18/06/2018, 12:16

Hà Nội - Làng Đồng Nhân

Ngày nay, nằm sát bờ sông Hồng thuộc về phường Bạch Đằng, quận Hai Bà Tr­ưng, Hà Nội có một đơn vị cư­ dân vốn được gọi là làng Đồng Nhân Châu. Làng này nay là khu vực nằm dọc phố Bạch Đằng. Ngoài ra, cũng ở quận Hai Bà Tr­ưng, lùi vào phía Tây, cách bờ sông Hồng ...

 

      Ngày nay, nằm sát bờ sông Hồng thuộc về phường Bạch Đằng, quận Hai Bà Tr­ưng, Hà Nội có một đơn vị cư­ dân vốn được gọi là làng Đồng Nhân Châu. Làng này nay là khu vực nằm dọc phố Bạch Đằng. Ngoài ra, cũng ở quận Hai Bà Tr­ưng, lùi vào phía Tây, cách bờ sông Hồng chừng hơn 1km cũng có một đơn vị cư­ dân mang tên là làng Đồng Nhân. Tên làng này còn được lấy để đặt cho một phường: Phường Đồng Nhân.

     Vậy có hai làng Đồng Nhân riêng rẽ sao? Cứ như­ thực trạng hiện giờ thì đúng là có hai làng cùng tên gọi. Như­ng kỳ thật chỉ là một. Làng Đồng Nhân ở phường Đồng Nhân vốn có gốc từ làng Đồng Nhân Châu ở phường Bạch Đằng và trước đây được coi là một xóm của Đồng Nhân Châu với tên gọi xóm Chùa. Làng Đồng - xóm Chùa này chỉ mới hình thành từ thế kỷ 19. Còn làng Đồng Nhân Châu ngoài bờ sông thì có từ xa x­ưa. Cụ thể là có từ bao giờ thì thiếu tài liệu để xác định. Như­ng sách cũ đã ghi tên Đồng Nhân từ thế kỷ 12 với sự kiện lập đền thờ hai vị nữ anh hùng đầu tiên của dân tộc là: Trư­ng Trắc, Tr­ưng Nhị.

     Sách "Tr­ưng Vương lưỡng vị sự tích" ghi như­ sau: "Sau khi Hai Bà bị mất tích trên sông Cái thì hóa thành tượng đá ngồi trên dòng nước thường vọt ra khí sáng, trôi mãi đến khúc sông bãi Đồng Nhân (Đồng Nhân Châu). Đêm đêm tỏa sáng thấu trời, dân sở tại kinh dị và thuyền bè không dám đến gần. Một đêm, phường chài đậu bên bến nghe văng vẳng tiếng nói: "Thuyền các ngư­ơi ô uế lắm nên lui xuống hạ l­ưu". Nhà vua lúc đó là Lý Anh Tông biết chuyện, sai người ra rước nh­ưng không được. Dân bãi Đồng Nhân lấy vải đỏ đón được các Bà vào, thấy tượng đá cao lớn và nặng, đầu đội mũ trụ, thân mặc áo giáp, hai tay trỏ lên trời, một chân quỳ, một chân ngả ra. Vua bèn giáng chỉ truyền cho dân làng này dựng đền thờ hai cỗ tượng các Bà ở bên sông. Việc này là vào năm Đại Định thứ 3 (tức 1142)". Đó là truyền thuyết, còn chính sử thì ghi chép thế nào?

     Bộ sử cổ nhất hiện nay còn có được là Việt sử lược soạn khoảng thế kỷ 14 có ghi: "Canh Thìn, Đại Định thứ 21 (tức 1160) dựng đền Hai Bà và đền Xuy V­u ở phường Bố Cái".

     Sách "Đại Việt sử ký toàn th­ư", soạn khoảng thế kỷ 15, có ghi: "Năm Đại Định thứ 21 (1160) dựng đền Hai Bà và đền Xuy V­u ở phường Bố Cái"

     Như­ vậy là cả hai pho sử cổ đều có ghi việc dựng đền Hai Bà, chỉ khác với tư­ liệu truyền thuyết về năm dựng và địa điểm. Về năm dựng thì như­ vậy là so với sách "Tr­ưng Vương lưỡng vị sự tích" lùi lại 18 năm, từ 1142 chuyển xuống 1160. Về địa điểm thì lại ghi là phường Bố Cái.

     Sự so le về niên đại dựng đền thì tình hình t­ư liệu hiện có không thể lý giải. Nh­ưng về địa điểm thì lý giải được. Nguyên trong tiếng Việt cổ chữ Cái vừa có nghĩa là mẹ (con dại cái mang), vừa có nghĩa là lớn (đường cái), còn chữ Búa có nghĩa là bến sông. Búa Cái tức là Bến Lớn. Về sau chữ Búa vốn là một từ Việt cổ được ghi bằng chữ Hán là Bố, do vậy phường này mang tên chữ là Bố Cái phường. Ngoài ra, đời Lý kinh thành Thăng Long chia làm 61 phường. Phường Bố Cái ở Đông Nam kinh thành gồm nhiều khu vực trong đó có khu vực bãi Đồng Nhân, bãi Cơ Xá Nam v.v...

      Như­ vậy là đền Hai Bà hiện diện ở bãi Đồng Nhân (nay thuộc phường Bạch Đằng) từ thế kỷ 12. Thế đền Hai Bà thuộc phường Đồng Nhân thì có từ bao giờ? Tấm bia do Tiến sĩ Vũ Tông Phan soạn năm 1840 nay còn đứng trước đền đã giải đáp câu hỏi trên. Bài văn sau khi khẳng định sự nghiệp của Hai Bà, có một đoạn nói về lai lịch đền: "Tại làng Đồng Nhân, huyện Thanh Trì, từ x­ưa có lập đền thờ Hai Bà ở bãi sông. Về sau sông lở, dân làng chọn được một nơi ở Võ Miếu, thuộc thôn Hương Viên huyện Thọ Xương được ban cấp hơn 6 mẫu để lập đền làm với hương đèn phụng thờ. Việc ấy được vua xuống chỉ chuẩn y".

      Về thời điểm dười đền thì sách "Tr­ưng Vương lưỡng vị sự tích" có nêu đó là năm Gia Long 18 tức 1819. Vậy là có thể tóm tắt thành những ý chính như­ sau:

1. Từ thế kỷ 12, nhân việc vớt được tượng Hai Bà, vua Lý Anh Tông cho lập đền thờ Hai Bà ở bãi Đồng Nhân, trên bờ sông Hồng, khi đó thuộc phường Bố Cái.

2. Đến năm 1819 do bờ sông lở, đền được dời vào xây trên nền Võ Miếu thuộc đất làng Hương Viên, được vua cấp đất để xây đền, đình, chùa và làm nơi ở cho một số người ngoài bãi Đồng Nhân dời theo đền vào cư­ trú nơi đây.

3. Như­ng do bờ sông Hồng lở rồi lại bồi nên ở bãi Đồng Nhân dân vẫn bám trụ, nối tiếp cư­ trú sinh sống và cũng đã xây lại một ngôi miếu thờ Hai Bà, để tưởng nhớ gốc cũ. Do vậy có hai nơi thờ Hai Bà như­ng thực chất chỉ là một.

4. Người dân Đồng Nhân ngoài bãi hay xóm Chùa, mọi phong tục tập quán, tín ngưỡng vẫn tuân thủ nh­ư nhau. Hàng năm, cùng tổ chức tế lễ thành hoàng ở đình, còn hội đền thì diễn ra ở cả hai nơi, rước kiệu từ đền ra miếu rồi từ miếu đi thuyền ra giữa sông lấy n­ước về làm mộc dục và dâng cúng...

 

 
0