Giới thiệu tổng quát chương trình 135
Thực hiện công tác đổi mới dô Đảng cộng sản Việt Nam đè xướng và lãnh đạo ,với mục tiêu “Dân giàu nước mạnh ,xã hội công bằng dân chủ văn minh “,hơn 10 năm (1986_1998)chính phủ đã ban hành nhiều chính sách quan trọng nhằm đổi mới ...
Thực hiện công tác đổi mới dô Đảng cộng sản Việt Nam đè xướng và lãnh đạo ,với mục tiêu “Dân giàu nước mạnh ,xã hội công bằng dân chủ văn minh “,hơn 10 năm (1986_1998)chính phủ đã ban hành nhiều chính sách quan trọng nhằm đổi mới công tác quản lý nền kinh tế ,giải phóng lực lượng sản xuất ,khơi dậy và phát huy tiềm tàng của các thành phần kinh tế ,của mọi tầng lớp dân cư trong xã hội nên đã đạt được nhiều thành tựu to lớn .Kinh tế tăng trưởng khá ,đời sống nhân dân được nâng cao ,công tác quốc phòng an ninh ,chính trị và trật tự an toàn xã hội được đảm bảo .Tuy nhiên quá trình chuyển đổi nền kinh tế sang vận hành theo cơ chế thị trường đã tạo ra sự phân hoá giàu nghèo càng gay gắt giữa các vùng các miền ,khu vực giữa các tầng lớp dân cư trong xã hội .Để khắc phục tình trạng này ,Đảng và nhà nước ta chủ trương thực hiên chiến lược phát triển ,tăng trưởng đi đôi với xóa đói giảm nghèo ,thực hiện công bằng xã hội ;ưu tiên phát triển các vùng động lực ,các ngành kinh tế chủ chốt ,tạo nguồn thu cho ngân sách ,có tích luỷ để có điều kiện vật chất hỗ trợ chô vùng khó khăn .Yêu cầu của quá trình đổi mới là phải có những chính sách hợp lý ,đáp ứng được mục tiêu phát triển của cả nước ,đồng thời thực hiện công bằng xã hội phải có những chính sách đặc thù ,phải có nguồn lực hỗ trợ cho các địa phương nghèo cùng phát triển .Để thực hiện chương trình nàythủ tướng chính phủ đã có quyết định phê duyệt chương trình mục tiêu chương trình mục tiêu quốc gia xóa đói giảm nghèo.Đây là một chương triình quan trọng của đất nước.
Xóa đói giảm nghèo là nhiệm vụ đã được xác đình trong nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ bảy và lần thứ tám,mục tiêu đề ra là đến hết năm 2000 tỷ lệ hộ đói nghèo bình quân trong cả nước xuống còn 10% nhưng đến năm 1998 vẫn còn 17% .Nguyên nhân chủ yếu là do công tác xoá đói giảm nghèo thực hiện còn nhiều hạn chế,nguồn vốn xoá đói giảm nghèo còn hạn hẹp,còn quá nhiều các xã đặc biệt khó khăn vẫn còn khá nhiều,nhiều xã quá rộng có địa hình khá phức tạp ,dân cư thưa thớt ,nhiều tập tục lạc hậu trong sản xuất và đời sống đã làm hạn chế khả năng phát triển kinh tế của các vùng này.Nhưng một nguyên nhân sâu sắc nhất đó là chưa có chương trình quốc gia và những chính sách đặc biệt hướng tới các vùng này.Để giải quyết và đáp ứng đòi hỏi đó chính phủ đã ban hành quyết định 135/1998/QĐ-TTg ngày 31/7/1998 phê duyệt chương trình phát triển kinh tế –xã hội các xã đặc biệt khó khăn(sau này gọi là chương trình 135).Chương trình 135 là chương trình quốc gia được chính phủ ban hành với mụctiêu sử dụng các nguồn vốn trong đó vốn ngân sách nhà nước là chủ yếu,bên cạnh đó còn tận dụng cũng như huy động các nguồn vốn khác nhằm sử dụng tối đa các nguồn vốn cho công tác xóa đói giảm nghèo .Chương trình bên cạnh hỗ trợ phát triển kinh tế còn có vai trò xoá bỏ các tập tục lạc hậu trong đời sống hoạt động sản xuất kinh doanh cũng như nâng cao trình độ văn hoá cho đồng bào ,giúp đồng bào các vùng này tiếp cận với các phương thức sản xuất tiến bộ hơn,giúp đồng bào có điều kiện đẻ phát triển tốt hơn.Từ khi có chương trình 135 đến nay nhiều khu vực đặc biệt khó khăn đã được hỗ trợ phát triển sản xuất ,tạo chuyển biến khá căn bản trong tăng trưởng kinh tế ,giảm nghèo và phát triển xã hội .Hoạt động chương trình phải được hưởng ứng tích cực từ phía nhân dân cũng như phối hợp tích cực từ chính quyền địa phương các cấp.Hoạt động của chương trình nhằm ra sự phát triển cân đối kinh tế giữa các vùng ,các ngành,các địa phương.Thực tế đó đã bổ sung tương đối căn bản lý luận về đổi mới cơ chế quản lý kinh tế phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.Các công trình hạ tầng 135 được tiến hành công khai dân chủ được hội đồng nhân dân xã quyết định danh mục,quy mô thứ tự ưu tiênđầu tư và khả năng huy động nguồn lực tại xã để xây dựng công trình nên đã nâng cao được vai trò của người dân trong việc thực hiện dự án.Các dự án sẽ được thiết kế theo phương pháp mới là trao quyền cho cấp xã và cộng đồng tự quyết định.Theo phương châm “dân biết dân bàn dân làm dân kiểm tra”.
Quan điểm chỉ đạo
- Xuất phát từ mục tiêu tổng quát của chiến lược phát triển đất nước đã được khẳng định trong các văn kiện Đại hội Đảng là đảm bảo phát triển hài hoà giữa tăng trưởng với công bằng xã hội, từ đó hệ thống chính sách phát triển đã được hoạch định trên những quan điểm đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và trong suốt quá trình phát triển. Công bằng xã hội phải thể hiện ở cẩ khâu phân phối hợp lý tư liệu sản xuất lẫn khâu phân phối kết quả sản xuất, ở việc tạo điều kiện cho mọi người đều có cơ hội phát triển và sử dụng tốt năng lực của mình. Tạo điều kiện cho tất cả các vùng đều phát triển trên cơ sở khai thác thế mạnh và tiềm năng cảu mỗi vùng để hình thành một cơ cấu kinh tế hợp lý và liên kết giữa các vùng, tạo nên sự phát triển kinh tế, xã hội mạnh mẽ của cả nước. Kết hợp phát triển có trọng điểm với phát triển toàn diện các vùng lãnh thổ, giảm bớt sự chênh lệch quá xa về nhịp độ tăng trưởng giữa các vùng, điều tiết một phần tích luỹ từ nền kinh tế để hỗ trợ cho vùng khó khăn. Vùng miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, khu căn cứ cách mạng được xác định là địa bàn còn nhiều khó khăn nhất cần được hỗ trợ, nhằm tạo điều kiện ban đầu để các vùng đó từng bước vươn lên, hoà nhập với cả nước cùng phát triển.
- Thực hiện công bằng xã hội được thể hiện trên mọi phương diện, trong đó việc tạo cơ hội cho mọi tầng lớp dân cư thuộc mọi dân tộc có điều kiện tham gia vào quá trình phát triển là hết sức cần thiết, thể hiện trên các mặt: được bình đẳng trong việc đầu tư phát triển hạ tầng, hỗ trợ sản xuất,phát triển kinh tế, văn hoá, giải quyết vấn đề xã hội, cải thiện cuộc sống của đồng bào các dân tộc…, được trực tiếp đóng góp công sức, vật lực của mỗi người, mỗi gia đình, mỗi cộng đồng thôn xóm cho xây dựng quên hương mình; được đào tạo nâng cao kiến thức sản xuất, tổ chức cuộc sống, nâng cao năng lực mọi mặt cho cán bộ và người dân trong vùng; giúp họ tham gia sản xuất hàng hoá để trao đổi với bên ngoài; được cung cấp thông tin về thị trường, giá cả, định hướng cho hoạt động sản xuất kinh doanh; được tiếp cận với các dịch vụ xã hội khác.
Vùng ĐBKK miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng căn cứ cách mạng, vùng đồng bào dân tộc thiểu số có vai trò quan trọng trong lịch sử đấu tranh cách mạng của dân tộc. Từ xa xưa, các cuộc khởi nghĩa chống giặc ngoại xâm đều lấy vùng sâu, vùng xa làm căn cứ; trong kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, vùng này tiếp tục được dùng làm căn cứ, làm an toàn khu, đồng bào các dân tộc trong vùng đã hết lòng ủng hộ cách mạng, ủng hộ kháng chiến, góp phần vào thắng lợi chung của dân tộc. Sau khi chiến tranh kết thúc, đất nước rơi vào khó khăn mới nên chưa có điều kiện hỗ trợ cho các vùng này, nay cần được đền đáp lại một cách xứng đáng. Vì vậy, đây là đối tượng và phạm vi đầu tư của Chương trình 135.
Mục tiêu phát triển của các vùng lãnh thổ
Dựa trên cơ sở định hướng chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của cả nước trong các kỳ Đại hội Đảng, Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định về quy hoạch, kế hoạch dài hạn, kế hoạch 5 năm đối với các vùng đô thị, vùng kinh tế trọng điểm, vùng công nghiệp và vùng nông nghiệp hàng hoá; nhìn chung các vùng trên có nhiều điều kiện thuận lợi và có định hướng rõ ràng, vấn đề đặt ra là tạo điều kiện thu hút nguồn lực để đảm bảo chất lượng và tốc độ phát triển. Riêng vùng miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số là địa bàn có nhiều khó khăn, là vùng ít có cơ hội thuận lợi, khó huy động nguồn lực nên cần được Nhà nước ưu tiên đầu tư, tạo điều kiện hỗ trợ ban đầu, để:
- Trước mắt thực hiện chương trình XĐGN, việc làm, tạo thu nhập nâng cao đời sống cho đồng bào các dân tộc trong vùng.
- Từng bước tăng khả năng khai thác các lợi thế và nguồn lực tại chỗ giải quyết việc làm, tăng nguồn thu cho ngân sách.
- Tạo bước đi ban đầu để tăng tính hấp dẫn trong việc thu hút đầu tư.
Việc lựa chọn những đại bàn xung yếu, những lĩnh vực ưu tiên để hỗ trợ phát triển là nhiệm vụ bức thiết có ý nghĩa quyết định đối với việc phát triển kinh tế - xã hội khu vực này.
1. Sự hình thành các khu vực phát triển ở các xã miền núi, vùng dân tộc thiểu số nước ta trước khi có chương trình 135
Sau hơn 10 năm thực hiện đường lối đổi mới (1986 - 1997), tình hình kinh tế - xã hội miền núi và vùng dân tộc thiểu số ở nước ta đã đạt được những tiến bộ đáng kể, đến cuối năm 1996 đã hình thành 3 khu vực phát triển với trình độ khác nhau:
- Khu vực I: gồm các khu trung tâm đô thị, các thị trấn, các khu công nghiệp: có 806 xã, phường; 1.068.845 hộ với 5.275.369 người, chiếm tỷ lệ 39,02% dân số của các tỉnh miền núi và vùng dân tộc.
Nét nổi bật của khu vực này là kinh tế hàng hoá phát triển khá, là vùng động lực phát triển chính của các tỉnh, huyện miền núi; GDP bình quân đầu người có địa phương đạt cao hơn mức bình quân chung của cả nước. Cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội đã được xây dựng tương đối đồng bộ, bước đầu phục vụ tốt sản xuất, đời sống đồng bào. Trình độ dân trí, đời sống văn hoá - xã hội cộng đồng khá tiến bộ.
- Khu vực II: là khu vực đệm giữa khu vực I (đô thị…) với khu vực III (vùng sâu, vùng xa…); có 1.737 xã, phường; 1.516.005 hộ với 7.764.202 người, chiếm tỷ lệ 44,18% dân số của các tỉnh miền núi và vùng dân tộc.
Nhìn chung kinh tế khu vực này phát triển chậm, sản phẩm hàng hoá ít; GDP bình quân đầu người chỉ bằng 70% mức bình quân chung cả nước; sản xuất nông lâm nghiệp còn nhiều hạn chế, một bộ phận dân cư còn phát rừng làm rẫy, khả năng tái du canh du cư và tái trồng cây thuốc phiện còn nhiều; đời sống kinh tế tuy đã được cải thiện nhưng thiếu bền vững. Số hộ đói nghèo chiếm tỷ lệ cao (20-50%). Cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội đã được xây dựng nhưng chưa đồng bộ hoặc còn tạm bợ, chưa phục vụ tốt sản xuất, đời sống đồng bào. Mặt bằng dân trí còn thấp, đời sống văn hoá -xã hội cộng đồng còn nhiều mặt hạn chế so với khu vực I.
- Khu vực III: gồm 1.557 xã vùng cao, vùng sâu, vùng xa, vùng giáp biên. Vùng căn cứ kháng chiến; có 799.034 hộ với 4.533.598 người, chiếm tỷ lệ 25,8% dân số của các tỉnh miền núi và vùng dân tộc.
Đây là khu vực còn nhiều khó khăn, cơ sở hạ tầng kinh tế -xã hội rất yếu kém (còn 672 xã chưa có đường ô tô đến trung tâm xa) - nhiều nơi thiếu đất canh tác nông nghiệp, thiếu nước sinh hoạt nghiêm trọng. Sản xuất còn mang nặng tính tự nhiên, tự cấp, tự túc, phát, đốt rừng làm rẫy, sống du canh du cư hoặc định cư nhưng còn du canh… Số hộ đói nghèo chiếm trên 60%. GDP bình quân đầu người chỉ bằng 31% mức bình quân chung cả nước. Trình độ dân trí rất thấp, số người mù chữ, thất học chiếm trên 60%. Đời sống văn hoá - xã hội cộng đồng chậm cải thiện, thiếu thông tin liên lạc, truyền thanh, truyền hình nhiều nơi chưa đến dân… Tuy nhiên, khu vực này lại có vị trí rất quan trọng đối với quốc phòng, an ninh và là vùng đầu nguồn của các con sông lớn nên có vai trò to lớn bảo vệ môi trường sinh tái của cả nước.
Để tạo điều kiện cho các khu vực khai thác lợi thế của mình, đẩy nhanh nhịp độ phát triển kinh tế - xã hội trong những năm tới, góp phần tích cực vào sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, cần xác định đúng cơ chế đầu tư và có chính sách hỗ trợ phát triển phù hợp với điều kiện và trình độ của từng khu vực.
*. Cơ chế đầu tư đối với từng khu vực
- Đối với khu vực I: Cần tạo điều kiện cho khu vực này tiếp tục phát triển với nhịp độ cao hơn hoặc bằng mức bình quân chung cả nước, phát huy vai trò vùng động lực, thúc đẩy ở các vùng phụ cận phát triển, làm đầu mối giao lưu với các vùng khác trong nước và với nước ngoài. Cơ chế đầu tư thích hợp với khu vực là tích cực huy động nguồn lực từ cộng đồng, sử dụng vốn vay trong nước và nước ngoài để phát triển là chính. Nhà nước hỗ trợ chủ yếu cho việc hoàn thiện và nâng cấp cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội đã có, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao cho sản xuất và đời sống của dân cư trong vùng.
- Đối với khu vực II: Tuy có nhiều tiềm năng phát triển nhưng trước mắt còn nhiều khó khăn, hạn chế. Vì vậy, đòi hỏi phải có sự hỗ trợ tích cực của Nhà nước, kết hợp với các nguồn lực từ cộng đồng để xây dựng và hoàn thiện cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội. Huy động các nguồn vốn trong dân và vốn tín dụng Nhà nước cho vay với lãi suất ưu đãi, giúp đồng bào khai thác lợi thế của địa phương, mở rộng diện tích trồng cây công nghiệp, cây ăn quả, cây được dược liệu, phát triển chăn nuôi hình thành vùng nguyên liệu có khối lượng sản phẩm hàng hoá ngày càng lớn và đa dạng, tạo nguồn thu nhập để xoá đói giảm nghèo, thực hiện định canh định cư và bỏ trồng cây thuốc phiện một cách bền vững.
- Đối với khu vực III: đây là khu vực có nhiều khó khăn nhất, trình độ phát triển thấp kém nhất, đòi hỏi Nhà nước phải tập trung đầu tư một cách đồng bộ theo chương trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội trên từng địa bàn huyện-xã. Các ngành, các cấp phải tăng cường đi sâu chỉ đạo chặt chẽ việc thực hiện các chương trình lồng ghép trên địa bàn đảm bảo đưa lại lợi ích thiết thực cho đồng bào. Những nơi cơ sở quá yếu phải có cán bộ tăng cường đến công tác trực tiếp hướng dẫn đồng bào thực hiện xoá đói giảm nghèo và xây dựng cơ sở chính trị vững mạnh.
Những nhiệm vụ cơ bản về phát triển vùng ĐBKK
- Bố trí lại sản xuất
Bố trí lại sản xuất là một trong những nhiệm vụ cơ bản thúc đẩy sản xuất, cải thiện đời sống của đồng bào các dân tộc. Để thực hiện nhiệm vụ này phải dựa vào quy hoạch, kế hoạch phát triển của địa phương, phải lấy hiệu quả kinh tế làm trọng tâm, phải phát huy mọi nguồn lực trong dân cư để bố trí lại sản xuất, sắp xếp quy mô và cơ cấu sản xuất, thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế của những vùng khó khăn một cách hợp lý. Trên thực tế, việc ổn định đời sống đồng bào các xã khu vực III và các thôn bản ĐBKK của xã khu vực II chủ yếu dựa vào phát triển nông nghiệp, nhằm tăng thu nhập cho người lao động thông qua biện pháp tăng năng suất cây trồng, vật nuôi, tăng biện pháp kỹ thuật, kể cả khâu bảo quản sau thu hoạch, chế biến, tiêu thụ sản phẩm cho nông dân. Vì vậy ở vùng ĐBKK đòi hỏi từng bước hình thành các vùng sản xuất hàng hoá từ cây trồng, vật nuôi, gắn với chế biến và tiêu thụ. Để hỗ trợ phát triển cho các ngành nông lâm nghiệp và từng bước tiến hành công nghiệp hoá nông thôn, tập trung nghiên cứu phát triển các cơ sở công nghiệp sơ chế quy mô vừa và nhỏ, khai thác các mỏ nhỏ, phát triển các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp kết hợp tìm kiếm thị trường tiêu thụ hàng hoá cho mọi người dân. Nguồn vốn đầu tư vào khu vực này chủ yếu từ ngân sách, tín dụng ưu đãi và vốn dân cư; ở những địa phương quá khó khăn, trung ương xem xét hỗ trợ vốn ngân sách để đầu tư hạ tầng kinh tế - xã hội; vốn tín dụng hỗ trợ phát triển sản xuất nông - lâm nghiệp, xoá đói giảm nghèo. Nhà nước phải có biện pháp tập trung vốn ngân sách đầu tư theo chương trình tổng hợp và có sự chỉ đạo chặt chẽ giúp cho khu vực này phát triển mới cơ hiệu quả.
Quy hoạch bố trí lại dân cư thôn bản ở xã ĐBKK
- Căn cứ vào quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội thời kỳ 1996 - 2010 của từng địa phương, điều kiện tự nhiên, tính chất đặc điểm của từng vùng, khả năng đất đai, tập quá từng dân tộc để bố trí lại các cụm dân cư theo phương châm không gây ra những biến động lớn trong đời sống nhân dân, điều chỉnh dân cư từng bước để đạt mục đích, yêu cầu tổng thể về sắp xếp lại sản xuất, ổn định xã hội và nâng cao đời sống đồng bào các dân tộc. Trong đó quy hoạch phát triển hệ thống giao thông là khâu đột phá, đi trước một bước trong quá trình hình thành các cụm dân cư, các thị trấn, thị tứ, các TTCX, từ đó hình thành và phát triển các vùng kinh tế hàng hoá.
- Trên phạm vi miền núi, việc bố trí dân cư phải gắn với việc thực hiện chương trình định canh định cư theo các dự án ổn định và phát triển, chương trình hỗ trợ dân tộc đặc biệt khó khăn, chưong trình quốc gia 06/CP… và các chính sách xã hội. Trên quan điểm tận dụng lao động, việc sắp xếp lại các cụm dân cư phải gắn với quy hoạch phát triển các vùng nguyên liệu, các cơ sở chế biến. Tuỳ theo điều kiện cụ thể của từng vùng mà phát triển cây trồng, vật nuôi gắn với công nghiệp chế biến, công nghiệp khai khoángm vật liệu xây dựng, ngành nghề truyền thống với quy mô thích hợp để sản xuất nhiều sản phẩm hàng hoá phục vụ tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Đối với các vùng biên giới nhiệm vụ an ninh, quốc phòng cần được coi trọng hơn. Việc tạo ra các tụ điểm dân cư dọc tuyến biên giới không những có ý nghĩa trong việc phát triển các ngành kinh tế có lợi, khai thác các nguồn lực sẵn có, nhất là khai thác các cửa khẩu biên giới, mà còn có ý nghĩa chiến lược về an ninh biên giới, mở ra khả năng tăng cường giao lưu văn hoá, phát triển tình đoàn kết hữu nghị với các nước láng giềng. Nhiệm vụ quy hoạch lại dân cư trước mắt được triển khai trong khuôn khổ thôn bản của xã ĐBKK, đảm bảo bốn lợi ích.
+ Đưa dân sống phân tán vào hoạt động trong các cộng đồng thôn bản
+ Tiết kiệm đất sản xuất theo quy hoạch
+ Ngăn chặn bọ tội phạm, bọn phản động thù địch lợi dụng hoạt động gây mất ổn định.
+ Thuận lợi và tiết kiệm cho việc đầu tư hạ tầng.
Xây dựng cơ sở hạ tầng đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội
- Nâng cấp và xây dựng mới các tuyến đường giao thông là nhiệm vụ hàng đầu trong việc xây dựng cơ sở hạ tầng ở miền núi. Nguồn vốn đầu tư làm đường giao thông do ngân sách Nhà nước cấp và dựa vào sự đóng góp của nhân dân. Ưu tiên đầu tư nâng cấp và xây dựng các tuyến đường dọc biên giới và đường đến các huyện vùng sâu, vùng xa. Đường giao thông từ tỉnh đến huyện và trung tâm cụm xã do Nhà nước đảm nhận và đảm bảo thông suốt bốn mùa. Đường từ trung tâm xã đến các bản làng do dân làm là chính, Nhà nước hỗ trợ một phần vật tư, xi măng, thuốc nổ, cáp làm cầu treo dân sinh. Phương thức quản lý và xây dựng hệ thống đường ra biên giới, các tuyến đường phục vụ an ninh, quốc phòng đã được xác định tại Quyết định số 120/2003/QĐ-TTg ngày 6/11/2003 của Chính phủ.
- Điện lưới quốc gia thông suốt đến các tỉnh lỵ, các huyện lỵ, các TTCX. Đối với những nơi xa xôi hẻo lánh không kéo được điện lưới thì phát triển thuỷ điện nhỏ, cực nhỏ và các nguồn năng lượng khác để đồng bào vùng dân tộc và miền núi được dùng điện trong sản xuất và sinh hoạt.
- Về thuỷ lợi, trên phạm vi vùng miền núi, tập trung xây dựng các công trình thuỷ lợi lớn, các hồ chứa nước để tưới tiêu cho các vùng cây công nghiệp; xây dựng một số công trình thuỷ điện gắn với phát triển kinh tế, bảo vệ môi trường sinh thái, cân bằng nguồn nước và chống lũ. Xây dựng các công trình thuỷ lợi vừa và nhỏ phục vụ phát triển sản xuất của từng vùng sinh thái. ở các xã ĐBKK chủ yếu cải tạo, nâng cấp, kiên cố hoá và xây dựng mới các công trình thuỷ lợi quy mô nhỏ cấp nước tưới và sinh hoạt cho dân cư.
- Tiếp tục đưa chương trình nước sạch vào phục vụ sản xuất cho đồng bào vùng dân tộc và miền núi, ưu tiên giải quyết nước sạch ở khu vực III và phần khó khăn của khu vực II. Phấn đấu đến năm 2005 có 75% số dân vùng dân tộc và miền núi được dùng nước sạch, bảo đảm đủ nước sinh hoạt cho các đồn biên phòng.
- Về cơ sở hạ tầng xã hội: mục tiêu cơ bản là tạo điều kiện thuận lợi ở mức tương đối về giáo dục cơ sở, nhiệm vụ cơ bản là hoàn thành việc xây dựng các trường phổ thông nội trú ở TTCX, trường bán trú ở xã. Mục tiêu chăm sóc sức khoẻ trong những năm trước mắt là các trung tâm cụm xã đều có trạm y tế/ phòng khám đa khoa; ở thôn, xã, bản có phát hình và phát thanh các xã, các đồn biên phòng có thể liên lạc bằng điện thoại… để đồng bào được hưởng các dịch vụ văn hoá phúc lợi xã hội.
Đầu tư hạ tầng trên địa bàn miền núi, vùng sâu, vùng xa, trước hết đầu tư cho lĩnh vực giao thông, phát triển kinh tế - văn hoá- xã hội; đồng thời đầu tư các loại công trình khác phục vụ cho phát triển sản xuất, tạo nghề mới tỏng nông thôn, tạo cơ sở vật chất phục vụ văn hoá, dân sinh.
Tiêu chí phân định 3 khu vực
Để có cơ sở hỗ trợ đầu tư, vận dụng thực hiện các chủ trương chính sách sát hợp với từng khu vực, từng đối tượng ở vùng dân tộc- miền núi, Thủ tướng Chính phủ có văn bản số 7189/ĐP1 ngày 14/12/1995 về việc công bố tiêu chí 3 khu vực miền núi, vùng cao; giao uỷ ban Dân tộc và Miền núi công bố tiêu chí này và hướng dẫn các địa phương thực hiện để làm căn cứ cho việc lập và xét duyệt kế hoạch, dự án đầu tư, thực hiện chính sách đối với miền núi và dân tộc. Uỷ ban Dân tộc và Miền núi có thông tư số 41/UB-TT ngày 08/01/1996 quy định và hướng dẫn thự hiện tiêu chí từng khu vực ở vùng dân tộc-miền núi theo trình độ phát triển của từng vùng nói trên. Cơ sở để phân định khu vực là dựa theo trình độ phát triển cụ thể của từng xã theo năm tiêu chí sau:
Dựa theo điều kiện tự nhiên, địa bàn cư trú: được chia thành 3 vùng
+ Vùng cao, vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới.
+ Vùng ảnh hưởng của các trung tâm phát triển: thị xã, thị trấn, thị tứ
+ Vùng kinh tế hàng hoá phát triển, ven các quốc lộ, tỉnh lộ, đường ô tô liên huyện, liên xã, … hoặc ở vùng đệm giữa các trung tâm phát triển và vùng cao, vùng sâu, vùng xa.
Cơ sở hạ tầng hiện có
Đường giao thông, điện và các nguồn năng lượng khác, thuỷ lợi phục vụ sản xuất và cấp nước sinh hoạt dân cư. Trong đó đặc biệt quan tâm là:
+ Đường giao thông gồm có: đường bộ (quốc lộ, tỉnh lộ, đường liên huyện, liên xã); đường sắt chạy qua và ga đường sắt đặt tại khu vực; sân bay; đường thuỷ.
+ Điện lưới quốc gia, thuỷ điện nhỏ, các nguồn năng lượng khác…
+ Thuỷ lợi: Năng lực tưới tiêu cho diện tích lúa, công công nghiệp…kết hợp thuỷ lợi với giải quyết vấn đề nước sạch: các công trình nước sạch, giếng khoan, bể chứa…
Các điều kiện hạ tầng được đánh giá và xem xét trên cơ sở quy mô, cấp hạng kỹ thuật, năng lực của các công trình so với đòi hỏi của yêu cầu sản xuất và đời sống của đồng bào trong khu vực.
Các yếu tố xã hội
Trình độ dân trí, các vấn đề về y tế, văn hoá, xã hội. Quy mô và chất lượng các cơ sở trường học, chữa bệnh, phát thanh, truyền hình, văn hoá…
Trình độ dân trí: trình độ văn hoá, tỷ lệ mù chữ, khả năng tiếp thu và vận dụng các chủ trương, chính sách, tiến bộ khoa học kỹ thuật…; các vấn đề về y tế: phòng chống dịch bệnh, bảo đảm sức khỏe, kế hoạch hóa gia đình; đời sống văn hoá tiến bộ hay lạc hậu.
Quy mô và chất lượng các công trình hạ tầng xã hội như: trường học, cơ sở chữa bệnh, phát thanh, truyền hình, các cơ sở văn hoá…; mức độ đáp ứng nhu cầu cơ bản về xã hội của dân cư.
Điều kiện sản xuất
- Diện tích đất cho sản xuất nông lâm nghiệp tính bình quân cho hộ gia đình hoặc cho đầu người. Công cụ phục vụ sản xuất; trình độ sản xuất; cơ cấu ngành nghề; kết quả sản xuất và hoạt động kinh doanh trao đổi hàng hoá.
- Diện tích đất nông nghiệp, đất lâm nghiệp, đại gia súc, gia cầm, tính bình quân cho một hộ, một người, công cụ sản xuất thô sơ hay mức độ cơ giới hoá còn hạn chế…
- Trình độ thâm canh cây trồng vật nuôi; mức độ áp dụng khoa học công nghệ vào sản xuất, cơ cấu sản xuất: lâm nghiệp, nông nghiệp, công nghiệp, thủ công nghiệp và dịch vụ.
- Trình độ sản xuất hàng hoá, hình thành vùng hàng hoá với những sản phẩm hàng hoá chủ yếu; hình thành thị trường hàng hoá; trung tâm thương mại, chợ khu vực, khả năng giao lưu hàng hoá.
Về đời sống
Phân loại hộ đói nghèo theo "chuẩn mực đói nghèo và mức độ đói nghèo ở Việt Nam" do Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội quy định tại báo cáo số 13.266/LĐ-TBXH.BT ngày 29/8/1995. Đơn vị chuẩn để xác định đói nghèo là mức thu nhập của hộ gia đình được quy đổi ra gạo tính bình quân đầu người hàng tháng:
Hộ nghèo:
Dưới 25 kg gạo ở thành thị
Dưới 20 kg gạo ở nông thôn vùng đồng bằng và trung du
Dưới 15 kg gạo ở nông thôn miền núi
Hộ đói:
Dưới 13kg gạo ở bất kể vùng nào.
Dựa theo 5 tiêu chí trên, phân các xã thuộc khu vực miền núi, vùng cao của cả nước theo 3 khu vực:
Khu vực I: khu vực bước đầu phát triển.
Khu vực II: khu vực tạm ổn định.
Khu vực III: khu vực khó khăn.
Đối với các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long, Văn phòng Chính phủ có văn bản số 2974/ĐP1 ngày 13/6/1997 đồng ý Uỷ ban Dân tộc và miền núi vận dụng tiêu chí 3 khu vực miền núi, vùng cao (quy định tại Thông tư 41/UB-TT ngày 8/1/1996 của UBDT&MN) để phân định khu vực vùng sâu, vùng xa, vùng căn cứ cách mạng, nơi đồng bào Khmer, Chăm và các dân tộc thiểu số khác đang sinh sống ở đồng bằng thuộc các tỉnh phía Nam.
Những căn cứ cụ thể để xác định khu vực khó khăn:
- Địa bàn cư trú: gồm các xã vùng sâu, vùng xa, vùng cao hẻo lánh, vùng biên giới hải đảo. Khoảng cách của các xã đến các khu trục động lực phát triển trên 20km (riêng các tỉnh ĐBSCL khoảng cách này là trên 10km).
- Cơ sở hạ tầng: chưa được xây dựng hoặc còn tạm bợ. Giao thông rất khó khưn, không có đường ô tô vào xã. Các công trình điện, thuỷ lợi, nước sạch, trường học, bệnh xá, dịch vụ khác rất thấp kém hoặc không có.
- Các yếu tố xã hội: chưa đạt mức tối thiểu. Dân trí quá thấp, tỷ lệ mù chữ và thất học trên 60%, bệnh tật nhiều, tập tục lạc hậu, không có thông tin, v.v… (riêng các tỉnh ĐBSCL tỷ lệ thất học và mù chữ trên 50%).
- Điều kiện sản xuất: rất khó khăn, thiếu thốn. Sản xuất mang tính tự nhiên hái lượm, chủ yếu phát rừng làm nương rẫy, du canh, du cư (riêng các tỉnh ĐBSCL: số hộ không có và thiếu đất sản xuất trên 20% số hộ của xã; số hộ làm thuê trên 20% số hộ của xã).
- Về đời sống: số hộ đói nghèo trên 60% số hộ của xã. Đời sóng thực sự khó khăn, nạn đói thường xuyên xảy ra (riêng các tỉnh ĐBSCL số hộ nghèo đói trên 30% số hộ của xã).
Phương pháp phân định các xã thuộc khu vực khó khăn
- Đơn vị để xác định khu vực là xã, xã nào có 4/5 tiêu chí nói trên thì xếp vào khu vực khó khăn, từng xã căn cứ vào các tiêu chí nêu trên để tự bình chọn và đề nghị lên các cấp xét duyệt.
Các cấp huyện, tỉnh, trung ương thành lập hội đồng xét duyệt và thực hiện xét duyệt từ huyện lên trung ương.
- Hội đồng xét duyệt ở trung ương gồm:
+ Một đại diện lãnh đạo của Uỷ ban Dân tộc và Miền núi làm chủ tịch
+ Đại diện của các Bộ: Kế hoạch và Đầu tư, Lao động - Thương binh Xã hội, Nông nghiệp và phát triển nông thôn, Ban tổ chức- cán bộ Chính phủ, Tổng cục Địa chính là thành viên Hội đồng.
- Hội đồng xét duyệt ở cấp tỉnh, cấp huyện do Chủ tịch Uỷ ban Nhân dân tỉnh hoặc Chủ tịch Uỷ ban Nhân dân huyện ra quyết định thành lập, gồm:
+ Một phó chủ tịch làm chủ tịch hội đồng cùng cấp
+ Các thành viên tương tự như các thành viên Hội đồng xét duyệt của các cơ quan trung ương tham gia.