấn, 24 xã: Thị trấn Gia Lộc, Xã Thạch Khôi, Xã Liên Hồng, Xã Thống Nhất, Xã Tân Hưng, Xã Trùng Khánh, Xã Gia Xuyên, Xã Yết Kiêu, Xã Gia Hòa, Xã Phương Hưng, Xã Gia Tân, Xã Tân Tiến, Xã Gia Khánh, Xã Gia Lương, Xã Lê Lợi, Xã Toàn Thắng, Xã Hoàng Diệu, Xã Hồng Hưng, Xã Phạm Trấn, Xã Đoàn Thượng, Xã Thống Kênh, Xã Quang Minh, Xã Đồng Quang, Xã Nhật Tân, Xã Đức Xương.

* Huyện Tứ Kỳ 1 thị trấn, 26 xã: Thị trấn Tứ Kỳ, Xã Ngọc Sơn, Xã Kỳ Sơn, Xã Đại Đồng, Xã Hưng Đạo, Xã Ngọc Kỳ, Xã Bình Lăng, Xã Tứ Xuyên, Xã Tái Sơn, Xã Quang Phục, Xã Đông Kỳ, Xã Tây Kỳ, Xã Dân Chủ, Xã Tân Kỳ, Xã Quang Khải, Xã Đại Hợp, Xã Quảng Nghiệp, Xã An Thanh, Xã Minh Đức, Xã Văn Tố, Xã Quang Trung, Xã Phượng Kỳ, Xã Cộng Lạc, Xã Tiên Động, Xã Nguyên Giáp, Xã Hà Kỳ, Xã Hà Thanh.

* Huyện Ninh Giang 1 thị trấn, 27 xã: Thị trấn Ninh Giang, Xã Quyết Thắng, Xã ứng Hoè, Xã Nghĩa An, Xã Hồng Đức, Xã Ninh Hòa, Xã An Đức, Xã Vạn Phúc, Xã Tân Hương, Xã Ninh Thành, Xã Vĩnh Hòa, Xã Đông Xuyên, Xã Hoàng Hanh, Xã Quang Hưng, Xã Tân Phong, Xã Ninh Hải, Xã Đồng Tâm, Xã Tân Quang, Xã Kiến Quốc, Xã Hồng Thái, Xã Hồng Dụ, Xã Văn Hội, Xã Hưng Thái, Xã Hồng Phong, Xã Hiệp Lực, Xã Hồng Phúc, Xã Hưng Long, Xã Văn Giang.

* Huyện Thanh Miện 1 thị trấn, 18 xã: Thị trấn Thanh Miện, Xã Thanh Tùng, Xã Phạm Kha, Xã Ngô Quyền, Xã Đoàn Tùng, Xã Hồng Quang, Xã Tân Trào, Xã Lam Sơn, Xã Đoàn Kết, Xã Lê Hồng, Xã Tứ Cường, Xã Hùng Sơn, Xã Ngũ Hùng, Xã Cao Thắng, Xã Chi Lăng Bắc, Xã Chi Lăng Nam, Xã Thanh Giang, Xã Diên Hồng, Xã Tiền Phong.

Đời Hùng Vương xưa, Hải Dương là bộ Dương Tuyền; thời nhà Hán thuộc quận Giao Chỉ; thời nhà Đông Ngô thuộc Giao Châu; nhà Đường đặt Hải Môn trấn, lại gọi là Hồng Châu.

* Nhà Đinh chia làm đạo; nhà Tiền Lê và nhà Lý cũng theo như nhà Đinh.

* Nhà Trần đổi làm 4 lộ: Hồng Châu thượng, Hồng Châu hạ và Nam Sách thượng, Nam Sách hạ

* Năm Quang Thái thứ 10 (1397) vua Trần Thuận Tông đổi làm trấn Hải Đông

* Thời kỳ thuộc Minh (1407-1427), thuộc hai phủ Lạng Giang và Tân An.

* Nhà Lê năm Thuận Thiên (1428-1433), vua Lê Thái Tổ cho thuộc Đông Đạo

* Khoảng niên hiệu Diên Ninh (1454-1459) vua Lê Nhân Tông chia làm 2 lộ: Nam Sách thượng và Nam Sách hạ

* Năm Quang Thuận thứ 7 (1466) vua Lê Thánh Tông đặt thừa tuyên Nam Sách.

* Năm 1469, đổi làm thừa tuyên Hải Dương.

* Năm Hồng Đức thứ 21 (1479) đổi làm xứ.

* Khoảng giữa năm Hồng Thuận (1510-1516) vua Lê Tương Dực đổi làm trấn; Nhà Mạc lấy Nghi Dương làm Dương Kinh, trích phủ Thuận An ở Kinh Bắc và các phủ Khoái Châu, Tân Hưng, Kiến Xương, Thái Bình ở Sơn Nam cho lệ thuộc vào Dương Kinh.

* Nhà Lê, khoảng niên hiệu Quang Hưng (1578-1599), vua Lê Thế Tông đổi làm trấn theo nguyên như cũ.

* Năm Cảnh Hưng thứ 2 - 1741 vua Lê Hiển Tông chia làm 4 đạo: Thượng Hồng, Hạ Hồng, Đông Triều và An Lão; Nhà Tây Sơn đem phủ Kinh Môn đổi thuộc vào Yên Quảng

* Năm 1802, vua Gia Long đem Kinh Môn thuộc về trấn cũ và lệ thuộc vào Bắc Thành

* Năm 1804, đời Vua Gia Long, lị sở Hải Dương được chuyển từ Mao Điền về tổng Hàn Giang, đặt trên vùng đất cao thuộc ngã ba sông Thái Bình và sông Sặt với mục tiêu trấn thành án ngữ vùng biên hải phía đông Kinh đô Thăng Long, chính vì vậy có tên gọi là Thành Đông - có nghĩa: đô thành ở phía đông.

* Năm Minh Mạng thứ 3 (1822) đổi Thượng Hồng làm phủ Bình Giang, Hạ Hồng làm phủ Ninh Giang, còn hai đạo Đông Triều và An Lão thì đặt làm hai huyện.

* Năm Minh Mạng thứ 12 (1831) chia thành một hạt độc lập và đổi làm tỉnh Hải Dương gồm 5 phủ 19 huyện.

* Năm 1887, thực dân Pháp tách một số huyện ven biển của Hải Dương, đặt thành tỉnh Hải Phòng; đến 1906, đổi thành tỉnh Kiến An.

* Năm 1968, tỉnh Hải Dương sáp nhập với Hưng Yên thành tỉnh Hải Hưng, đến đầu năm 1997 lại tách riêng ra với tên gọi như ngày nay.

Diện tích: 1.662 km²

Tọa độ

* Vĩ độ: 20°43' đến 21°14' độ vĩ Bắc

* Kinh độ: 106°03' đến 106°38' độ kinh Đông

Địa hình

Khoảng 11% diện tích là đồi núi thuộc dãy núi Đông Triều (nằm trong phạm vi các huyện Chí Linh và Kinh Môn ở phía bắc và đông bắc). Còn lại là địa hình đồng bằng.

Khí hậu

Hải Dương nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, chia làm 4 mùa rõ rệt (xuân, hạ, thu, đông).

Vào giai đoạn từ tiết lập xuân đến tiết thanh minh (khoảng đầu tháng hai - đầu tháng tư dương lịch) có hiện tượng mưa phùn và nồm là giai đoạn chuyển tiếp từ mùa khô sang mùa mưa. Mùa mưa kéo dài từ tháng tư đến tháng mười hàng năm.

* Lượng mưa trung bình hàng năm: 1.300 – 1.700 mm

* Nhiệt độ trung bình: 23,3 °C

* Số giờ nắng trong năm: 1.524 giờ

* Độ ẩm tương đối trung bình: 85 – 87%

Khí hậu thời tiết thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp, bao gồm cây lương thực, thực phẩm và cây ăn quả, đặc biệt là sản xuất cây rau mầu vụ đông.

Tài nguyên

Các khoáng sản chính:

* Đá vôi xi măng ở Kinh Môn, trữ lượng 200 triệu tấn, hàm lượng CaCO3 từ 90 - 97%. Đủ để sản xuất 4 đến 5 triệu tấn xi măng/năm trong thời gian 50 - 70 năm.

* Cao lanh ở Kinh Môn, Chí Linh trữ lượng 400.000 tấn, hàm lượng Fe2O3: 0,8 - 1,7%; Al2O3: 17 - 19% cung cấp nguyên liệu cho sản xuất đồ sứ.

* Đất sét chịu lửa ở Chí Linh, trữ lượng 8 triệu tấn, chất lượng tốt; hàm lượng Al2O3: 23,5 - 28%, Fe2O3: 1,2 - 1,9% cung cấp nguyên liệu sản xuất gạch chịu lửa.

* Bô xít ở Kinh Môn, trữ lượng 200.000 tấn; hàm lượng Al2O3: từ 46,9 - 52,4%, Fe2O3: từ 21 - 26,6%; SiO2 từ 6,4 - 8,9%.

Năm 2008 Hải Dương có 1.723.319 người với mật độ dân số 1.044,26 người/km²

Thành phần dân số

* Nông thôn: 86%

* Thành thị: 14%.

Xem thêm: Dự toán thu ngân sách năm 2006 của các tỉnh thành Việt Nam

* Tổng sản phẩm trong tỉnh (GDP) năm 2003 ước đạt gần 8.350 tỷ đồng (chỉ số giá năm 1994).

* Cơ cấu nông, lâm thuỷ sản - công nghiệp, xây dựng - dịch vụ: 30% - 41% - 29%.

* Hải Dương có số thu ngân sách cao thứ 12 cả nước với 2,550 tỉ (2006)

Hiện nay, Hải Dương là một trong ba tỉnh, thành phố có tốc độ thu hút đầu tư cao nhất cả nước (cùng với Bình Dương, Thành phố Hồ Chí Minh).

* Đường bộ: Có các đường quốc lộ sau chạy qua:

- Quốc lộ 5 từ Hà Nội tới Hải Phòng, phần chạy ngang qua giữa tỉnh Hải Dương dài 44,8 km.

- Quốc lộ 18 từ Hà Nội qua Bắc Ninh, Hải Dương đến vùng than và cảng Cái Lân của tỉnh Quảng Ninh. Phần đường chạy qua Chí Linh dài 20 km.

- Quốc lộ 37 phần chạy qua Hải Dương dài 65,2 km, phục vụ trực tiếp cho khu du lịch Côn Sơn - Kiếp Bạc.

- o Quốc lộ 38 dài 13 km là đường cấp III đồng bằng.

- Quốc lộ 183 đi từ Nam Sách tới Chí Linh dài khoảng 20km.

- Quốc lộ 10, dài 0,9 km. Quy mô cấp III đồng bằng.

- Đường cao tốc từ Hà Nội tới Hải Phòng ( đường 5 mới ) đang vào giai đoạn thi công.

- Đường tỉnh: có 14 tuyến dài 347,36 là đường nhựa tiêu chuẩn cấp III đồng bằng

- Đường huyện có 392,589 km và 1386,15 km đường xã đảm bảo cho xe ô tô đến tất cả các vùng trong mọi mùa.

* Đường sắt:

- Tuyến Hà Nội - Hải Phòng chạy song song với đường 5, vận chuyển hàng hoá, hành khách qua 7 ga trong tỉnh Hải Dương.

- Tuyến Kép - Bãi Cháy chạy qua Chí Linh, là tuyến đường vận chuyển hàng lâm, nông, thổ sản ở các tỉnh miền núi phía bắc ra nước ngoài qua cảng Cái Lân (Quảng Ninh), cũng như hàng nhập khẩu và than cho các tỉnh này.

* Đường thuỷ: Có 16 tuyến sông chính nối với các sông nhỏ dài 400 km; các loại tầu, thuyền trọng tải 500 tấn có thể qua lại. Cảng Cống Câu công suất 300.000 tấn/năm và hệ thống bến bãi đáp ứng về vận tải hàng hoá bằng đường thuỷ một cách thuận lợi. Hệ thống giao thông trên là điều kiện cho việc giao lưu kinh tế từ trong tỉnh đi cả nước và nước ngoài thuận lợi.

Hải Dương là một trong những vùng đất "địa linh nhân kiệt", vùng văn hoá và văn hiến tâm linh chính của cả nước. Theo dòng lịch sử đã để lại cho Hải Dương 1.098 di tích lịch sử, trong đó có 133 di tích được xếp hạng cấp quốc gia và nhiều di tích được xếp hạng đặc biệt như Côn Sơn, Kiếp Bạc. Hải Dương cũng là miền đất sinh ra và gắn liền với tên tuổi của nhiều anh hùng dân tộc, danh nhân văn hoá thế giới như: danh nhân quân sự thế giới Trần Hưng Đạo, một trong mười tướng tài trên thế giới, vị anh hùng dân tộc Việt Nam với chiến công hiển hách - ba lần chiến thắng quân Nguyên; Danh sư Chu Văn An, nhà giáo tài đức vẹn toàn, lịch sử tôn ông là nhà nho có đức nghiệp lớn nhất; Danh nhân văn hoá thế giới Nguyễn Trãi, người có tầm tư tưởng vượt lên nhiều thế kỷ; Lưỡng quốc trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi với học vấn đứng đầu cả nước, ông đã góp phần làm dạng danh đất nước; Đại danh y Tuệ Tĩnh, vị thánh thuốc nam được cả nước ngưỡng mộ.

Trí tuệ, tài năng của người Hải Dương cũng đóng góp cho sử sách Việt Nam 486 tiến sỹ (tính theo đơn vị hành chính mới, 637 vị tính theo đơn vị hành chính cũ) trong tổng số 2.989 vị đỗ đại khoa qua các triều đại, chiếm 16% ( 22%) đứng đầu cả nước, tiêu biểu là làng Mộ Trạch (Bình Giang – Hải Dương) được gọi là “lò tiến sỹ xứ Đông” có 36 vị đỗ đại khoa, đứng đầu số người đỗ tiến sỹ tính theo đơn vị làng xã trong cả nước. Vào thời Lê sơ, ở Hải Dương đã có trường thi và miếu thờ các vị đại nho, tiêu biểu là Văn miếu Mao Điền.

Hiện nay, trong địa bàn tỉnh Hải Dương còn nhiều di tích lịch sử-văn hóa như: Đền Kiếp Bạc thờ Đức thánh Trần, đền Đoan và đền Tranh thờ Quan lớn Tuần Tranh, chùa Côn Sơn gắn liền với cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Trãi, đền Cao, Văn miếu Mao Điền, di tích gốm sứ Chu Đậu-Mỹ Xá, di tích lịch sử chùa Bạch Hào. Khu di tích Kính Chủ - An Phụ, đảo cò Chi Lăng Nam...

Mỹ Xá cũng là nơi mà Việt Nam Quốc dân đảng đã họp dưới sự chủ trì của lãnh tụ Nguyễn Thái Học để phát động phong trào Khởi nghĩa Yên Bái chống lại thực dân Pháp vào tháng 2 năm 1930.

Với những thuận lợi trên, Hải Dương có vị trí khá quan trọng trong vùng du lịch Bắc bộ và cả nước.

Đặc sản

* Hải Dương nổi tiếng với đặc sản bánh đậu xanh, bánh gai và vải thiều...

* Các món ăn đặc sản: bún cá rô, bánh cuốn, rươi...

Không như nem công, chả phượng, bào ngư, yến huyết cầu kỳ khó kiếm, chả rươi là món ăn bắt đầu và hình thành từ những gì dân giã nhất. Hải Dương được xem là quê hương của món chả rươi đặc sản này.

Theo từ điển tiếng Việt: Rươi là con giun đất, thân có nhiều lông tơ nhỏ, sinh theo mùa, ở vùng nước lợ, xuất hiện nhiều vào cuối tháng chín đầu tháng mười hàng năm:

Hải Dương thuộc vùng châu thổ sông Hồng, được bao bọc bởi những con sông lớn, ăm ắp phù sa cuồn cuộn uốn mình ra biển, chính cái nơi tiếp giáp, gặp gỡ của những con sông này với vùng thuỷ triều lên mạnh tạo nên vùng nước lợ miên man ở các huyện Thanh Hà, Tứ Kỳ, Đông Triều, Ninh Giang, đây chính là vùng có nhiều rươi. Rươi không ai nuôi được, ngày thường có vác mai đào xới tung cả vùng đồng triều ngập lợ cũng chẳng tìm nổi một con.

Nhưng tháng chín đôi mươi tháng mười mùng năm, lúc bầu trời mây vần vũ như sà xuống thấp, những cánh diều mỏng dính chấp chới dắt díu những hạt mưa lất phất (người quê tôi gọi là mưa mở lỗ rươi), cả vùng bãi triều ngập trong màn nước phù sa nâu nhạt trở thành những ruộng rươi mênh mang. Heo may cứ thổi, mưa cứ rơi, ai đó cứ thở than " Kẻ ăn rươi, người chịu bão" bởi cái sự đau ê ẩm của thân mình, thì vùng ruộng rươi đông như trẩy hội. Cũng thật lạ, không hiểu từ đâu những con vật bé nhỏ thân nửa giun, nửa như rết cứ đùn đùn từ lòng đất chui lên, có con dài tới vài mét.

Lên đến mặt nước chúng đứt thành từng đoạn ngắn. Lạ lùng hơn mỗi đoạn ngắn ấy thành một con, con nào cũng có đầu có mắt hẳn hoi, chúng kết lại thành đoàn, dạt theo dòng nước chảy. Người đi vớt rươi chỉ cần dùng lưới, vợt bằng vải màu hay rá rổ, thậm chí cả gầu tát nước đơm chỗ cửa nước chảy là vớt được rươi. Cách vớt này thô sơ, cốt lấy vui làm chính. Còn nếu muốn lấy số nhiều thì phải tốn công hơn một chút. Thông thường người ta khơi bờ ruộng cho nước chảy, giăng mành mành rộng ra theo hình phễu rồi đơm đó vào. Rươi cứ việc theo dòng chảy, ào ạt trôi vô miệng đó. Đứng trên bờ, người ta chỉ việc nâng đó, trút rươi vào thuyền, chở lên mạn ngược gánh đi, cho kịp buổi chợ.

Những thúng rươi ngon nhất được đem lên Hà Nội và những thành phố lớn bán cho các khách sạn, nhà hàng đặc sản. Loại ngon vừa đem về bán ở các chợ quê. Cách đây vài năm chỉ vài chục ngàn ta có thể mua được một kg rươi. Nhưng một hai năm lại đây rươi hiếm dần, chẳng biết có phải vì nó cũng ngột ngạt không sinh nở được trong môi trường ô nhiễm nên giá đắt khủng khiếp. Một kg rươi ngon ở Hà Nội giá bán có khi lên tới 4- 5 trăm ngàn đồng. Loài thuỷ sinh này còn lạ lùng hơn vì dẫu có đang nổi lên đàn đàn lũ lũ đấy nhưng chỉ cần gặp một trận mưa không cần biết to hay nhỏ thì chỉ sau vài giờ là chúng biến đâu mất sạch ( Người quê tôi gọi là những trận mưa lấp lỗ Rươi)

Để làm được món chả rươi ngon, khi mua rưoi phải biết chọn lựa. Con rươi thân phải mập, có màu hồng, bò khoẻ trong thúng là những mớ rươi còn tươi và ngon. Loại này khi đánh nhuyễn, thân Rươi tan, ta sẽ có một bát bột rươi sánh, ánh vàng kem trứng, khi ăn cho vị ngọt đậm, béo ngậy, còn những con Rươi mầu xanh, thân gày bò yếu là Rươi non, khi đánh ít tan, rán lên sẽ khô, xác.

Mỗi món ăn lại có một số gia vị đi kèm để làm nên " Bản sắc". Làm chả rươi, bạn không thể không mua thêm thịt ba chỉ ngon, trứng gà, vịt tươi, lá lốt, hành hoa, thì là, lá gừng, hạt tiêu, mì chính, nước mắm ngon và đặc biệt phải có vỏ quýt - một vị mà nếu thiếu nó sẽ mất đi mùi vị đặc trưng của chả rươi. Giờ chắc bạn đã hiểu chẳng hề vô tình khi dân gian ngấm nguýt: " Mắm Rươi thì ít, vỏ quýt thì nhiều"...

Cách chế biến rươi cũng không đơn giản đâu: Rươi đem về nhà cho vào rổ dày nan, thả nhẹ nhàng vào chậu nước rồi rửa nhẹ tránh làm rươi vỡ ruột. nhặt sạch mùn rác để ráo nước rồi đổ rươi vào âu đũa đánh nhuyễn càng lâu càng ngon. Thịt ba chỉ băm nhỏ, tuỳ theo lượng rươi mà cho nhiều hay ít ( Thường 1 kg Rươi chỉ cho một hai lạng) đập vào đó 2 quả trứng ( gà, vịt đều được); Rau gia vị thái chỉ bằm nhỏ cho vào cùng mì chính, hạt tiêu, nước mắm ngon trộn đảo thật đều là được.

Việc rán rươi mỗi nơi mỗi khác, có nơi cho rươi sau khi đã trộn gia vị vào rán luôn, nhưng như vậy Rươi sẽ không ngon, rươi chín không đều và dễ bị cháy, khi ăn mất đi vị béo ngậy. Muốn rươi ngon, ta dùng nồi hấp xôi lót lá lốt sau đó cho từng muôi rươi vào hấp bánh. Khi rươi chín đều đóng bánh, ta đem bánh rươi đã được hấp chín cho vào chảo mỡ nóng già, đun nhỏ lửa, đợi khi bánh ngả màu vàng cánh gián đều cả hai mặt, bạn hãy vớt rươi ra. Món chả rươi chỉ ngon khi có lớp áo chả vàng ruộm mà phía bên trong ruột chả vẫn mềm, ngọt đậm, bạn mới là người "sành điệu" và khi đó, bánh chả toả hương thơm ngào ngạt, mùi hương mà đứng cách xa hàng vài trăm mét cũng cảm nhận được thật là quyến rũ cồn cào.

Nhón tay bẻ miếng chả Rươi nóng hổi, đặt vào giữa màu xanh non tơ của lá rau diếp, rau thơm cùng lọn bún trắng ngần cuộn lại rồi chấm vào bát nước mắm chắt có tỏi ớt chỉ thiên bằm nhuyễn, thêm chút đuờng, mì chính, chanh tươi... thêm vài giọt nhỏ tinh dầu cà cuống mùa gặt... ta nghe như từ đầu lưỡi vị ngầy ngậy đậm đà của sắc đỏ phù sa, mùi thơm thơm nồng nàn của cây lá vườn nhà... Tất cả mùi vị ấy quyện lại làm nên hương vị đặc trưng của chả rươi, dân giã mà lại quý giá vô cùng. Thêm vài chén rượu nếp cái hoa vàng chưng cất thủ công ủ hũ sành nút lá chuối khô để lâu với vài người bạn tâm giao trong một buổi chiều thu đáng nhớ, câu ca lơ lửng giữa đời " Món ngon nhớ lâu..." chắc sẽ khắc sâu vào tâm khảm, biết đâu thi hứng chợt nổi, bạn lại nẩy ra cả một tứ thơ hay?

Đặc biệt hơn nếu vào những ngày tết nguyên đán, giữa tiết trời se lạnh. trên mâm cỗ tết đầm ấm lại có món chả rươi thơm lừng để khoản đãi bạn bè thì thật thú vị. Sẽ rất nhiều người thắc mắc, làm thế nào để tết có Rươi ăn, điều này không khó. Vào vụ rươi chỉ cần sau khi hấp rươi thành bánh, bạn đem bánh rươi rán qua cho khô lại, để nguội rồi xếp bánh Rươi vào hộp nhựa có nắp đậy kín lại, cho vào túi nilon gói chặt xếp vào ngăn tủ đá lạnh. Tết đến xuân về, khi mai đào xoè hoa rực rỡ, bạn chỉ cần lấy rươi từ tủ lạnh ra ngoài cho tan băng, Những bánh rươi khi ấy sẽ tự rời nhau. Bên bếp lửa hồng, những miếng chả rươi nóng hổi toả mùi thơm ngào ngạt quện mùi hương trầm da diết... trong không khí đầm ấm của ngày xum họp, hẳn đây sẽ là món quà quê hiếm có của những ngày đầu xuân....

0