Giang Nam Nguyễn Sung, Châu Giang, Hà Trung, Lê Minh

Giang Nam tên thật là Nguyễn Sung, sinh ngày 2/2/1929. Các bút danh khác có Châu Giang, Hà Trung, Lê Minh (sử dụng trên báo chí công khai xuất bản ở miền Nam dưới chế độ Mỹ - Ngô Đình Diệm từ 1955 đến 1960). Quê quán: xã Ninh Bình, huyện Ninh Hoà, tỉnh Khánh Hoà. Nơi ở hiện nay: Thành phố Nha Trang. Địa chỉ nhà riêng: 46 Yersin Nha Trang. ĐT: 058.821447 Cơ quan: Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Khánh Hoà - 1 Quang Trung, Nha Trang. Thơ: - Tháng Tám ngày mai (thơ, NXB Văn học Hà Nội 1962) - Quê hương (thơ, NXB Văn nghệ Giải phóng 1962) - Quê hương (thơ, NXB Văn học Hà Nội 1965) - Người anh hùng Đồng Tháp (thơ và trường ca, NXB Giải phóng 1969) - Vầng sáng phía chân trời (thơ, NXB Văn học Giải phóng thành phố Hồ Chí Minh 1975) - Hạnh phúc từ nay (thơ, NXB Tác phẩm mới Hà Nội 1978) - Thành phố chưa dừng chân (thơ, NXB Tác phẩm mới Hà Nội 1985) - Một thời để nhớ (thơ, in chung 4 tác giả, Báo Văn hoá Văn phòng đại diện miền Trung xuất bản 1998) - Ánh chớp đêm giao thừa (trường ca, NXB Quân đội nhân dân Hà Nội 1998) Truyện: - Vở kịch cô giáo (truyện ngắn, NXB Văn học Hà Nội 1962) - Người Giồng Tre (truyện ngắn và ký, NXB Giải phóng 1969) - Trên tuyến lửa (truyện ngắn và ký, Sở Văn hoá Thông tin Long An xuất bản 1984) - Rút từ sổ tay chiến tranh (truyện ngắn và ký, NXB Văn nghệ Thành phố Hồ Chí Minh 1987) Các giải thưởng văn học: - Giải ba về truyện ngắn của báo Thống Nhất năm 1960: truyện ngắn "Những người thợ đá" - Giải nhì về thơ tạp chí Văn nghệ năm 1961: bài thơ "Quê hương" - Giải thưởng văn học Nghệ thuật Nguyễn Đình Chiểu (1960 - 1965) của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam về thơ: tập thơ "Quê Hương". Tiểu sử tự thuật: Tôi sinh ngày 2/2/1929 trong một gia đình nho học. Cha thi tú tài ở Huế không đỗ về nhà làm ruộng. Gia đình có 7 con (4 trai, 3 gái) thì 3 người trai đầu (trong đó có tôi) đều thi đỗ thành chung. 4 anh em trai đều thoát ly tham gia kháng chiến, đều là đảng viên. Người anh lớn ở lại miền Nam hoạt động cách mạng sau hiệp định Giơ-ne-vơ bị địch giết năm 1955 (liệt sĩ). Tôi tham gia cách mạng tháng Tám và kháng chiến chống Pháp ở quê nhà, làm công tác thông tin tuyên truyền ở xã, sau lên tỉnh. Khi kết thúc chiến tranh tôi là Phó Trưởng ty Thông tin tỉnh Khánh Hoà. Vào Đảng Cộng sản Việt Nam tháng 8 năm 1948. Sau hiệp định Giơ-ne-vơ 1954, tôi được bố trí ở lại miền Nam bí mật hoạt động trong các thành phố, thị xã (Nha Trang, Phan Thiết, Biên Hoà, Thủ Dầu Một, Sài Gòn...) và vùng giải phóng của ta (Khánh Hoà, Khu 6 - Cực Nam Trung Bộ, miền Đông Nam Bộ, Long An, Bến Tre, Thành phố Sài Gòn Gia Định...). Là Phó Tổng thư ký Hội Văn nghệ giải phóng miền Nam, uỷ viên tiểu ban văn nghệ Trung ương cục, trưởng ngành văn. Có thời gian làm Trưởng tiểu ban văn nghệ, uỷ viên Ban Tuyên huấn khu Sài Gòn Gia Định. Sau ngày giải phóng miền Nam (1975) là uỷ viên thường vụ Hội Nhà văn Việt Nam và Hội Liên hiệp văn học nghệ thuật Việt Nam uỷ viên Ban Chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam khoá 2 và 3 đồng thời là uỷ viên Đảng đoàn, Tổng Biên tập Báo Văn Nghệ, Trưởng ban đối ngoại Hội Nhà văn. Nhiều năm là chủ tịch Hội Văn nghệ Phú Khánh và Khánh Hoà. Về mặt nhà nước là đại biểu Quốc hội khoá 6 (1976 - 1981), Phó Chủ tịch uỷ ban Nhân dân tỉnh Khánh Hoà (1989 - 1993). Bài thơ đầu tiên được in: "Về vùng tạm chiếm" (1946) in trên báo "Thắng" của tỉnh Khánh Hoà. Tập thơ đầu tay: "Tháng Tám ngày mai" (NXB Văn học 1962). Tập truyện ngắn đầu tay: "Vở kịch cô giáo" (NXB Văn học 1962). Cả 2 tập đều được in khi tác giả đang chiến đấu ở miền Nam. Quan điểm về sáng tác: ... Tôi đã trở thành nhà thơ "không chuyên" vì công tác chính của tôi là xây dựng cơ sở, tuyên huấn, quản lý văn hoá văn nghệ và... sản xuất, đi theo bộ đội đánh giặc. Tôi thành "nhà thơ" lúc nào không biết, chủ yếu là không thể dằn lòng trước nỗi đau của bà con và nỗi đau của riêng mình. Tuyệt đại đa số bài viết là để cho mình đọc, để tự dặn với lòng mình hãy thuỷ chung với đất nước, với người mình thương. Đó là máu, là thịt của tôi chứ không phải ai khác, là "tự nguyện" với lòng mình chứ không phải do ai bắt buộc mình... (Trích "Nhà văn Việt Nam: chân dung tự hoạ") ... Từ một cán bộ cách mạng hoạt động trong vùng bị chiếm suốt 9 năm chống Pháp và ở lại miền Nam tiếp tục cuộc chiến đấu chống Mỹ, tôi đã trở thành một người làm thơ. Tôi thấm thía một điều: cuộc chiến đấu ấy là ngọn nguồn cảm xúc lớn, là niềm vui và cả nỗi đau trong thơ tôi. Thú thật có những thời kỳ đen tối, hàng ngày đương đầu với cái chết, không một ai trong chúng tôi có ý nghĩ là mình sẽ còn sống khi kháng chiến thắng lợi. Thơ là trái tim đồng thời là chỗ dựa tinh thần của tôi. Những bài thơ đầu tiên là tôi viết cho mình, để mình đọc, để nhắn nhủ với người thân yêu của mình đang ở trong tù. Vì vậy nó rất thật, cái hay và cái dở của thơ tôi cũng từ cái gốc ấy mà ra. Bây giờ đã lớn tuổi rồi, có nhiều điều trong cuộc sống đã thay đổi, kể cả thơ. Đó là điều tất yếu và đáng mừng. Tuy nhiên cái không thay đổi là tấm lòng người làm thơ đối với cuộc sống, đối với con người. Tôi hoan nghênh những tìm tòi về hình thức nếu những tìm tòi đó diễn đạt được điều tác giả muốn nói một cách thông minh, chân thật và xúc động. Mọi thứ làm dáng "tôn vinh chữ nghĩa" đều có mặt trái của nó là ngăn cản thơ đi vào lòng người. Tôi cũng nghĩ rằng thơ Việt Nam phải mang đặc điểm Việt Nam, càng phát triển đổi mới càng phải biết và bảo tồn cái gì là Việt Nam, là dân tộc trong thơ. (Trích "Nhà văn Việt Nam hiện đại"). ... Thơ hay phải chân thành, phải thật, không thể giả dối, thơ hay phải là những gì tác giả rứt ruột, rứt gan mình ra mà viết. ... Dù là "hướng nội" hay "hướng ngoại" (xét về mặt đề tài) thì thơ vẫn là tiếng nói của một trái tim gởi đến vạn trái tim khác, là sự đồng cảm giữa những tâm hồn. Thiếu cái đó, thơ chỉ còn là "xiếc" chữ nghĩa. Tôi vẫn tâm niệm suốt đời lời Bác Hồ nhận xét thơ tôi khi Người tiếp nhà thơ Thanh Hải (do chính nhà thơ Thanh Hải kể lại): "Thơ Giang Nam viết có tình". (Báo Đại Đoàn Kết 17/9/1998) Nguồn: http://www.binhthuan.gov....anhoc/0000/0014/index.htm Giang Nam tên thật là Nguyễn Sung, sinh ngày 2/2/1929. Các bút danh khác có Châu Giang, Hà Trung, Lê Minh (sử dụng trên báo chí công khai xuất bản ở miền Nam dưới chế độ Mỹ - Ngô Đình Diệm từ 1955 đến 1960). Quê quán: xã Ninh Bình, huyện Ninh Hoà, tỉnh Khánh Hoà. Nơi ở hiện nay: Thành phố Nha Trang. Địa chỉ nhà riêng: 46 Yersin Nha Trang. ĐT: 058.821447 Cơ quan: Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Khánh Hoà - 1 Quang Trung, Nha Trang. Thơ: - Tháng Tám ngày mai (thơ, NXB Văn học Hà Nội 1962) - Quê hương (thơ, NXB Văn nghệ Giải phóng 1962) - Quê hương (thơ, NXB Văn học Hà Nội 1965) - Người anh hùng Đồng Tháp (thơ và trường ca, NXB Giải phóng 1969) - Vầng sáng phía chân trời (thơ, NXB Văn học Giải phóng thành phố Hồ Chí Minh 1975) - Hạnh phúc từ nay (thơ, NXB Tác phẩm mới Hà Nội 1978) … Tháng Tám ngày mai (1962) Ánh chớp đêm giao thừa (1998)

Giang Nam tên thật là Nguyễn Sung, sinh ngày 2/2/1929. Các bút danh khác có Châu Giang, Hà Trung, Lê Minh (sử dụng trên báo chí công khai xuất bản ở miền Nam dưới chế độ Mỹ - Ngô Đình Diệm từ 1955 đến 1960).

Quê quán: xã Ninh Bình, huyện Ninh Hoà, tỉnh Khánh Hoà.
Nơi ở hiện nay: Thành phố Nha Trang.
Địa chỉ nhà riêng: 46 Yersin Nha Trang. ĐT: 058.821447
Cơ quan: Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Khánh Hoà - 1 Quang Trung, Nha Trang.

Thơ:
- Tháng Tám ngày mai (thơ, NXB Văn học Hà Nội 1962)
- Quê hương (thơ, NXB Văn nghệ Giải phóng 1962)
- Quê hương (thơ, NXB Văn học Hà Nội 1965)
- Người anh hùng Đồng Tháp (thơ và trường ca, NXB Giải phóng 1969)
- Vầng sáng phía chân trời (thơ, NXB Văn học Giải phóng thành phố Hồ Chí Minh 1975)
- Hạnh phúc từ nay (thơ, NXB Tác phẩm mới Hà Nội 1978)
- Thành phố chưa dừng chân (thơ, NXB Tác phẩm mới Hà Nội 1985)
- Một thời để nhớ (thơ, in chung 4 tác giả, Báo Văn hoá Văn phòng đại diện miền Trung xuất bản 1998)
- Ánh chớp đêm giao thừa (trường ca, NXB Quân đội nhân dân Hà Nội 1998)

Truyện:
- Vở kịch cô giáo (truyện ngắn, NXB Văn học Hà Nội 1962)
- Người Giồng Tre (truyện ngắn và ký, NXB Giải phóng 1969)
- Trên tuyến lửa (truyện ngắn và ký, Sở Văn hoá Thông tin Long An xuất bản 1984)
- Rút từ sổ tay chiến tranh (truyện ngắn và ký, NXB Văn nghệ Thành phố Hồ Chí Minh 1987)

Các giải thưởng văn học:
- Giải ba về truyện ngắn của báo Thống Nhất năm 1960: truyện ngắn "Những người thợ đá"
- Giải nhì về thơ tạp chí Văn nghệ năm 1961: bài thơ "Quê hương"
- Giải thưởng văn học Nghệ thuật Nguyễn Đình Chiểu (1960 - 1965) của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam về thơ: tập thơ "Quê Hương".


Tiểu sử tự thuật:

Tôi sinh ngày 2/2/1929 trong một gia đình nho học. Cha thi tú tài ở Huế không đỗ về nhà làm ruộng. Gia đình có 7 con (4 trai, 3 gái) thì 3 người trai đầu (trong đó có tôi) đều thi đỗ thành chung. 4 anh em trai đều thoát ly tham gia kháng chiến, đều là đảng viên. Người anh lớn ở lại miền Nam hoạt động cách mạng sau hiệp định Giơ-ne-vơ bị địch giết năm 1955 (liệt sĩ).

Tôi tham gia cách mạng tháng Tám và kháng chiến chống Pháp ở quê nhà, làm công tác thông tin tuyên truyền ở xã, sau lên tỉnh. Khi kết thúc chiến tranh tôi là Phó Trưởng ty Thông tin tỉnh Khánh Hoà. Vào Đảng Cộng sản Việt Nam tháng 8 năm 1948.

Sau hiệp định Giơ-ne-vơ 1954, tôi được bố trí ở lại miền Nam bí mật hoạt động trong các thành phố, thị xã (Nha Trang, Phan Thiết, Biên Hoà, Thủ Dầu Một, Sài Gòn...) và vùng giải phóng của ta (Khánh Hoà, Khu 6 - Cực Nam Trung Bộ, miền Đông Nam Bộ, Long An, Bến Tre, Thành phố Sài Gòn Gia Định...). Là Phó Tổng thư ký Hội Văn nghệ giải phóng miền Nam, uỷ viên tiểu ban văn nghệ Trung ương cục, trưởng ngành văn. Có thời gian làm Trưởng tiểu ban văn nghệ, uỷ viên Ban Tuyên huấn khu Sài Gòn Gia Định.

Sau ngày giải phóng miền Nam (1975) là uỷ viên thường vụ Hội Nhà văn Việt Nam và Hội Liên hiệp văn học nghệ thuật Việt Nam uỷ viên Ban Chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam khoá 2 và 3 đồng thời là uỷ viên Đảng đoàn, Tổng Biên tập Báo Văn Nghệ, Trưởng ban đối ngoại Hội Nhà văn. Nhiều năm là chủ tịch Hội Văn nghệ Phú Khánh và Khánh Hoà. Về mặt nhà nước là đại biểu Quốc hội khoá 6 (1976 - 1981), Phó Chủ tịch uỷ ban Nhân dân tỉnh Khánh Hoà (1989 - 1993).

Bài thơ đầu tiên được in: "Về vùng tạm chiếm" (1946) in trên báo "Thắng" của tỉnh Khánh Hoà.
Tập thơ đầu tay: "Tháng Tám ngày mai" (NXB Văn học 1962).
Tập truyện ngắn đầu tay: "Vở kịch cô giáo" (NXB Văn học 1962).

Cả 2 tập đều được in khi tác giả đang chiến đấu ở miền Nam.

Quan điểm về sáng tác:

... Tôi đã trở thành nhà thơ "không chuyên" vì công tác chính của tôi là xây dựng cơ sở, tuyên huấn, quản lý văn hoá văn nghệ và... sản xuất, đi theo bộ đội đánh giặc. Tôi thành "nhà thơ" lúc nào không biết, chủ yếu là không thể dằn lòng trước nỗi đau của bà con và nỗi đau của riêng mình. Tuyệt đại đa số bài viết là để cho mình đọc, để tự dặn với lòng mình hãy thuỷ chung với đất nước, với người mình thương. Đó là máu, là thịt của tôi chứ không phải ai khác, là "tự nguyện" với lòng mình chứ không phải do ai bắt buộc mình...

(Trích "Nhà văn Việt Nam: chân dung tự hoạ")

... Từ một cán bộ cách mạng hoạt động trong vùng bị chiếm suốt 9 năm chống Pháp và ở lại miền Nam tiếp tục cuộc chiến đấu chống Mỹ, tôi đã trở thành một người làm thơ. Tôi thấm thía một điều: cuộc chiến đấu ấy là ngọn nguồn cảm xúc lớn, là niềm vui và cả nỗi đau trong thơ tôi. Thú thật có những thời kỳ đen tối, hàng ngày đương đầu với cái chết, không một ai trong chúng tôi có ý nghĩ là mình sẽ còn sống khi kháng chiến thắng lợi. Thơ là trái tim đồng thời là chỗ dựa tinh thần của tôi. Những bài thơ đầu tiên là tôi viết cho mình, để mình đọc, để nhắn nhủ với người thân yêu của mình đang ở trong tù. Vì vậy nó rất thật, cái hay và cái dở của thơ tôi cũng từ cái gốc ấy mà ra. Bây giờ đã lớn tuổi rồi, có nhiều điều trong cuộc sống đã thay đổi, kể cả thơ. Đó là điều tất yếu và đáng mừng. Tuy nhiên cái không thay đổi là tấm lòng người làm thơ đối với cuộc sống, đối với con người.

Tôi hoan nghênh những tìm tòi về hình thức nếu những tìm tòi đó diễn đạt được điều tác giả muốn nói một cách thông minh, chân thật và xúc động. Mọi thứ làm dáng "tôn vinh chữ nghĩa" đều có mặt trái của nó là ngăn cản thơ đi vào lòng người.

Tôi cũng nghĩ rằng thơ Việt Nam phải mang đặc điểm Việt Nam, càng phát triển đổi mới càng phải biết và bảo tồn cái gì là Việt Nam, là dân tộc trong thơ. (Trích "Nhà văn Việt Nam hiện đại").

... Thơ hay phải chân thành, phải thật, không thể giả dối, thơ hay phải là những gì tác giả rứt ruột, rứt gan mình ra mà viết.

... Dù là "hướng nội" hay "hướng ngoại" (xét về mặt đề tài) thì thơ vẫn là tiếng nói của một trái tim gởi đến vạn trái tim khác, là sự đồng cảm giữa những tâm hồn. Thiếu cái đó, thơ chỉ còn là "xiếc" chữ nghĩa. Tôi vẫn tâm niệm suốt đời lời Bác Hồ nhận xét thơ tôi khi Người tiếp nhà thơ Thanh Hải (do chính nhà thơ Thanh Hải kể lại): "Thơ Giang Nam viết có tình".

(Báo Đại Đoàn Kết 17/9/1998)

Nguồn: http://www.binhthuan.gov....anhoc/0000/0014/index.htm
Giang Nam tên thật là Nguyễn Sung, sinh ngày 2/2/1929. Các bút danh khác có Châu Giang, Hà Trung, Lê Minh (sử dụng trên báo chí công khai xuất bản ở miền Nam dưới chế độ Mỹ - Ngô Đình Diệm từ 1955 đến 1960).

Quê quán: xã Ninh Bình, huyện Ninh Hoà, tỉnh Khánh Hoà.
Nơi ở hiện nay: Thành phố Nha Trang.
Địa chỉ nhà riêng: 46 Yersin Nha Trang. ĐT: 058.821447
Cơ quan: Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Khánh Hoà - 1 Quang Trung, Nha Trang.

Thơ:
- Tháng Tám ngày mai (thơ, NXB Văn học Hà Nội 1962)
- Quê hương (thơ, NXB Văn nghệ Giải phóng 1962)
- Quê hương (thơ, NXB Văn học Hà Nội 1965)
- Người anh hùng Đồng Tháp (thơ và trường ca, NXB Giải phóng 1969)
- Vầng sáng phía chân trời (thơ, NXB Văn học Giải phóng thành phố Hồ Chí Minh 1975)
- Hạnh phúc từ nay (thơ, NXB Tác phẩm mới Hà Nội 1978)

Tháng Tám ngày mai (1962)

Ánh chớp đêm giao thừa (1998)

Bài liên quan

Đỗ Trọng Khơi

Đỗ Trọng Khơi sinh ngày 17-7-1960 (24-6 năm Canh Tý), quê tại Trần Xá, Văn Cẩm, Hưng Hà, Thái Bình. Tham gia: - Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam - Hội viên Hội Văn học nghệ thuật Thái Bình Giải thưởng: - Giải Nhì cuộc thi thơ Tuần báo Văn nghệ năm 1989-1990 - Giải C của Uỷ ban Trung ương liên hiệp ...

Đào Phan Duân

Đào Phan Duân (1864-1947), mang hai họ, họ bố là họ Đào, Phan là họ mẹ, hiệu là Biểu Xuyên, sinh năm 1964 ở làng Biểu Chánh, huyện Tuy Phước, đỗ cử nhân phó bảng khoa Giáp Ngọ năm Thành Thái thứ 6 (1895), từng làm Tuần phủ Khánh Hoà. Do ở Bình Định có hai vị quan to họ Đào và đều được dân kính trọng ...

Đoàn Văn Cừ

Đoàn Văn Cừ sinh ngày 25/3/1913 ở thôn Đô Đò, xã Nam Lợi, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định trong một gia đình nông dân. Trước Cách mạng tháng Tám, ông dạy học, tham gia phong trào công nhân Nhà máy sợi Nam Định năm 1936. Ông tham gia phong trào Thơ mới với bút pháp tả chân mang đậm chất lãng mạn, sở ...

Hai Đức

Hai Đức (?-1882?), không biết họ tên đầy đủ, hiệu Tập Phước, người Chợ Lớn, tác giả của "Kim Gia Định phong cảnh vịnh".

Đoàn Nguyễn Tuấn 段阮俊

Đoàn Nguyễn Tuấn 段阮俊 (1751-?) hiệu Hải Ông, người làng Hải An (nay là xã Quỳnh Nguyên, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình). Ông có thi đỗ hương cống có lẽ vào đời Cảnh Hưng nhưng không làm quan cho triều Lê. Năm 1788, dường như ông cùng với một số nho sĩ vào Nam yết kiến Nguyễn Huệ và được vị thủ lĩnh ...

Vũ Duy Thông

Vũ Duy Thông sinh năm 1944 tại Phúc Yên, Vĩnh Phúc, tốt nghiệp khoa Văn, Đại học Tổng hợp Hà Nội, rồi làm báo, từng là biên tập viên, phó phòng, uỷ viên biên tập Bản tin trong nước của Thông tấn xã Việt Nam. Ông từng là Tổng biên tập tạp chí Diễn đàn Văn nghệ dù chỉ trong một thời gian ngắn. Năm ...

Đỗ Trung Lai

Đỗ Trung Lai sinh ngày 7 tháng 4 năm 1950 tại xã Phùng Xá, huyện Mỹ Đức, tỉnh Hà Tây. Hiện ở Hà Nội. Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam từ năm 1991. Tốt nghiệp khoa Vật lý, Trường Đại học quốc gia Hà Nội, nhà thơ Đỗ Trung Lai từng làm giáo viên trường Văn hoá quân đội, ...

Lâm Chương

Lâm Chương sinh năm 1942 (khai sinh ghi năm 1945) tại Gò Dầu Hạ, Tây Ninh. Thuở nhỏ ông đi học muộn. Học xong trung học, ông một mình ra miền Trung, vừa học vừa làm nhiều nghề, rồi nhập ngũ khoá 24 trường sĩ quan Thủ Ðức. Sau khi ra trường ông là sĩ quan quân lực Việt Nam Cộng hoà. Sau 1975 ông bị ...

Nguyễn Văn Mại 阮文邁

Nguyễn Văn Mại 阮文邁 (1853-?) tự Tiểu Cao 小皋, người xã Niêm Phò, nay là xã Quảng Thọ, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên, đỗ cử nhân khoa Giáp Thân, niên hiệu Kiến Phúc thứ nhất (1884), đỗ phó bảng khoa Kỷ Sửu, niên hiệu Thành Thái thứ nhất (1889) đời Nguyễn. Ông làm quan Tri phủ An Nhơn, Viên ngoại Cơ ...

Đạo Hạnh thiền sư 道行禪師, Từ Lộ

Đạo Hạnh thiền sư 道行禪師 (1072-1127) tên thật là Từ Lộ 徐路, là một thiền sư nổi tiếng Việt Nam thời nhà Lý. Cuộc đời ông được ghi lại dưới nhiều màu sắc huyền thoại. Dân chúng lập đền thờ ông tại chùa Thiên Phúc, nay thuộc xã Sài Sơn, huyện Quốc Oai, tỉnh Hà Tây (tục gọi là chùa Thầy) và chùa Láng ở Hà ...

Mới nhất

THPT Đinh Tiên Hoàng

THPT Đinh Tiên Hoàng đang không ngừng nỗ lực phát triển trở thành một ngôi trường với chất lượng giảng dạy tốt nhất, tạo ra những thế hệ học sinh chất lượng

THPT Thực nghiệm

Trường THPT Thực Nghiệm trực thuộc Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam. Trường là cơ sở giáo dục đào tạo công lập trong hệ thống giáo dục quốc dân và trong hệ thống các trường phổ thông của thành phố Hà Nội. Trường dạy học theo chương trình giáo dục Trung học phổ thông của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Tiếp ...

THPT Đông Kinh

Khẩu hiệu hành động: “ Hãy đặt mình vào vị trí cha mẹ học sinh để giảng giải giáo dục và xử lý công việc ” “ Tất cả vì học sinh thân yêu ”

THPT Hà Nội Academy

Những rào cản còn tồn tại kể trên sẽ được vượt qua bởi những công dân toàn cầu tích cực với nhiệm vụ chung tay xây dựng một thế giới tốt đẹp hơn thông qua việc nghiên cứu và tìm kiếm giải pháp cho những vấn đề toàn cầu bao gồm, nhưng không giới hạn ở nhân quyền, đói nghèo và công bằng xã hội. Nhận ...

http://thptkimlien-hanoi.edu.vn/

Qua 40 năm nỗ lực phấn đấu trong các hoạt động giáo dục, vượt khó khăn, thiếu thốn về cơ sở vật chất, trường THPT Kim Liên đã tạo dựn được uy tín vững chắc, là 1 trong 5 trường THPT hàng đầu của Thủ đô có chất lượng giáo dục toàn diện không ngừng nâng cao và trở thành địa chỉ tin cậy của các bậc ...

THPT Tô Hiến Thành

Trường THPT Tô Hiến Thành được thành lập từ năm học 1995-1996, theo quyết định của Ủy Ban nhân dân tỉnh Thanh Hóa. Đến tháng 6/2010, trường chuyển đổi loại hình sang công lập. Suốt 20 năm phát triển, thầy, cô giáo, thế hệ học sinh đã phấn đấu vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, từng bước phát triển ...

THPT Mai Hắc Đế

Trường THPT Mai Hắc Đế được thành lập năm 2009, sau gần 10 năm xây dựng và phát triển, Trường đã trở thành một địa chỉ tin cậy trong đào tạo bậc THPT trên địa bàn Hà Nội.

Trường Trung học phổ thông Nguyễn Gia Thiều

Nhìn lại chặng đường gần 60 năm xây dựng và trưởng thành , các thế hệ giáo viên và học sinh trường Nguyễn Gia Thiều có thể tự hào về truyền thống vẻ vang của trường ; tự hào vì trường đã đóng góp cho đất nước những Anh hùng , liệt sĩ , những người chiến sĩ , nhà khoa học , trí thức , những cán bộ ...

Trường Trung học phổ thông MV.Lô-mô-nô-xốp

Sứ mệnh Xây dựng Hệ thống giáo dục Lômônôxốp có môi trường học tập nền nếp, kỉ cương, chất lượng giáo dục cao; học sinh được giáo dục toàn diện, có cơ hội, điều kiện phát triển phẩm chất, năng lực và tư duy sáng tạo, tự tin hội nhập.

Trường Trung học phổ thông Quốc tế Việt Úc Hà Nội

Trường thực hiện việc giảng dạy và học tập theo chương trình do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành, thực hiện thời gian học tập theo biên chế năm học do Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định. Song song với chương trình này là chương trình học bằng tiếng Anh được giảng dạy bởi đội ngũ giáo viên bản ngữ giàu ...